Tài liệu Tập huấn Đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá môn Giáo dục chính trị TCCN năm 2014
PHẦN I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG
VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ
TRONG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP
I. Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục chính trị ở
trường Trung cấp chuyên nghiệp
1.1. Chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo của Đảng
Đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục chính trị (GDCT) ở trường
Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) là việc làm cần thiết nhằm thực hiện chủ
trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng.
Giáo dục nước ta đang thực hiện bước chuyển từ giáo dục tiếp cận nội
dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc
người học học được cái gì đến chỗ quan tâm người học vận dụng được cái gì
qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công
việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy
cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và
phẩm chất.
Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra chủ trương:
“Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi,
kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng
giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống,
năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách
nhiệm xã hội”.
Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện
giáo dục và đào tạo khẳng định:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và
học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng
kiếnthức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi
nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ
sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực.
Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý
các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng
công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Tập huấn Đổi mới phương pháp giảng dạy và kiểm tra đánh giá môn Giáo dục chính trị TCCN năm 2014
1 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÀI LIỆU TẬP HUẤN “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TCCN NĂM 2014 (Tài liệu dùng trong đợt tập huấn) Hà Nội, tháng 12 năm 2014 2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TÀI LIỆU TẬP HUẤN “ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY VÀ KIỂM TRA ĐÁNH GIÁ MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TCCN NĂM 2014 (Tài liệu dùng trong đợt tập huấn) Hà Nội, tháng 12 năm 2014 3 MỤC LỤC Stt Tên tài liệu Trang 1 Phần I - MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌCMÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TRONG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP 4 2 Phần II - THỰC HÀNH VẬN DỤNG ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC, PHƯƠNG PHÁP BIÊN SOAN CÂU HỎI/ BÀI TẬP/ ĐỀ THI TRONG CHƯƠNG TRÌNH MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ 38 3 Tham luận 61 4 ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TRONG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP PHẦN I MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN CHUNG VỀ ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ TRONG ĐÀO TẠO TRÌNH ĐỘ TRUNG CẤP CHUYÊN NGHIỆP I. Sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục chính trị ở trường Trung cấp chuyên nghiệp 1.1. Chủ trương đổi mới giáo dục và đào tạo của Đảng Đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục chính trị (GDCT) ở trường Trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) là việc làm cần thiết nhằm thực hiện chủ trương đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và đào tạo của Đảng. Giáo dục nước ta đang thực hiện bước chuyển từ giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực của người học, nghĩa là từ chỗ quan tâm đến việc người học học được cái gì đến chỗ quan tâm người học vận dụng được cái gì qua việc học. Để đảm bảo được điều đó, nhất định phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học theo lối "truyền thụ một chiều" sang dạy cách học, cách vận dụng kiến thức, rèn luyện kỹ năng, hình thành năng lực và phẩm chất. