Tần suất rối loạn cương ở những bệnh nhân nam bị bướu lành tuyến tiền liệt trước khi cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo
TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu: Rối loạn cương (RLC) ngày càng được phát hiện nhiều hơn đặc biệt ở nam giới lớn tuổi. Bên cạnh đó, bướu lành tuyến tiền liệt (TTL) cũng là một bệnh rất phổ biến trên các đối tượng này. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối tương quan của hai bệnh trên. Công trình nghiên cứu của chúng tôi nhằm xác định tần suất RLC ở những bệnh nhân nam bị bướu lành TTL trước khi cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu đạo. Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 12 năm 2012 tại khoa Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy có 258 bệnh nhân nam bị bướu lành TTL có chỉ định cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu đạo. Trước khi phẫu thuật, chúng tôi tiến hành thăm khám tổng quát, thăm khám trực tràng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác để đánh giá yếu tố nguy cơ của RLC như bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, suy thận, tăng huyết áp Đặc biệt, chúng tôi sử dụng bảng câu hỏi IPSS và IIEF‐15 để đánh giá về triệu chứng đường tiết niệu dưới cũng như chức năng cương của bệnh nhân. Từ đó chúng tôi rút ra kết luận về mối liên quan giữa RLC và bướu lành TTL cũng như các yếu tố nguy cơ khác. Kết quả: Nghiên cứu trên 358 bệnh nhân bị bướu lành TTL, tuổi trung bình là 74,8. Tần suất RLC là 93,4%, trong đó RLC nhẹ là 22,9%, RLC trung bình là 37,2% và RLC nặng là 33,3%. Theo thang điểm đánh giá IPSS thì mức độ rối loạn trong IPSS tỉ lệ thuận với mức độ RLC. Ngoài ra, các yếu tố khác như bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, suy thận cũng có liên quan đáng kể đến RLC. Kết luận: Bướu lành TTL và RLC có liên quan mật thiết với nhau. Mức độ rối loạn của thang điểm IPSS càng cao thì mức độ RLC càng cao. Bên cạnh đó, các bệnh kèm theo cũng góp phần làm tăng tần suất của bệnh RLC
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tần suất rối loạn cương ở những bệnh nhân nam bị bướu lành tuyến tiền liệt trước khi cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 345 TẦN SUẤT RỐI LOẠN CƯƠNG Ở NHỮNG BỆNH NHÂN NAM BỊ BƯỚU LÀNH TUYẾN TIỀN LIỆT TRƯỚC KHI CẮT ĐỐT NỘI SOI TUYẾN TIỀN LIỆT QUA NGÃ NIỆU ĐẠO Cao Hữu Triều Giang*, Đàm Văn Cương**, Vũ Hồng Thịnh*** TÓM TẮT Đặt vấn đề và mục tiêu: Rối loạn cương (RLC) ngày càng được phát hiện nhiều hơn đặc biệt ở nam giới lớn tuổi. Bên cạnh đó, bướu lành tuyến tiền liệt (TTL) cũng là một bệnh rất phổ biến trên các đối tượng này. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về mối tương quan của hai bệnh trên. Công trình nghiên cứu của chúng tôi nhằm xác định tần suất RLC ở những bệnh nhân nam bị bướu lành TTL trước khi cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu đạo. Đối tượng ‐ phương pháp nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2009 đến tháng 12 năm 2012 tại khoa Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy có 258 bệnh nhân nam bị bướu lành TTL có chỉ định cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu đạo. Trước khi phẫu thuật, chúng tôi tiến hành thăm khám tổng quát, thăm khám trực tràng và các xét nghiệm cận lâm sàng khác để đánh giá yếu tố nguy cơ của RLC như