Thành quả 20 năm hoạt động khoa học và công nghệ của trường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển kiểm toán nhà nước
Kiểm toán nhà nước (KTNN) ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế k hội chủ nghĩa. KTNN là cơ quan được thành lập mới, không có cơ quan tiền thân, do đ KTNN phải tự nghiên cứu và tổng kết, đúc rút những b ế hoạch tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã ài học kinh nghiệm từ các KTNN ó, khu vực và thế giới để xây dựng và từng bước hoàn thiện về cơ cấu tổ chức bộ máy, phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ. Chính vì vậy, hoạt động Khoa học và công nghệ (KH&CN) và thông tin khoa học của Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán (Trường ĐT) trong những năm vừa qua đã có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng cơ sở lý luận và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển KTNN. Bài viết sẽ tập trung đánh giá những đóng góp của Trường trong hoạt động KH&CN đối với hoạt động cũng như sự phát triển của KTNN, chỉ ra những tồn tại hạn chế và đề xuất các kiến nghị giải pháp để nâng cao chất lượng KH&CN và thông tin khoa học của Trường trong thời gian tới
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thành quả 20 năm hoạt động khoa học và công nghệ của trường đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán gắn liền với quá trình xây dựng và phát triển kiểm toán nhà nước
6TRÖÔØNG ÑAØO TAÏO VAØ BOÀI DÖÔÕNG NGHIEÄP VUÏ KIEÅM TOAÙN – 20 NAÊM XAÂY DÖÏNG VAØ PHAÙT TRIEÅN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 113 - tháng 3/2017 *Phó Giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán THAØNH QUAÛ 20 NAÊM HOAÏT ÑOÄNG KHOA HOÏC VAØ COÂNG NGHEÄ CUÛA TRÖÔØNG ÑAØO TAÏO VAØ BOÀI DÖÔÕNG NGHIEÄP VUÏ KIEÅM TOAÙN GAÉN LIEÀN VÔÙI QUAÙ TRÌNH XAÂY DÖÏNG VAØ PHAÙT TRIEÅN KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC PGS.TS. NGuyỄN ĐìNH HòA* Kiểm toán nhà nước (KTNN) ra đời trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam chuyển từ nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch tập trung, bao cấp sang cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. KTNN là cơ quan được thành lập mới, không có cơ quan tiền thân, do đó, KTNN phải tự nghiên cứu và tổng kết, đúc rút những bài học kinh nghiệm từ các KTNN khu vực và thế giới để xây dựng và từng bước hoàn thiện về cơ cấu tổ chức bộ máy, phương pháp chuyên môn, nghiệp vụ. Chính vì vậy, hoạt động Khoa học và công nghệ (KH&CN) và thông tin khoa học của Trường Đào tạo và Bồi dưỡng nghiệp vụ kiểm toán (Trường ĐT) trong những năm vừa qua đã có vai trò hết sức quan trọng trong việc xây dựng cơ sở lý luận và đúc rút kinh nghiệm thực tiễn góp phần vào quá trình xây dựng và phát triển KTNN. Bài viết sẽ tập trung đánh giá những đóng góp của Trường trong hoạt động KH&CN đối với hoạt động cũng như sự phát triển của KTNN, chỉ ra những tồn tại hạn chế và đề xuất các kiến nghị giải pháp để nâng cao chất lượng KH&CN và thông tin khoa học của Trường trong thời gian tới. Từ khóa: Hoạt động khoa học & công nghệ của Trường ĐTBDNV kiểm toán; Achievement of 20 years of scientific and technological activities of the Audit Training Institute (ATI) associated with the process of building and development of the State Audit The State Audit Office of Vietnam (SAV) was born in the context of the transition from a centrally planned economy to a socialist-oriented market economy. The State Audit is a