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra chủ trương: “Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi, kiểm tra theo hướng hiện đại; nâng cao chất lượng toàn diện, đặc biệt coi trọng giáo dục lí tưởng, giáo dục truyền thống lịch sử cách mạng, đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý thức trách nhiệm xã hội”. Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo khẳng định:“Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiếnthức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học”. Đồng thời với đổi mới phương pháp dạy học, Nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI còn nhấn mạnh yêu cầu đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo: “Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan. Việc thi, kiểm tra và 5 đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội”. 1.2. Vai trò của phương pháp dạy học 1.2.1. Vai trò của phương pháp trong nhận thức và hành động Phương pháp là cách thức, con đường mà chủ thể sử dụng để tác động vào đối tượng nhằm đạt dược mục đích đề ra. Trong mọi hoạt động của con người, phương pháp luôn là yếu tố quyết định sự thành công hay thất bại. C.Mác nói: “Các thời đại lịch sử khác nhau không phải ở chỗ sản xuất ra cái gì, mà ở chố sản xuất bằng cách nào”. Giáo trình Giáo dục chính trị (dùng trong đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp) cũng khẳng định: “Phương pháp là cách thức, con đường tiến hành để đạt được mục đích đề ra. Mọi khoa học đều dựa trên phương pháp nghiên cứu đúng đắn mới thực sự trở thành khoa học” (NXB Giáo dục Việt Nam, 2014, tr.7). 1.2.2. Vai trò của phương pháp trong hoạt động dạy học Thực chất đổi mới phương pháp dạy học môn Giáo dục chính trị (GDCT) ở trường trung cấp chuyên nghiệp (TCCN) là đổi mới quá trình dạy học (hoạt động dạy và hoạt động học), gắn liền với đổi mới mục tiêu, nội dung, chương trình, giáo trình, phương tiện dạy học, môi trường dạy học, kiểm tra đánh giá..., trong đó, phương pháp dạy học là một yếu tố cơ bản có vai trò quan trọng nhất của quá trình dạy học. Trong hoạt động dạy học, hoạt động của người dạy và hoạt động của người học tạo ra phương pháp dạy học. Mọi yếu tố khác của quá trình dạy học phải thông qua hai hoạt động này mà phát huy tác dụng. 1.3. Thực trạng đổi mới phương pháp dạy học GDCT ở trường TCCN 1.3.1. Những ưu điểm chủ yếu trong đổi mới phương pháp dạy học môn GDCT ở trường TCCN: Thực tế cho thấy, việc dạy học GDCT ở trường TCCN hiện nay đã có nhiều tiến bộ về nhận thức, nội dung, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá. Những năm gần đây, các trường TCCN đều đã chú trọng vào đổi mới phương pháp dạy học môn GDCT. Vì có đổi mới căn bản phương pháp dạy học thì chúng ta mới có thể tạo được sự đổi mới thực sự trong giáo dục, mới có thể đào tạo được lớp người năng động, sáng tạo có tiềm năng cạnh tranh trí tuệ trong bối cảnh nhiều nước trên thế giới đang hướng tới nền kinh tế tri thức. 6 Trong những năm qua,có rất nhiều giảng viên ở trường TCCN là những người yêu nghề, say sưa với công tác giảng dạy, lo lắng, đầu tư cho chuyên môn, tìm mọi biện pháp để có giờ dạy tốt, học tốt. Nhiều giảng viên đã cố gắng vượt qua những khó khăn về cơ sở vật chất, về đời sống để sáng tạo các hình thức tổ chức dạy học, đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, tìm cách truyền cho người học những cảm hứng trong giờ học. Nhiều trường đã tổ chức nhiều hoạt động chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề, hội thảo về đổi mới PPDH, ứng dụng công nghệ thông tin vào trong dạy học, tổ chức khai thác kênh hình, kênh tiếng, bổ sung thêm nguồn tư liệu dạy học, tổ chức hội giảng, viết sáng kiến kinh nghiệm... Những