bệnh tiểu đường, bệnh tim mạch, suy thận, tăng huyết ápĐặc biệt, chúng tôi sử dụng bảng câu hỏi IPSS và IIEF‐15 để đánh giá về triệu chứng đường tiết niệu dưới cũng như chức năng cương của bệnh nhân. Từ đó chúng tôi rút ra kết luận về mối liên quan giữa RLC và bướu lành TTL cũng như các yếu tố nguy cơ khác. Kết quả: Nghiên cứu trên 358 bệnh nhân bị bướu lành TTL, tuổi trung bình là 74,8. Tần suất RLC là 93,4%, trong đó RLC nhẹ là 22,9%, RLC trung bình là 37,2% và RLC nặng là 33,3%. Theo thang điểm đánh giá IPSS thì mức độ rối loạn trong IPSS tỉ lệ thuận với mức độ RLC. Ngoài ra, các yếu tố khác như bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, bệnh tim mạch, suy thậncũng có liên quan đáng kể đến RLC. Kết luận: Bướu lành TTL và RLC có liên quan mật thiết với nhau. Mức độ rối loạn của thang điểm IPSS càng cao thì mức độ RLC càng cao. Bên cạnh đó, các bệnh kèm theo cũng góp phần làm tăng tần suất của bệnh RLC. Từ khóa: Bướu lành tuyến tiền liệt, rối loạn cương, thang điểm IPSS, thang điểm IIEF, cắt đốt nội soi tuyến tiền liệt qua ngã niệu đạo. ABSTRACT THE INCIDENCE OF ERECTILE DYSFUNCTION IN PATIENTS WITH BENIGN PROSTATIC HYPERPLASIA BEFORE TRANSURETHRAL RESECTION OF THE PROSTATE Cao Huu Trieu Giang, Dam Van Cuong, Vu Hong Thinh * Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 ‐ Supplement of No 3 ‐ 2013: 345 ‐ 350 Introduction and objective: To determine the incidence of erectile dysfunction, urinary symptoms and risk factors in patients with benign prostatic hyperplasia (BPH) before Transurethral Resection of the Prostate (TURP), using the International Index of Erectile Function (IIEF‐15) and the International Prostate Symptom Score (IPSS) questionnaires. Patients and methods: Between September 2009 and December 2012, 258 BPH patients in Department of Urology in Cho Ray hospital underwent total examination, digial rectal examination. In addition, urinary symptoms and erectile function were evaluated by IPSS and IIEF‐15 questionnaires before TURP. These patients * Bệnh viện Đa Khoa Trung Ương Cần Thơ ** Trường Đại Học Y Dược Cần Thơ *** Bệnh viện Đại Học Y Dược TPHCM Tác giả liên lạc: BS Cao Hữu Triều Giang ĐT:0989237073 Email: trieugiang75@yahoo.com Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 346 were also identified potential risk factors for erectile dysfunction (ED) such as coronary heart disease, diabetes mellitus, renal failure, hypertension Result: The analysis included 258 BPH men with mean age of 74.8 years. The incidence of ED was 93.4%. Of the patients, 22.9% had mild ED, 37.2% had moderate ED and 33.3% had severe ED. Logistic regression analysis showed that greater age, hypertension, diabetes mellitus, renal failure were significantly associated with ED. Conclusion: BPH is associated with ED. The results of this study highlight the importance of assessing the sexual health of men presenting with BPH. Keywords: Benign Prostatic Hyperplasia, Erectile dysfunction, International Prostate Symptom Score, Transurethral Resection of the Prostate, International Index of Erectile Function. ĐẶT VẤN ĐỀ Triệu chứng đường tiết niệu dưới (LUTS) đặc biệt do nguyên nhân bướu lành tuyến tiền liệt (TTL) có liên quan mật thiết với chức năng cương ở những bệnh nhân (BN) lớn tuổi (12). LUST và rối loạn cương đều ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng sống của nam giới cũng như gia đình của họ(8,11). Cắt đốt nội soi TTL qua ngã niệu đạo (TURP) đến nay vẫn là phẫu thuật được lựa chọn hàng đầu cho những BN có chỉ định phẫu thuật vì tính hiệu quả, tính an toàn cũng như chi phí điều trị của nó (9,17). Đa số các BN bị bướu lành TTL thường lớn tuổi, nhiều bệnh kết hợp, chất lượng cuộc sống giảm và chức năng cương bị rối loạn ở các mức độ khác nhau(9). Trong bài báo này, chúng tôi tập trung nghiên cứu về tần suất rối loạn cương (RLC) trên những BN nam bị bướu lành TTL trước khi được CĐNS TTL qua ngã niệu đạo. ĐỐI TƯỢNG ‐ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu Là tất cả BN nam bị bướu lành TTL có chỉ định CĐNS qua ngã niệu đạo. Loại trừ: Những BN bị ung thư TTL, BN chống chỉ định CĐNS và những BN không đồng ý tham gia nghiên cứu. Phương pháp Phương pháp nghiên cứu: mô tả cắt ngang. BN nằm trong nhóm đối tượng nghiên cứu sẽ được đánh giá trước phẫu thuật bằng các bảng IPSS, IIEF‐15, các bệnh kèm theo cũng như thuốc đã sử dụng trước khi phẫu thuật. Phân loại BN dựa theo các mức độ nhẹ, vừa, nặng của bảng IPSS và IIEF‐15. Cụ thể: bảng IPSS có 7 câu hỏi, mỗi câu hỏi thấp nhất là 0 điểm, nhiều nhất là 5 điểm. Tổng số điểm dưới 8 điểm là rối loạn nhẹ, 8‐19 điểm là rối loạn trung bình, từ 20 điểm trở lên là rối loạn nặng. Bảng IIEF‐15 gồm có 15 câu hỏi. Mỗi câu hỏi có điểm từ 0‐5. Tổng số điểm từ 20 trở xuống là RLC nặng, 21‐30 là RLC trung bình, 31‐59 là RLC nhẹ và từ 60 trở lên là không RLC. Đánh giá mối tương quan giữa IPSS, IIEF‐15, thuốc sử dụng cũng như các bệnh kèm theo. Phần mềm thống kê được sử dụng: SPSS 16.0. KẾT QUẢ Từ tháng 9/2009 đến tháng 12/2012, ở khoa Ngoại Tiết Niệu bệnh viện Chợ Rẫy có 258 bệnh nhân nam bị bướu lành TTL có chỉ định phẫu thuật CĐNS TTL qua ngã niệu đạo và đồng ý tham gia nghiên cứu. Các bệnh nhân này được chúng tiến hành phỏng vấn đánh giá theo thang điểm IPSS và IIEF‐15 cũng như các thăm khám lâm sàng và cận lâm sàng khác. Kết quả là: Tuổi bệnh nhân Tổng số BN: 258. Tuổi nhỏ nhất: 55. Tuổi lớn nhất: 95. Tuổi trung bình: 74,8. Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 347 Tuổi trên 80: 67 BN (26%). Tuổi từ 71‐ 80: 102 BN (40%). Tuổi từ 61‐70: 70 BN (27%). Tuổi từ 60 trở xuống: 19 BN (7%). Biểu đồ 1. Số lượng bệnh nhân. Rối loạn cương (đánh giá theo bảng IIEF‐ 15) Tổng số BN bị RLC: 241/258 BN chiếm 93,4%. Không bị RLC: 17 BN chiếm 6,6%. RLC nhẹ: 59 BN chiếm 22,9%. RLC trung bình: 96 BN chiếm 37,2%. RLC nặng: 86 BN chiếm 33,3%. Biểu đồ 2. Tỉ lệ các mứa độ RLC theo IIEF‐15. Đánh giá theo thang điểm IPSS Rối loạn nhẹ: 37 BN chiếm 14,3%. Rối loạn TB: 96 BN chiếm 37,2%. Rối loạn nặng: 125 BN chiếm 48,5%. Biểu đồ 3. Tỉ lệ các mứa độ RL đi tiểu theo IPSS. Bệnh kèm theo Trong 258 BN bị bướu lành TTL có chỉ định CĐNS TTL qua ngã niệu đạo thì 219 BN có bệnh khác kèm theo chiếm 85%. Cụ thể là: Bệnh tim mạch: 62 BN (24%), bệnh tiểu đường: 96 BN (37,2%), tăng huyết áp: 74 BN (28,7%), suy thận: 27 BN (10,5%), bệnh tiết niệu khác: 57 BN (22,1%), các bệnh khác: 35 BN (13,6%). Biểu đồ 4. Các bệnh kèm theo Thuốc đã sử dụng 57 BN sử dụng thuốc tim mạch. 73 BN sử dụng thuốc điều trị tiểu đường. 122 BN sử dụng thuốc ức chế α. 34 BN sử dụng thuốc ức chế 5α‐reductase. 