newly established body with no precursors, therefore, the State Audit must study and summarize lessons learned from the SAIs in region and world in order to build and step by step improve the State Audit Office of Vietnam. Improved organizational structure, professional methods. Therefore, the scientific and technological activities and informational communication of the ATI in recent years have played a very important role in the construction theoretical bases and practical experiences to contruct and develope the SAV. The paper will focus on evaluating the contribution of the ATI to the development and operation of the State Audit, identifying shortcomings and proposing solutions to improve the quality of scientific and technological activitiesand scientific informational communicationof the ATI in the coming time. Key words: Scientific and technological activities of the Audit Training Institute (ATI) 7NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 113 - tháng 3/2017 1. Những đóng góp của Trường đối với sự phát triển của kTNN thông qua hoạt động kH&CN và thông tin kH trong 20 năm qua 1.1. Hoạt động nghiên cứu khoa học KTNN chính thức được công nhận là đầu mối khoa học và công nghệ từ năm 1996 và từ khi thành lập năm 1997, Trường ĐT trở thành cơ quan đại diện cho KTNN, đảm nhiệm về hoạt động KH & CN. Hoạt động KH&CN của Trường ĐT trong 20 năm qua bao gồm việc tổ chức quản lý và triển khai thực hiện nghiên cứu 363 đề tài NCKH các cấp, trong đó có 02 đề tài độc lập cấp Nhà nước, 171 đề tài NCKH cấp Bộ và 190 đề tài NCKH cấp cơ sở. Có thể đánh giá khái quát hoạt động KH&CN trong 20 năm qua ở một số khía cạnh sau đây: Về chất lượng hoạt động nghiên cứu khoa học: Về cơ bản, các đề tài nghiên cứu đã hoàn thành mục tiêu, nội dung nghiên cứu và được đánh giá tương đối tốt, đặc biệt trong giai đoạn 1996 - 2005, khoảng 30% đề tài các cấp đạt kết quả xuất sắc, 60% đề tài đạt loại khá và 10% đề tài đạt yêu cầu. Một trong những điểm nổi bật đáng ghi nhận của hoạt động NCKH của KTNN trong 20 năm qua là có tính ứng dụng cao; hoạt động KH&CN đã tập trung trí tuệ, sức lực và tâm huyết để nghiên cứu và giải quyết những vấn đề cơ bản sau đây: - Nghiên cứu làm rõ cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn khẳng định bản chất, chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, lợi ích, triết lý hoạt động và thẩm quyền của KTNN, là cơ sở khoa học và thực tiễn để KTNN kiến nghị Đảng, Nhà nước xây dựng khung khổ pháp lý về tổ chức và hoạt động của KTNN( hiến định địa vị pháp lý; ban hành Luật KTNN; các văn bản quy phạm pháp luật khác...). - Nghiên cứu hoạch định chiến lược, giải pháp xây dựng hoàn thiện tổ chức bộ máy và hoạt động của KTNN nhằm góp phần xây dựng nền tài chính quốc gia minh bạch, bền vững phục vụ hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước; - Nghiên cứu để làm rõ nhận thức về nội dung và kết cấu hệ thống các chuẩn mực, hệ thống phương pháp, quy trình kiểm toán gắn với các đối tượng kiểm toán chung và các đối tượng kiểm toán đặc thù (như NSNN; các doanh nghiệp nhà nước; các tổ chức tín dụng; các dự án đầu tư xây dựng như các dự án ODA, BOT, BT...; nợ công, các chương trình mục tiêu quốc gia; kiểm toán môi trường) cũng như phát triển các loại hình kiểm toán (kiểm 8TRÖÔØNG ÑAØO TAÏO VAØ BOÀI DÖÔÕNG NGHIEÄP VUÏ KIEÅM TOAÙN – 20 NAÊM XAÂY DÖÏNG VAØ PHAÙT TRIEÅN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 113 - tháng 3/2017 toán tài