hoạt động chuyên môn đó ít nhiều đã đạt hiệu quả bước đầu. Nhiều giờ học đã diễn ra sinh động, hấp dẫn hơn, người học tích cực làm việc, không khí học tập sôi nổi, hứng thú hơn. 1.3.2. Những vấn đề còn tồn tại trong đổi mới môn GDCT ở trường TCCN Bên cạnh những ưu điểm nói trên, vẫn còn những vấn đề tồn tại, yếu kém, bất cập trong việc đổi mới nói chung, đổi mới PPDH nói riêng. Hạn chế đó đã ảnh hưởng lớn tới chất lượng và hiệu quả của quá trình dạy bộ môn GDCT ở các trường TCCN. Nhìn chung, phương pháp dạy học môn GDCT ở trường TCCN vẫn chậm biến đổi. Việc đổi mới phương pháp dạy học không diễn ra thường xuyên, liên tục mà chỉ “rộ lên” ở những kỳ thi, hội giảng hoặc những đợt kiểm tra, thanh tra chứ chưa thực sự chuyển biến trong ý thức của từng giảng viên và cán bộ quản lý giáo dục. Thực trạng đó biểu hiện ở: Thứ nhất, nhiều giảng viên nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng mới chỉ là nhận thức về mặt lý thuyết, còn thực tế thì rất chậm đổi mới, chủ yếu vẫn dạy theo kiểu tuỳ hứng, nội dung nào thuộc sở trường, thế mạnh của mình thì “phô diễn” chứ không chú trọng hướng đến rèn kỹ năng và hình thành thái độ. Thứ hai, tuy nhận thức được mấu chốt của đổi mới phương pháp dạy học là phải chuyển từ vai trò “thầy là trung tâm” sang “trò làm trung tâm” nhưng về biện pháp cụ thể để thực hiện việc “chuyển” đó vẫn còn là vấn đề lúng túng. Chẳng hạn, có giảng viên quan niệm rằng, đặt nhiều câu hỏi là đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực, nhưng kết quả là giờ học bị biến thành giờ “hỏi – đáp” quá căng thẳng, khô khan và làm cho người học ít hứng thú học tập. Có giảng viên chú trọng sử dụng công nghệ thông tin, nhưng giờ giảng “đọc - chép” lại được thay bằng giờ “chiếu – chép”,v.v.. Thứ ba, một bộ phận giảng viên ít được cập nhật thông tin khoa học, chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Vì vậy, trong dạy học, thầy làm việc là chủ yếu, trò thụ động ghi chép còn 7 khá phổ biến, thậm chí hiện tượng đọc chép còn khá tràn lan. Mặt khác, cũng có một bộ phận GV tuy nhận thức được vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung, phương pháp dạy học môn GDCT nói riêng, nhưng lại cho rằng người học yếu kém (do đầu vào thấp) không thể vận dụng các biện pháp đổi mới nên cũng chỉ đọc chép, không rèn luyện cho họ năng lực tư duy độc lập, tự chiếm lĩnh kiến thức và trang bị phương pháp học tập tốt. Từ đó dẫn tới tình trạng người học không thích học môn học này. Thứ tư, việc kiểm tra đánh giá người học chỉ mới hướng đến cho điểm, đối phó, chưa đánh giá được khả năng nhận thức, khả năng rèn luyện kĩ năng, năng lực hành vi... Vì thế đã ảnh hưởng không nhỏ tới việc đổi mới PPDH và ít tạo ra được hứng thú học tập cho người học. Thứ năm, một bộ phận người học hiện nay chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò của môn GDCT trong nhà trường, Nhiều em khi được hỏi “Học GDCT để làm gì ?” thì tỏ ra khá mơ hồ, không xác định được. Vì không hiểu nên không yêu thích, không say mê và chỉ học để đối phó với thi cử, kiểm tra. Phương pháp học cũng rất hạn chế, phần lớn người học chỉ học thuộc lại những gì GV cho ghi trên lớp, hoặc chi tiết hơn thì học trong giáo trình. Điều đó dẫn đến tình trạng “học vẹt”, học mà không hiểu bản chất của vấn đề. Nhiều GV rơi vào tình trạng ôm đồm kiến thức vì sợ người học không hiểu bài, dẫn đến tình trạng quá tải. Việc hướng dẫn cho người học phương pháp học tập bộ môn vẫn chưa được coi trọng. GV mới chỉ nặng về cung cấp kiến thức mà chưa chú ý chỉ ra cho người học con đường, cách thức để lĩnh hội kiến thức ấy (phương pháp tự học). Vì thế, họ thường lúng túng khi tự học ở nhà, và khi thi, kiểm tra, người học gần như nhắc lại những gì GV đã dạy, khả năng diễn đạt bằng ý hiểu, khả năng trình bày, bảo vệ quan điểm của mình còn rất yếu. Những vấn đề còn tồn tại nói trên dẫn đến hệ quả là người học được đào tạo trong trường mang tính thụ động, hạn chế khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã học để giải quyết các tình huống trong cuộc sống. Chính vì vậy, đòi hỏi chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa việc nhận thức về đổi mới phương pháp dạy học, phải có những biện pháp đổi mới PPDH đúng đắn, phù hợp với đặc trưng bộ môn và nhu cầu phát triển của nền kinh tế – xã hội hiện nay. II. Định hướng, yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học GDCT trong đào tạo trình độ TCCN theo định hướng năng lực 2.1. Đổi mới phương pháp dạy học theo định hướng năng lực - Chương trình và phương pháp dạy học truyền thống có thể được gọi là chương trình, phương pháp dạy học “định hướng nội dung”. 8 Đặc điểm cơ bản của chương trình và phương pháp dạy học này là chú trọng việc truyền thụ kiến thức khoa học theo các môn học đã được quy định trong chương trình. Phương pháp dạy học vì thế mang tính thụ động, ít chú ý đến việc hình thành và phát triển năng lực người học nên sản phẩm giáo dục là những con người có nhiều hạn chế về năng lực sáng tạo và năng động trong xử lý các tình huống thực tiễn. Do đó, chương trình và phương pháp dạy học theo định hướng nội dung không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội. Ngày nay, do sự phát triển của tri thức khoa học, những kiến thức được truyền đạt theo chương trình cũ thường xuyên bị trở nên lạc hậu. Để thích ứng với tình huống thực tiễn, con người luôn cần phải được trau dồi tri thức mới, do đó, cần có khả năng học tập suốt đời. Chương trình và phương pháp dạy học theo định hướng nội dung không đáp ứng được yêu cầu đào tạo cho con người khả năng học tập suốt đời đó. - Đổi mới căn bản việc dạy học hiện nay là chuyển từ dạy học theo định hướng nội dung sang dạy học theo định hướng năng lực, tức là dạy học định hướng kết quả đầu ra, nhằm mục tiêu phát triển năng lực người học, chú trọng năng lực vận dụng tri thức trong giải quyết các tình huống thực tiễn của cuộc sống và nghề nghiệp. Chương trình này nhấn mạnh vai trò của người học với tư cách chủ thể của quá trình nhận thức, tập trung vào chất lượng đầu ra, chú trọng vào mục tiêu là không phải giúp người học biết được cái gì, mà là giúp người học làm được gì. Do đó, chương trình này không quy định những nội dung dạy học chi tiết, mà quy định những kết quả đầu ra mong muốn của quá trình giáo dục, trên cơ sở đó đưa ra những hướng dẫn chung về việc lựa chọn nội dung, phương pháp, tổ chức và đánh giá kết quả dạy học nhằm đạt được kết quả đầu ra mong muốn. Kết quả học tập mong muốn thường được mô tả chi tiết thông qua hệ thống các năng lực. Chương trình giáo dục theo định hướng năng lực như vậy đã được bàn đến nhiều từ những năm 90 của thế kỷ XX và ngày nay đã trở thành xu hướng giáo dục quốc tế. Bảng so sánh dưới đây cho thấy một số khác biệt cơ bản của chương trình giáo dục theo định hướng năng lực so với chương trình giáo dục theo định hướng nội dung: Chương trình định hướng nội dung Chương trình định hướng năng lực Mục tiêu giáo dục Mục tiêu dạy học được mo tả không chi tiết và không nhất thiết phải quan sát, đánh giá được Kết quả học tập được mô tả chi tiết và có thể quan sát, đánh giá được, thể hiện được mức độ tiến bộ của người học một cách liên tục 9 Nội dung giáo dục Việc lựa chọn nội dung dựa vào các khoa học chuyên môn, không gắn với các tình huống thực tiễn và được quy định chi tiết trong chương trình Phương pháp dạy học Giáo viên là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học. Học sinh tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn Giáo viên chủ yếu là người tổ chức, hỗ trợ học sinh tự lực và tích cực lĩnh hội tri thức. Chú trọng khả năng giải quyết vấn đề, khả năng giao tiếp,.v.v..; chú trọng sử dụng các quan điểm, phương pháp và kỹ thuật dạy học tích cực, các phương pháp dạy học thí nghiệm, thực hành,.v.v.. Hình thức dạy học Chủ yếu dạy học lí thuyết trên lớp Tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã họi, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học, trải nghiệm sáng tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học Đánh giá kết quả học tập của học sinh Tiêu chí đánh giá được xây dựng chủ yếu dựa trên sự ghi nhớ và tái hiện nội dung đã học Tiêu chí đánh giá dựa vào năng lực đầu ra, có tính đến sự tiến bộ trong quá trình học tập, chú trọng khả năng vận dụng trong các tình huống thực tiễn Cấu trúc chung của năng lực được mô tả là sự kết hợp của 4 năng lực thành phần là: Năng lực chuyên môn (Professional); Năng lực phương pháp (Methodical competency); Năng lực xã hội (Social competency); Năng lực cá thể (Induv ... g hộ chủ nghĩa xã hội, rèn luyện bản lĩnh chính trị cho học sinh. Tuy nhiên, do đặc thù của môn học nặng về lý luận và tính chính trị - xã hội trực tiếp, mang tính trừu tượng và khái quát hóa cao. Bên cạnh những tri thức khoa học với nhiều khái niệm, thuật ngữ, phạm trù, quy luật, môn học còn có nhiều nội dung quan trọng trong đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước ta. Vì vậy, để đạt được mục tiêu của môn học là một vấn đề khó khăn. Trong những năm gần đây, đổi mới phương pháp giảng dạy là vấn đề được đặc biệt quan tâm ở tất cả các môn học, cấp học. Với môn Giáo dục Chính trị vấn đề này được đặc biệt coi trọng. Ở các trường đại học, cao đẳng và trung cấp trên cả nước đã nhiều hội thảo đưa ra vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy môn Chính trị. Hàng năm, 73 bộ giáo dục có chương trình tập huấn giành cho giáo viên giảng dạy môn Chính trị và nội dung đổi mới phương pháp giảng dạy luôn là vấn đề được đề cập tới nhiều nhất. Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, rất nhiều giải pháp được đưa ra như cần đổi mới phương pháp thuyết trình; kết hợp thuyết trình với giải quyết vấn đề; thảo luận nhóm; tổ chức trò chơi tuy nhiên tất cả nhưng phương pháp ấy đều được kết hợp với việc sử dụng bài giảng điện tử như là một công cụ hỗ trợ đắc lực. Tuy nhiên, trên thực tế các giáo viên đã tận dụng được hết những ưu việt của bài giảng điện tử chưa? Một thực trạng là: giáo viên rất tích cực trong việc sử dụng máy chiếu, máy tính trong quá trình giảng dạy nhưng lại chưa đầu tư đúng mức vào việc soạn một bài giảng điện tử. Rất nhiều bài giảng tôi được tham dự chỉ đơn giản là trình chiếu một bản Word, hay có một số bài giảng nặng về trình chiếu hình ảnh. Một bài giảng như vậy tuy tránh được lối học “đọc- chép”, giáo viên không phải đọc cho học sinh chép, nhưng thực tế, học sinh đã nhìn lên phông chiếu “tự chép”, không để tâm vào việc nghe giảng. Chính vì điều đó, tôi thiết nghĩ, nếu tóm tắt nội dung giáo trình bằng những mudun kiến thức thì giáo viên sẽ rút ngắn được nhiều thời gian cho việc thuyết trình một vấn đề lý luận trừu tượng, giáo viên sẽ có nhiều thời gian hơn để phân tích, lấy ví dụ thực tế minh họa. Bài giảng như vậy sẽ sinh động hơn làm cho học sinh hứng thú hơn trong quá trình học tập, nhờ đó, học sinh hiểu bài nhanh hơn. Học sinh sẽ không cảm thấy sợ môn học và dần dần sẽ trở nên yêu thích môn học. Lúc này, mục tiêu trang bị thế giới quan, phương pháp luận khoa học sẽ được thực hiện dễ dàng hơn. Vì vậy, tôi mạnh dạn chọn tham luận “Sơ đồ hóa một số nội dung phần chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong môn Giáo dục Chính trị” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình. Có một số ý kiến cho rằng việc sơ đồ hóa phần Triết học chỉ làm “tầm thường hóa” khoa học mà thôi! Chúng ta ai cũng biết, trong văn học, thơ đường luật, thơ thất ngôn bát cú, nếu không dịch thì rất khó để cảm nhận được mặc dù chắc chắn các bài dịch ấy đã làm cho một số ý thơ không được truyền tải hết. Chính vì vậy, việc sơ đồ hóa một số nội dung trong bài học phải được thực hiện với sự hướng dẫn của giáo viên. Thực tế, năm 1986, tác phẩm : “Sơ đồ và biểu đồ về chủ nghĩa duy vật biện chứng ” và “Sơ đồ và biểu đồ về chủ nghĩa duy vật lịch sử” của Vla-Xô-Va T.F và I-Va-Nốp E.A đã chứng minh phần triết học hoàn toàn có thể được sơ đồ hóa. Tuy nhiên, nội dung trong cuốn này mang tính trích kinh điển nhiều hơn là sơ đồ hóa nội dung trong giáo trình Chính trị Theo các chuyên gia của Hiệp hội Nghe nhìn Quốc tế, chúng ta biết: Khi nghe, con người sẽ tiếp nhận và chỉ lưu giữ được 10-30% nội dung thông tin; hoặc 20-40% khi chỉ nhìn, nhưng hiệu quả sẽ đạt tới 60 - 80% nếu kết hợp cả 74 hai chức năng trên. Ngoài ra, nếu vừa nghe, vừa nhìn lại vừa thảo luận, trao đổi thì hiệu quả lưu giữ thông tin còn cao hơn rất nhiều. 