54 BN sử dụng Tadenan. Bảng 1. Liên quan giữa mức độ RLC và tuổi. P<0,05 RLC Nhẹ (59) TB (96) Nặng (86) Tuổi <= 60 (10) 5 (8,5%) 3 (3,1%) 2 (2,3%) 61- 70 (64) 20 (33,9%) 34 (35,4%) 10 (11,6%) 71- 80 (100) 32 (54,2%) 49 (51%) 19 (22,1%) >80 (67) 2 (3,4%) 10 (10,5%) 55 (64%) Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 348 Bảng 2. Liên quan giữa mức độ RLC và thang điểm IPSS. P<0,05 IPSS Nhẹ TB Nặng RLC Nhẹ (59) 12 (20,3%) 16 (27,2%) 31 (52,5%) TB (96) 16 (16,7%) 28 (29,2%) 52 (54,1%) Nặng (86) 5 (5,9%) 25 (29,1%) 56 (65%) Bảng 3. Liên quan giữa mức độ RLC các bệnh kèm theo. RLC P Nhẹ (59) TB (96) Nặng (86) Tiểu đường Có 15 (25,4%) 32 (33,3%) 49 (57%) <0,0 5 Không 44 (74,6%) 64 (66,7%) 37 (43%) Tim mạch Có 9 (15,3%) 17 (17,7%) 29 (33,7%) <0,0 5 Không 50 (84,7%) 79 (82,3%) 57 (66,3%) THA Có 8 (13,6%) 25 (26%) 41 (47,7%) <0,0 5 Không 51 (86,4%) 71 (74%) 45 (42,3%) Suy thận Có 5 (9,3%) 10 (10,4%) 14 (14%) <0,0 5 Không 54 (90,7%) 86 (89,6%) 72(86%) BÀN LUẬN Bướu lành TTL là bệnh rất phổ biến ở nam giới cao tuổi và có liên quan đến chức năng cương cũng như chức năng tình dục của BN. Điều trị nội khoa hay điều trị phẫu thuật bướu lành TTL cũng ảnh hưởng đến chức năng tình dục đặc biệt là rối loạn xuất tinh của BN (1,3,9). Tuổi và RLC Tần suất RLC ở những BN nam theo tuổi được báo cáo rất khác nhau nhưng đều có một điểm chung là tuổi càng cao thì tần suất RLC càng tăng(4). Đều này càng thể hiện rõ khi BN có thêm bướu lành TTL(5). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỉ lệ RLC ở BN có tuổi dưới 60 là 10/19 BN chiếm 52,6%. Tỉ lệ này tăng lên đến 100% (67/67 BN) khi BN trên 80 tuổi. Kết quả này cũng phù hợp với các y văn trong và ngoài nước (4,5,6). Kết quả của chúng tôi cao hơn các kết quả khác có lẽ do các triệu chứng đường tiểu dưới (LUTS) ảnh hưởng nặng nề đến chất lượng cuộc sống của BN. IPSS và RLC Theo kết quả nghiên cứu của chúng tôi thấy có mối liên quan mật thiết giữa mức độ RLC và mức độ rối loạn theo thang điểm IPSS. Trong nhóm RLC nhẹ, IPSS rối loạn nhẹ chỉ có 20,3% nhưng tăng dần theo đến IPSS rối loạn nặng là 52,5%. Tương tự, trong nhóm RLC trung bình và RLC nặng thì tỉ lệ cũng tăng dần khi IPSS rối loạn nặng dần. Kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với các kết quả khác đã được báo cáo như Vassilis Poulakis báo cáo trên 522 BN bị bướu lành TTL có chỉ định phẫu thuật (17,18). Nghiên cứu Alf‐One của Hartung R và cs trên 3230 BN ở Nga, Trung Đông, Châu Mỹ Latinh và Châu Á cũng có kết quả tương tự (7). Trong nghiên cứu ‘Cologne Male Survey’ trên 8000 nam giới, Braun M báo cáo tỉ lệ LUST ở những BN RLC là 72,2% trong khi tỉ lệ LUTS ở những người không bị RLC chỉ có 37,7%(2). Kết quả này cho thấy RLC tỉ lệ thuận với mức độ rối loạn đánh giá theo thang điểm IPSS(13). RLC và bệnh tiểu đường Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm BN bị RLC nhẹ có tiểu đường chỉ có 25,4% nhưng tỉ lệ này tăng lên đáng kể ở nhóm RLC trung bình có tiểu đường là 33,3% và ở nhóm RLC nặng có tiểu đường thì tỉ lệ này là 57%. Điều này cho thấy mức độ liên quan tỉ lệ thuận giữa hai bệnh này. Theo nghiên cứu của Vũ Lê Chuyên trên 211 BN bị RLC thì trong bệnh nội khoa phối hợp có 12% tiểu đường. Tiểu đường chỉ gặp ở nhóm trên 40 tuổi, cao nhất ở nhóm 51‐60 tuổi là 30%(20). Trong nghiên cứu của chúng tôi, tuổi trung bình của BN cao hơn (74,8), có nhiều bệnh phối hợp hơn nên tỉ lệ cao hơn là hợp lí. Theo nghiên cứu của Felman (4), RLC xảy ra ít nhất là 50% những BN đã được chẩn đoán là tiểu đường trong 10 năm. Theo báo cáo của Nguyễn Thành Như(10) trong chuyên đề hội nghị khoa học kỹ thuật bệnh viện Bình Dân 2004 thì RLC có thể xảy ra trên ít nhất là 50% BN tiểu đường và tới 12% BN đến khám đầu tiên vì RLC được phát hiện có bị Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Nghiên cứu Y học Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 349 tiểu. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng có tỉ lệ tương tự với các báo cáo này(18). RLC và suy thận Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm RLC nhẹ có suy thận là 9,3%, trong nhóm RLC trung bình là 10.4% và nhóm RLC nặng là 14%. Mặc dù tỉ lệ thấp (27/258 BN) nhưng cũng phản ánh được mối liên quan tỉ lệ thuận giữa RLC và suy thận. Theo Trần Quán Anh (16) thì suy giảm chức năng cương dương vật chiếm 45% trên những nam giới bị suy thận mạn. Theo Nguyễn Thành Như(10) thì khoảng 50% BN suy thận cần lọc máu bị RLC nhưng nhiều BN có chức năng cương cải thiện sau khi ghép thận. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi có tỉ lệ thấp hơn vì chúng tôi nghiên cứu tỉ lệ suy thận trong nhóm BN bị RLC trong khi các báo cáo trên thì nghiên cứu tỉ lệ BN bị RLC trong nhóm BN suy thận. Mặc dù kết quả khác biệt nhưng cũng phản ánh được sự tương quan giữa RLC và suy thận(18). RLC và bệnh tim mạch Trong kết quả nghiên cứu của chúng tôi, nhóm BN bị RLC nhẹ có bệnh tim mạch là 15,3%, trong nhóm RLC trung bình là 17,7% và trong nhóm RLC nặng là 33,7%. Kết quả này cho thấy mối liên quan của hai loại bệnh này. Tỉ lệ tăng dần từ nhóm RLC nhẹ đến RLC nặng. Tỉ lệ này cũng phù hợp với các báo cáo và y văn đã được công bố. Theo Trần Quán Anh(16), các bệnh tim mạch có liên quan đến nguyên nhân gây RLC. Những cản trỡ cơ giới từ thành mạch hoặc từ những thay đổi áp lực động mạch làm cho lượng máu tưới vào dương vật không đủ. Bệnh xơ vữa thành mạch là nguyên nhân của khoảng 40% các trường hợp RLC ở nam giới trên 50 tuổi. Theo Felman(4), có tới 39% nam giới đang điều trị bệnh tim, 15% đang điều trị THA, 9,6% đang điều trị các bệnh tim mạch khác bị RLC. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cũng có tỉ lệ tương tự như các báo cáo này. KẾT LUẬN RLC là một bệnh ngày càng gặp nhiều hơn. Từ trước đến nay, chúng ta thường chú ý về RLC ở những nam giới trẻ để tiến hành điều trị mà bỏ quên một đối tượng khác là những nam giới lớn tuổi có LUTS đặc biệt là bướu lành TTL. Trong những thập niên gần đây, đã có nhiều báo cáo về mối liên hệ giữa RLC và bướu lành TTL trong đó bướu lành TTL được xem là yếu tố nguy cơ cao của RLC. Kết quả nghiên cứu được báo cáo trong bài này cho thấy tần suất RLC ở những BN nam bị bướu lành TTL rất cao. Cụ thể là trong tổng số 258 BN, tỉ lệ RLC là 93,4%, trong đó RLC nhẹ là 22,9%, RLC trung bình là 37,2% và RLC nặng là 33,3%. Bên cạnh đó, các yếu tố nguy cơ khác như bệnh tim mạch, tiểu đường, suy thậncũng làm tăng tần suất của RLC. Bướu lành TTL không chỉ ảnh hưởng đến chức năng cương của BN mà còn ảnh hưởng đến chức năng tình dục khác như xuất tinh, giảm ham muốn, rối loạn khoái cảm Kết quả báo cáo của bài báo này góp phần làm rõ thêm về mối liên hệ của hai bệnh trên từ đó có chính sách chăm sóc và điều trị hợp lí cho những BN này. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Boyle P.(2003), The association between lower urinary tract symptoms and erectile dysfunction in four centres: the UrEpik study. BJU Int:234‐87. 2. Braun MH. (2003), Lower urinary tract symptoms and erectile dysfunction: co‐morbidity or typical “Cologne Male Survey. Eur Urol: 145‐65. 3. Chung WS. (2004), Lower urinary tract symptoms and sexual dysfunction in community‐dwelling men. Mayo Clin Proc:245‐ 67. 4. Feldman HA. (1994), Impotence and its medical and psychosocial correlates: result of the Massachusetts Male Aging Study. J Urol 1994:236‐48 5. Frankel SJ. (1998), Sexual dysfunction in men with lower urinary tract symptoms. J Clin Epidemiol. 6. Jeroen van Moorselaar.,(2003), LUST and sexual dysfunction: Implications for managament of BPH. Eur Urol Supplements 2: 347‐78 7. Hartung R. (2003), Sexual dysfunction in 3,230 men with LUST suggestive of BPH in Europe, Russia, the Middle East, Latinh American and Asia.: 346‐57. Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 3 * 2013 Chuyên Đề Thận ‐ Niệu 350 8. McVary K (2006), Lower urinary tract symptoms and sexual dysfunction: epidemiology and pathophysiology. BJU Int.:467‐ 78. 9. Michael Muntener. (2007), Sexual function after transurethral resection of the prostate (TURP): Results of an Independent prospective Multicentre Assessment of outcome. EAU: 345‐67. 10. Nguyễn Thành Như (2004), “Một số đặc điểm dịch tễ học ở những bệnh nhân bị rối loạn được điều trị tại bệnh viện Bình Dân trong ba năm (2000‐2001‐2002)”, Chuyên đề hội nghị khoa học bệnh viện Bình Dân, tr. 176‐179 11. Rosen R. (2005), Sexual dysfunction and lower urinary tract symptoms (LUST) associated with benign prostatic hyperplasia (BPH). Eur Urol.: 589‐91. 12. Rosen R et al. (2003), Lower urinary tract symptoms and male sexual dysfunction: the multinational survey of the aging male (MSAM‐7). Eur Urol.:124‐35. 13. Rosen R. (2006), Update on the relationship between sexual dysfuction and lower urinary tract symptoms/ benign prostatic hyperplasia. Curr Opin Urol.: 125‐36. 14. Rosen R. (2005), Lower urinary tract symptoms severity and International Prostate Symptom Score bother question correlate with measures of erectile and ejaculation in benign prostatic hyperplasia. J Urol:321‐34. 15. Rosen RC. (2008), Validated questionnaires for assesing sexual dysfunction and BPH/LUST: solidifying the common pathophysiologic link. Int J of Impotence Reseach.: 234‐46. 16. Trần Quán Anh (2002), Rối loạn cương, Bệnh học giới tính nam, Nhà xuất bản Y học, tr. 379‐449. 17. Vassilis P. (2006), Erectile dysfunction after transurethral prostatectomy for lower urinary tract symptoms: result from a center with over 500 patients. Asian J Androl.:133‐ 36. 18. Vallancien G (2003), Sexual dysfunction in 1,274 European men suffering from lower urinary tract symptoms. J Urol.: 122‐125. 19. Van Dijk M. (2005), The association between lower tract symptoms and sexual dysfunction: fact or fiction?. Curr Opin Urol.: 145‐49. 20. Vũ Lê Chuyên (2000), “Khảo sát tình hình bệnh nhân rối loạn cương ở TP HCM”, Y học TP HCM, tr. 263‐269. Ngày nhận bài báo 16‐05‐2013 Ngày phản biện nhận xét bài báo: 10‐06‐2013 Ngày bài báo được đăng: 15‐07‐2013
File đính kèm:
- tan_suat_roi_loan_cuong_o_nhung_benh_nhan_nam_bi_buou_lanh_t.pdf