chính, kiểm toán tuân thủ, kiểm toán hoạt động, kiểm toán lồng ghép chuyên đề hỗn hợp); - Nghiên cứu để xây dựng, hoàn thiện và ban hành Hệ thống hồ sơ, mẫu biểu kiểm toán ngày càng tiệm cận tính khoa học, hiệu quả, tiện ích, đơn giản và khả thi trong thực tế nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm toán; hiệu lực, hiệu quả của việc thực hiện kết luận, kiến nghị kiểm toán và công tác quản lý. - Nghiên cứu cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn của việc hoạch định mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, phương thức tổ chức quản lý công tác đào tạo và bồi dưỡng cán bộ công chức KTNN; nghiên cứu về chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kiểm toán viên, về văn hóa giao tiếp ứng xử của KTV nhà nước để ĐTBD xây dựng một đội ngũ kiểm toán viên tinh thông nghiệp vụ, có đạo đức nghề nghiệp và bản lĩnh với tác phong chuyên nghiệp, có khả năng xử lý mọi tình huống nảy sinh trong hoạt động kiểm toán,theo phương châm: “Công minh, chính trực, nghệ tinh, tâm sáng”. Bộ chương trình này bao gồm từ đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng và đạo đức nghề nghiệp của KTV nhà nước theo hướng cơ bản ngày càng hiện đại, hội nhập quốc tế và phù hợp với điều kiện thực tiễn Việt Nam. - Nghiên cứu để ứng dụng các phương pháp kiểm toán hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin cho hoạt động kiểm toán. Kết quả nghiên cứu của những đề tài này là cơ sở xây dựng các phần mềm ứng dụng tin học vào hoạt động kiểm toán, đặc biệt là phục vụ cho việc tổng hợp kết quả kiểm toán, xử lý việc lập báo cáo kiểm toán và tiếp cận dần việc hình thành các phần mềm kiểm toán chuyên biệt cho KTNN, trước hết là cho các lĩnh vực quan trọng (như NSNN, đầu tư dự án, nợ công, doanh nghiệp nhà nước, các tổ chức tín dụng – ngân hàng) và cho tất cả loại hình kiểm toán tài chính, kiểm toán tuân thủ và kiểm toán hoạt động. Những đề tài đầu tiên trong lĩnh vực CNTT đã góp phần quan trọng cho việc hình thành phòng thông tin của Trường, tiền thân của Trung tâm Tin học của KTNN khi đề án này do Trường khởi thảo và đã được thông qua. - Nghiên cứu về phương thức tổ chức thực hiện các loại hình kiểm toán, cách thức lập kế hoạch kiểm toán trung và dài hạn phân cấp cho các KTNN chuyên ngành, khu vực, tránh chồng chéo hay bỏ sót đối tượng và khách thể kiểm toán, khai thác một cách hiệu quả năng lực, thế mạnh kiểm toán của toàn Ngành; - Nghiên cứu thiết lập và xử lý các quan hệ: giữa cơ quan khoa học công nghệ, cơ sở đào tạo của KTNN chuyên ngành, KTNN khu vực và các đơn vị trực thuộc KTNN; mối quan hệ phối hợp với các cơ quan hữu quan trong bộ máy nhà nước nhằm hình thành sự phối hợp chặt chẽ hiệu quả khi triển khai hoạt động kiểm toán theo kế hoạch trung hạn và dài hạn của KTNN; - Nghiên cứu các vấn đề về hợp tác quốc tế trong hoạt động kiểm toán (bao gồm kinh nghiệm xây dựng Luật, chuẩn mực, quy trình kiểm toán; tổ chức bộ máy; đào tạo bồi dưỡng cán bộ) nhằm tận dụng kinh nghiệm, trí tuệ của KTNN các quốc gia tiên tiến qua các dự án ODA, GTZ, JICA - Nghiên cứu phát triển hệ thống kiểm toán Việt Nam và mối quan hệ giữa các phân hệ trong hệ thống kiểm toán (bao gồm 3 phân hệ: KTNN, kiểm toán độc lập, kiểm toán nội bộ). Đối với những vấn đề này đã thu hút thêm lực lượng nghiên cứu và sự trợ giúp từ Bộ Tài chính, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội Kế toán và kiểm toán Việt Nam (VAA), các công ty kiểm toán độc lập, các trường