1. Thế nào là sơ đồ hóa? Sơ đồ hóa là phương pháp diễn đạt nội dung dạy học bằng ngôn ngữ sơ đồ. ngôn ngữ sơ đồ được thể hiện bằng các ký hiệu khác nhau như hình vẽ lược đồ, đồ thị, bảng biểu, 2. Những chú ý khi thực hiện sơ đồ hóa - Không phải nội dung nào cũng có thể sơ đồ hóa - Cần xem xét kỹ nội dung nghiên cứu, nếu không, việc sơ đồ hóa sẽ làm cho vấn đề trở nên siêu hình - Từ ngữ dùng trong sơ đồ phải ngắn gọn, súc tích, đủ ý - Cần nhất quán trong việc sử dụng các ký hiệu trên sơ đồ 3. Những ưu điểm và hạn chế của phương pháp sử dụng sơ đồ hóa a. Ưu điểm Khi sử dụng phần mềm hỗ trợ, việc giảng dạy bằng sơ đồ sẽ không làm mất thời gian giáo viên vẽ trên bảng và xóa bảng Khoa học phát triển, việc vẽ sơ đồ bằng các phần mềm máy tính trở nên khoa học và có thẩm mỹ. Kích thích vào thị giác của người học, làm cho học sinh nhớ bài giảng lâu hơn Việc sơ đồ hóa làm cho nội dung được trình bày ngắn gọn, cô đọng hơn, học sinh dễ tiếp thu hơn. Sơ đồ hóa giúp giáo viên hệ thống được kiến thức một cách nhanh chóng, có lôgic, đem lại hiệu quả cao khi kết thúc một vấn đề. Việc sử dụng sơ đồ hóa buộc giáo viên phải nghiêm túc và sáng tạo trong quá trình nghiên cứu và giảng dạy, bởi lẽ, giáo viên chỉ có thể sơ đồ hóa nội dung bài giảng khi đã nắm bắt được bản chất của vấn đề Giáo viên tích cực sử dụng sơ đồ trong giảng dạy sẽ phát triển khả năng sáng tạo của bản thân, ngoài ra, đó cũng là cách để kích thích học sinh sáng tạo. Trong một tiết giảng, giáo viên cũng có thể hướng dẫn để học sinh cùng thực hiện sơ đồ hóa nội dung bài học. Như vậy, học sinh sẽ hiểu bài sâu hơn, nhớ bài lâu hơn. b. Hạn chế Một số nội dung khi sơ đồ hóa không truyền tải hết nội dung khoa học của vấn đề Với những giáo viên chưa sử dụng thành thạo máy tính và các phần mềm hỗ trợ thì việc sơ đồ hóa nội dung kiến thức trên máy tính là tương đối khó khăn 4. Những nội dung được sơ đồ hóa Trong quá trình giảng dạy, mỗi lần đọc giáo trình, tôi đều cố gắng tìm ra được sự liên hệ trong nội dung khoa học của vấn đề và tìm nhiều cách để sơ đồ dễ nhất cho học sinh hiểu. ví dụ: Khi giảng về nội dung quy luật lượng chất, với 75 những khái niệm rất khó hiểu như: độ, giới hạn độ, điểm nút, bước nhảy. Nếu chỉ dừng lại ở việc hướng dẫn đọc giáo trình thì học sinh không hiểu được vấn đề, nhưng khi tôi đưa ra sơ đồ sau thì học sinh không chỉ nắm được những khái niệm nhanh chóng mà còn tự đưa ra được nhiều ví dụ minh họa cho nội dung bài học. Ngoài ra, sử dụng sơ đồ sẽ giúp cho giáo viên giới thiệu những ý chính trong một nội dung cụ thể. Ví dụ: ĐỐI TƯỢNG TƯ TƯỞNG HCM CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN ĐƯỜNG LỐI CM CỦA ĐẢNG I. KHÁI NIỆM VÀ ĐỐI TƯỢNG HỌC TẬP 2. Đối tượng học tập 76 Việc sơ đồ hóa có sử dụng phần mềm hỗ trợ sẽ làm cho bài giảng sinh động hơn, giáo viên không mất nhiều thời gian sử dụng phấn bảng. HẠT 3 CÂY 3 HẠT 2 CÂY 2 HẠT 1 CÂY 1 1.13. Khuynh hướng của sự vận động phát triển Khi “chốt” lại những nội dung chính của vấn đề nghiên cứu, sử dụng sơ đồ sẽ nhanh chóng và hiệu quả hơn nhiều lần Sự tác động trở lại TTXH Sự tác động qua lại giữa các hình thái YTXH Tính kế thừa của YTXH Tính vượt trước của YTXH Tính lạc hậu của YTXH Tính độc lập tương đối và sức mạnh cải tạo của YTXH Tồn tại xã hội Khi kết thúc bài học, giáo viên cũng có thể đưa ra sơ đồ như sau và yêu cầu học sinh sắp xếp lại nội dung đúng vị trí. Đây là phương pháp sử dụng trò chơi trong quá trình dạy học. “Chơi mà học, học mà chơi”, đây là cách để học sinh tự củng cố bài học 77 Ví dụ 1: Sắp xếp lại cho đúng vai trò của từng quy luật trong PBCDV Ví dụ 2: Sắp xếp lại cho đúng những đặc điểm của từng hình thức trong quá trình nhận thức Sơ đồ hóa nội dung bài học không chỉ là công việc của giáo viên. Để việc dạy học này có hiệu quả, giáo viên cần gợi ý, hướng dẫn để học sinh tham gia vào việc sơ đồ hóa nội dung bài học. Đây cũng là cách để học sinh phát triển kỹ năng học tập nghiên cứu, bồi dưỡng phương pháp, lòng quyết tâm, ý chí tự học, biết vận dụng những điều đã học vào trong thực tiễn. Ví dụ. trong bài số 4, giáo viên có thể đưa ra mô hình sơ đồ tư duy về vấn đề môi trường, dân số như sơ đồ sau và yêu cầu 78 Học sinh thảo luận theo nhóm và hoàn thiện sơ đồ MÔI TRƯỜNG 4.2. Vấn đề môi trường CẤU TRÚC XÃ HỘI PHI GIAI CẤP CẤU TRÚC XÃ HỘI CÓ GIAI CẤP PTSX HÌNH THÁI KINH TẾ - XH CÔNG CỤ QUẢN LÝ XH QUAN HỆ GIỮA NGƯỜI VỚI NGƯỜI VÍ DỤ 6.1. So sánh cấu trúc xã hội phi giai cấp và xã hội có giai cấp Sau đây là những vấn đề tôi đã nghiên cứu và thực hiện sơ đồ hóa, tôi rất mong nhận được sự đóng góp của quý thầy cô và các em học sinh để những sơ đồ này được hoàn thiện hơn. (phụ lục) KẾT LUẬN Trên đây là trao đổi của cá nhân tôi về vấn đề sơ đồ hóa nội dung phần triết học theo giáo trình Chính trị dành cho học sinh trung cấp. Tôi biết đây không còn là vấn đề mới. Tuy nhiên, việc sơ đồ hóa này mới chỉ được thực hiện rải rác, phân tán, chưa có hệ thống. Tôi hy vọng, những nội dung trong tham luận này sẽ giúp ích nhiều cho giáo viên trong quá trình giảng dạy. Trong năm học tới, sau khi nhận được ý kiến đóng góp từ đồng nghiệp và những cá nhân có quan tâm, tôi sẽ hoàn thiện và mở rộng phạm vi của vấn đề đang nghiên cứu. 79 Tham luận SỬ DỤNG SƠ ĐỒ TƯ DUY CHO TIẾT TỔNG KẾT CHƯƠNG TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ ThS Phạm Thị Thơm Trường cao đẳng Công nghệ Môi trường Hà Nội 1. Khái quát sơ đồ tư duy Sơ đồ tư duy là hình ảnh trực quan và cảm giác để gợi nhắc dưới hình thức kết nối ý tưởng. Những chi tiết lấy từ sơ đồ tư duy rất dễ nhớ, bởi nó theo mô hình tư duy của bộ não. Khi dạy học theo phương pháp sơ đồ tư duy thực chất là học theo phương pháp cây kiến thức. Gọi N1 là trung tâm của sơ đồ tư duy thì N2 –N3 là nhánh của nó. Như vậy, sơ đồ tư duy là hình thức ghi chép sử dụng màu sắc, hình ảnh để mở rộng , đào sâu ý tưởng. Sơ đồ tư duy là một công cụ tổ chức tư duy nền tảng, có thể miêu tả đó là một kĩ thuật hình họa với sự kết hợp giữa từ ngữ, hình ảnh, đường nét, màu sắc phù hợp với cấu trúc, hoạt động và chức năng của bộ não, giúp con người khai thác tiềm năng vô tận của bộ não. Cơ chế hoạt động của sơ đồ tư duy chú trọng tới hình ảnh, màu sắc với các mạng lưới liên tưởng (các nhánh).Sơ đồ tư duy là công cụ đồ họa nối các hình ảnh có liên hệ với nhau. Vì vậy, có thể vận dụng sơ đồ tư duy vào hỗ trợ dạy học kiến thức mới, củng cố kiến thức sau mỗi tiết học, ôn tập hệ thống hoá kiến thức sau mỗi chương,... và giúp cán bộ quản lý giáo dục lập kế hoạch công tác. 2. Các bước lập sơ đồ tư duy trong dạy học Sơ đồ tư duy được lập trên phần mềm Imind Map. Sau đây là các bước lập sơ đồ tư duy trên phần mềm Buzans Imind Map V4. Bước 1:Vẽ chủ đề ở trung tâm trên một mảnh giấy (đặt nằm ngang). Bước 2: Vẽ thêm các tiêu đề phụ vào chủ đề trung tâm (nhánh N1). Bước 3:Trong từng tiêu đề phụ vẽ thêm các ý và các chi tiết hỗ trợ (nhánh N2, N3). Bước 4: Người lập có thể thêm nhiều hình ảnh nhằm giúp các ý quan trọng thêm nổi bật cũng như giúp lưu chúng vào trí nhớ tốt hơn. Bước 5: Kiểm tra lai Bản đồ tư duy đã hoàn thành và diễn đạt, trình bày được các ý tưởng về kiến thức đã tạo lập. Lưu ý:Để lập sơ đồ tư duy cần phân loại như sau: + Sơ đồ tư duy theo đề cương; + Sơ đồ tư duy theo chương; + Sơ đồ tư duy theo vấn đề nghiên cứu. 80 Như vây, sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học, học sinh nắm được trọng tâm của vấn đề, đỡ tốn thời gian ghi chép, cải thiện sự sáng tạo và trí nhớ, nắm bắt cơ hội khám phá tìm hiểu, hoàn thiện bộ não, tiếp thu linh hoạt và hiệu quả, học sinh tự tin hơn vào khả năng của mình. 3. Sử dụng sơ đồ tư duy trong tổng kết chương Sơ đồ tư duy là một công cụ khá mạnh trong những tiết ôn tập, tổng kết chương. Thông thường được thực hiện theo tiến trình sau: 1. Sơ đồ hoá kiên thức 2. Nội dung cần ôn tập 3.Ôn tập tổng kết. Bước 1: Giaonhiệm vụ về nhà cho học sinhbằng những câu hỏi gợi mở theo trọng tâm kiến thức của chương. Bước 2: .Hướng dẫn học sinh ôn tập theo những chủ điểm đã có trong sơ đồ tư duy. Ví dụ giáo viên đưa ra tiêu đề chính của chương sau đó cho các nhánh N1 yêu cầu các em vẽ thêm các nhánh N2, N3... Bước 3: Cho học sinh hoàn thiện sơ đồ tư duy còn thiếu Bước 4: Đưa ra sơ đồ tư duy hoàn thiện. Trên mỗi sơ đồ với những nội dung kiến thức của từng vấn đề giáo viên lựa chọn hình ảnh minh hoạ cho phù hợp với những nội dung kiến thức đó. Mỗi nhánh của sơ đồ tư duy là một vấn đề lớn của chương cần nắm vững. Ví dụ: Khi thực hiện tiết ôn tập tổng kết Chương I. Chủ nghĩa Mác – Lênin. Vì là chương đầu tiên học sinh chưa làm quen với sơ đồ tổng kết nên giáo viên cho chủ đề trung tâm và tiêu đề các nhánh chính sau đó vẽ các nhánh phụ nhưng còn thiếu, học sinh thảo luận nhóm để hoàn thiện sơ đồ còn thiếu sau: Mỗi nhóm được phát một sơ đồ như trên, trên khổ giấy A3, các nhóm thảo luận sau đó cử đại diện lên trình bày theo sơ đồ nhóm mình đã hoàn thành. Giáo viên cùng các bạn nắng nghe và nhận xét, các nhóm nhận xét của nhau. Cuối cùng là giáo viên nhân xét đưa ra sơ đồ hoàn thiện 81 Sơ đồ tư duy tổng kết Chương I. “Chủ nghĩa Mác Lênin” Giáo viên thuyết trình theo sơ đồ tư duy chuẩn vừa nhấn mạnh trọng tâm những nội dung cần nhớ sau đó đặt câu hỏi gợi mở để học sinh rút ra vai trò ý nghĩa của chủ nghĩa Mác - Lênin từ đó vận dụng vào cuộc sống và học tập. Ví dụ 2: Thực hiện tiết tổng kết chương “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam”. Vì học sinh đã quen với việc tổng kết chương bằng sơ đồ tư duy . Nên khi tiến hàng tổng kết chương này giáo viên yêu cầu học sinh tư duy nhiều hơn. Bước 1: Cho học sinh chủ đề trung tâm, bước 2 cho học sinh các tiêu đề phụ( nhánh N1) sau đó yêu cầu học sinh vẽ thêm các nhánh N2, N3. Học sinh thảo luận để hoàn thành sơ đồ tư duy sau: Sau đó các nhóm lên thuyết trinh bằng sơ đồ tư duy của nhóm mình, các nhóm khác nhận xét. Tôi nhận thấy rằng các em rất sáng tạo khi vẽ sơ đồ tư duy. Cuối cùng giáo viên đưa sơ đồ tư duy hoàn thiện và nhấn mạnh trọng tâm. Đồng thời đặt câu hỏi gợi mở để học sinh biết vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống đặc biệt qua bài học học sinh hiểu đường lối quan điểm của Đảng và Nhà nước hơn. 82 Sơ đồ tư duy tổng kết chương “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam” Qua sơ đồ tư duy hệ thống kiến thức, giáo viên chốt lại những kiến thức cần nhớ, đặc biệt là các từ khoá để học sinh hiểu và nắm vững kiến thức nhờ hình ảnh trên sơ đồ. Có thể nói, đây là một phương pháp giúp người học lưu kiến thửc trong trí nhớ được sâu và dài hơn so với các phương pháp khác. Trong qua trình dạy học, tùy từng nội dung kiến thức giáo viên có thể sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học kiểm tra kiến thức cũ, dạy kiến thức của bài mới, tổng kết bài và tổng kết chương. Tuy nhiên việc sử dụng sơ đồ tư duy có hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào phương pháp của giao viên. Sơ đồ tư duy cũng là một phương pháp, để đạt hiệu quả giáo viên phải áp dụng đồng thời các phương pháp khác như thuyết trình, phát vấnNhư vậy, với phương pháp dạy học như trên đã truyền tải được nội dung môn học tới học sinh phù hợp với đặc điểm của học sinh trung cấp chuyên nghiệp đảm bảo được mục tiêu giảng dạy.
File đính kèm:
- tai_lieu_tap_huan_doi_moi_phuong_phap_giang_day_va_kiem_tra.pdf