đại học và cả một số tổ chức quốc tế. Kể từ những năm đầu xây dựng và phát triển, Trường ĐT đã chủ động đề xuất và chủ trì nghiên cứu Đề tài khoa học cấp nhà nước: “Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển hệ thống kiểm toán ở Việt Nam”. Đề tài nghiệm thu đạt loại xuất sắc, đã cung cấp một cách toàn diện cả về phương diện lý luận và thực tiễn để phát triển hệ thống kiểm toán ở Việt Nam và mối quan hệ giữa các phân hệ kiểm 9NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 113 - tháng 3/2017 toán với hoạt động của cơ quan KTNN. Không chỉ nghiên cứu các vấn đề nội tại của KTNN, Trường ĐT đã chủ động đề xuất và chủ trì nghiên cứu đề tài cấp nhà nước: “Luận cứ khoa học xây dựng Luật kiểm toán độc lập ở Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện hội nhập kinh tế quốc tế”. - Hoạt động KH&CN đã nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực kiểm toán mới, nghiên cứu những vấn đề phát sinh trong thực tiễn quản lý và sử dụng nguồn lực công của nền kinh tế và hoạt động kiểm toán, nhằm đáp ứng yêu cầu của Quốc hội, Chính phủ và xã hội như: Kiểm toán các Chương trình mục tiêu quốc gia; kiểm toán các chuyên đề về chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế; kiểm toán nợ công; kiểm toán quá trình tái cơ cấu tổng thể nền kinh tế; kiểm toán việc quản lý và sử dụng đất đai, tài nguyên khoáng sản; kiểm toán các dự án BOT, BT, kiểm toán môi trường, kiểm toán lồng ghép... Các đề tài mà Trường ĐT chủ trì nghiên cứu hoặc tham gia nghiên cứu luôn bám sát thực tiễn hoạt động của KTNN, thực tiễn đời sống kinh tế xã hội của đất nước. Năm 2007 khi có những biểu hiện của gia tăng nợ Chính phủ mà gắn với nó có thể là những hệ lụy, Trường đã tổ chức nghiên cứu đề tài: “Kiểm toán các khoản vay nợ, viện trợ Chính phủ và vai trò của Kiểm toán nhà nước”. Khi nền kinh tế có biểu hiện của suy thoái, Trường đã tổ chức nghiên cứu nhiều đề tài cấp bộ như: “Vai trò của Kiểm toán nhà nước trong chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ trong điều kiện khủng hoảng kinh tế”; đề tài cấp Bộ “Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý tài chính công sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008-2009 và khủng hoảng nợ công của một số nước tại Châu Âu dưới góc nhìn kiểm toán”; hay đề tài “Nâng cao giá trị, lợi ích của hoạt động kiểm toán nhà nước trong hoạch định và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô”... Những năm gần đây, khi xã hội đã có sự thay đổi trong nhận thức về vai trò của KTNN trong quản lý tài chính, tài sản công và được hiến định trong Hiến pháp năm 2013,Trường luôn chủ động đề xuất chủ trì nghiên cứu các đề tài cấp bộ phù hợp với chức năng nhiệm vụ của KTNN gắn liền với sự phát triển KTNN, hội nhập kinh tế quốc tế và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường và nhà nước pháp quyền XHCN. Bên cạnh đó công tác NCKH trong thời gian qua còn tập trung nghiên cứu xây dựng và hoàn thiện các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho các đối tượng theo kế hoạch và chiến lược phát triển KTNN; hoàn thiện công tác quản lý đào tạo. Tiêu biểu các đề tài cấp Bộ năm 2012 “Giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng công chức, kiểm toán viên theo định hướng chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020”; Đề tài cấp Bộ 2014 “Xây dựng chương trình và tổ chức đào tạo, bồi dưỡng hệ thống các kỹ năng cho Kiểm toán viên Kiểm toán nhà nước”... Về công tác quản lý khoa học Là đầu mối quản lý khoa học, thường trực Hội đồng khoa học và Văn phòng Hội đồng khoa học 10 TRÖÔØNG ÑAØO TAÏO VAØ BOÀI DÖÔÕNG NGHIEÄP VUÏ KIEÅM TOAÙN – 20 NAÊM XAÂY DÖÏNG VAØ PHAÙT TRIEÅN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 113 - tháng 3/2017 của KTNN, Trường đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Các đề tài khoa học do Trường chủ trì đều lựa chọn và ký hợp đồng với các nhà khoa học có uy tín để đảm bảo chất lượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu đều được tổ chức đánh giá, thẩm định theo hướng dẫn của Bộ Khoa học và Công nghệ. Hàng năm, Trường luôn chủ động tham mưu, đề xuất các chủ đề nghiên cứu, chủ đề hội thảo khoa học cấp Bộ để báo cáo Hội đồng khoa học xem xét và trình Tổng KTNN quyết định. Cho đến nay, về cơ bản các đề tài khoa học đều được quản lý chặt chẽ theo đúng quy chế và đảm bảo tiến độ nghiên cứu. Các kết quả nghiên cứu một mặt được ứng dụng trong hoạt động của ngành hoặc làm cơ sở cho việc đề xuất các kiến nghị và giải pháp đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, tài chính với Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan nhà nước. 1.2. Hoạt động thông tin khoa học và hợp tác quốc tế trong lĩnh vực KH - CN Hoạt động thông tin khoa học và công nghệ của Trường ĐT gắn liền với công tác NCKH và triển khai ứng dụng kết quả nghiên cứu của KTNN. Hoạt động thông tin khoa học của Trường trong những năm qua đã cung cấp những thông tin có giá trị cho lãnh đạo KTNN cân nhắc lựa chọn và quyết định các định hướng về hoạt động KH & CN phù hợp cho từng giai đoạn phát triển của KTNN. Kết quả NCKH đã hỗ trợ các đoàn kiểm toán trong việc ứng dụng các vấn đề nghiên cứu vào thực tiễn hoạt động kiểm toán, giúp các kiểm toán viên tra cứu, vận dụng các vấn đề lý luận vào học tập, nghiên cứu cũng như hoạt động kiểm toán. Ngoài ra, hoạt động thông tin khoa học còn góp phần phổ biến cập nhật chuyên môn, nghiệp vụ kiểm toán thông qua các cuộc hội thảo khoa học hàng năm của KTNN do Trường ĐT chủ trì tổ chức phối hợp với các tổ chức trong và ngoài nước như: Ủy ban Tài chính - Ngân sách của Quốc hội, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển Châu á, uSAID, CPA Australia, Hiệp hội kế toán công chứng Vương quốc Anh - ACCA... Các cuộc hội thảo khoa học là diễn đàn để các nhà khoa học, các nhà quản lý, các chuyên gia trao đổi, thảo luận một cách cởi mở và dân chủ về những vấn đề liên quan đến địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, hoạt động cũng như những vấn đề về chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán của KTNN.Thông qua kết quả của các cuộc hội thảo đã từng bước khẳng định được vị trí, vai trò và giá trị hoạt động của KTNN đối với các vấn đề được Quốc hội và xã hội quan tâm như các cuộc hội thảo về các chủ đề kiểm toán nợ công, kiểm toán chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ, kiểm toán việc quản lý và sử dụng tài nguyên, khoáng sản, kiểm toán quá tr ... ểm toán hoạt động”, hội thảo “Phát triển kiểm toán độc lập ở Việt Nam và xác lập mối quan hệ giữa Kiểm toán nhà nước và Kiểm toán độc lập”; phối hợp với ACCA tổ chức Hội thảo: “Kinh nghiệm quốc tế về kiểm soát chất lượng kiểm toán và đảm bảo chất lượng kiểm toán”. Các hội thảo này đã được dư luận xã hội đánh giá cao không những về mặt nội dung mà còn đánh giá tốt về công tác tổ chức. Qua việc tổ chức thành công các hội thảo này không chỉ giúp KTNN giải quyết những vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ, xác định mục tiêu, nội dung, phạm vi kiểm toán, hồ sơ, mẫu biểu một cách khoa học phù hợp với thực tiễn Việt Nam mà còn góp phần nâng cao uy tín và truyền thông về vai trò của KTNN trong công tác quản lý và sử dụng tài chính, tài sản công. Kết quả NCKH, tóm tắt các đề tài khoa học các cấp đã được nghiệm thu được lưu trữ, quản lý và phục vụ tốt cho các đối tượng trong và ngoài KTNN qua hệ thống Thư viện Khoa học kiểm toán (đặt tại Trường ĐT), mạng nội bộ đặc biệt là trang Thông tin Điện tử của KTNN. Ngoài ra, còn có tờ 11NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 113 - tháng 3/2017 “Thông tin khoa học” phát hành nội bộ trong cơ quan KTNN, phát hành mỗi quý một số để thông báo các kết quả nghiệm thu đề tài NCKH và các lớp bồi dưỡng cán bộ kiểm toán trong ngành, các lớp đào tạo, tư vấn về kế toán, kiểm toán, kinh nghiệm quản lý, tài chính, thông tin về tài chính, kế toán, kiểm toán trong và ngoài nước. Hoạt động thông tin khoa học đã hỗ trợ việc khai thác và thu thập thông tin KH & CN từ các nguồn trong và ngoài nước, trong nội bộ ngành, từ các hiệp hội nghề nghiệp quốc tế, các công ty kiểm toán quốc tế lớn như BigFour; xử lý, lưu trữ và quản lý nguồn thông tin KH & CN; phát hành các ấn phẩm khoa học làm diễn đàn nghiên cứu, trao đổi của các nhà khoa học, các nhà quản lý, các chuyên gia trong và ngoài ngành; cung cấp thông tin KH & CN phục vụ hoạt động chuyên môn nghiệp vụ và các hoạt động KH & CN khác. Tuy vậy, để hoạt động thông tin khoa học đáp ứng được nhu cầu thực tiễn của ngành trong thời gian tới cần phải tăng cường hơn nữa về chất lượng các thông tin khoa học, đảm bảo tính thời sự, tính khoa học và hữu dụng của thông tin được cung cấp. Có thể nói rằng, hoạt động KH & CN của Trường trong thời gian qua đã giải quyết căn bản những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra cho KTNN, góp phần tạo ra một bước chuyển biến mạnh mẽ về chất lượng và tăng cường hiệu quả, hiệu lực và uy tín hoạt động kiểm toán của KTNN. Hai mươi năm qua, cùng với quá trình xây dựng và phát triển, Trường luôn tập trung phát triển hoạt động KH&CN theo hướng nghiên cứu ứng dụng, chuyên sâu theo từng lĩnh vực làm cơ sở phát triển các loại hình, phương pháp và công nghệ kiểm toán mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của ngành theo hướng ngày càng chuyên nghiệp và hiện đại. 2. Những tồn tại và hạn chế về kH&CN và thông tin kH Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động KH&CN và thông tin khoa học của Trường ĐT trong 20 năm qua cũng còn một số tồn tại, hạn chế cần khắc phục trong thời gian tới để KH & CN và thông tin khoa học tiếp tục có những đóng góp tích cực hơn nữa trong quá trình triển khai thực hiện kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020. Các 12 TRÖÔØNG ÑAØO TAÏO VAØ BOÀI DÖÔÕNG NGHIEÄP VUÏ KIEÅM TOAÙN – 20 NAÊM XAÂY DÖÏNG VAØ PHAÙT TRIEÅN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 113 - tháng 3/2017 hạn chế của hoạt động KH&CN được biểu hiện ở một số điểm sau đây: Về chất lượng hoạt động NCKH: Nhìn chung kết quả nghiên cứu của các đề tài đạt kết quả tốt vừa có tính lý luận vừa có tính ứng dụng cao. Tuy nhiên, vẫn còn một số đề tài chất lượng mới chỉ đạt yêu cầu, những vấn đề và nội dung nghiên cứu chưa có sự đào sâu nghiên cứu, một số vấn đề chưa được giải quyết một cách triệt để, các giải pháp đề ra còn chung chung, tính ứng dụng chưa cao. Về tiến độ thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu: Phần lớn các đề tài được tổ chức nghiên cứu nghiêm túc đảm bảo được tiến độ nghiên cứu. Tuy nhiên vẫn còn không ít đề tài nghiên cứu chậm về tiến độ. Tiến độ nghiên cứu không đảm bảo, trước hết đã ảnh hưởng trực tiếp đến việc ứng dụng kết quả nghiên cứu của đề tài vào thực tiễn ngoài ra còn ảnh hưởng đến việc tổ chức đánh giá nghiệm thu và công tác quyết toán kinh phí. Về tính tiên phong, định hướng dẫn dắt hoạt động thực tiễn: Có không ít những vấn đề nảy sinh trong thực tiễn, nhưng công tác tổ chức triển khai nghiên cứu chậm nên công tác lý luận chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn hoạt động kiểm toán; chưa làm sáng tỏ nhiều vấn đề quan trọng trong tổ chức triển khai hoạt động kiểm toán cũng như để phục vụ việc hoạch định chiến lược và triết lý hoạt động, chưa có luận cứ khoa học chắc chắn để hướng dẫn thực tiễn hoặc cung cấp luận cứ khoa học để phục vụ kịp thời giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình xây dựng và phát triển KTNN; NCKH chưa thực sự làm tròn vai chức năng hướng dẫn thực tiễn hoạt động kiểm toán; công tác tổng kết thực tiễn cũng như việc đánh giá ứng dụng kết quả NCKH chưa thường xuyên, chưa kịp thời... Về đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học: Mặc dù đã được Lãnh đạo KTNN quan tâm và Trường có nhiều cố gắng trong chính sách tuyển dụng, thu hút nhân tài, đào tạo bồi dưỡng tại chỗ, nhưng do cơ chế hoạt động, “danh và lợi” chưa đủ sức hấp dẫn, thu hút nguồn nhân lực có trình độ cao, trẻ trung từ các đơn vị của KTNN và từ xã hội về làm việc tại Trường cho nên hiện nay đội ngũ nghiên cứu chuyên trách còn quá mỏng, cơ cấu các chuyên ngành nghiên cứu chưa hợp lý, kinh nghiệm thực tiễn kiểm toán hạn chế nên ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ KH&CN. 3. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động kH&CN và thông tin khoa học Để nâng cao chất lượng hoạt động KH&CNvà thông tin khoa học, đáp ứng mục tiêu đề ra của KTNN trong thời gian tới, công tác nghiên cứu và thông tin khoa học của Trường ĐT cần chú trọng một số giải pháp cụ thể sau đây: Thứ nhất, phát triển đội ngũ cán bộ NCKH. Lực lượng cán bộ NCKH là nhân tố cơ bản quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động KH & CN. Vì vậy, để nâng cao chất lượng NCKH trước hết phải tăng cường được đội ngũ cán bộ làm công tác NCKH chuyên trách cả về số lượng và chất lượng. Trước hết, Trường ĐT cần tích cực hơn nữa trong việc ĐTBD và phát triển đội ngũ cán bộ NCKH mạnh cả về số lượng và chất lượng; xây dựng kế hoạch và phương thức đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ NCKH hiện có và thu hút từ ngoài ngành về; tạo điều kiện cho các cán bộ NCKH đi khảo sát, nghiên cứu, học tập kinh nghiệm ở nước ngoài và đẩy mạnh hợp tác về NCKH với các cơ quan nghiên cứu trong và ngoài nước, cũng như tạo điều kiện để nghiên cứu viên tham gia thực tiễn hoạt động kiểm toán tại các KTNN chuyên ngành và KTNN khu vực. Thứ hai, đổi mới cơ chế quản lý, tuyển chọn, giao nhiệm vụ NCKH, quản lý và theo dõi tiến độ nghiên cứu. Mặc dù trong thời gian qua hàng năm Trường đã xác định rõ định hướng, mục tiêu, yêu cầu về hoạt động nghiên cứu để các đơn vị và cá nhân chuẩn bị và đăng ký đề tài và sau đó tổ chức xét duyệt nhiệm vụ nghiên cứu. Việc làm này đã đem 13NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN Số 113 - tháng 3/2017 lại những tác dụng nhất định trong nghiên cứu; tuy nhiên, thông thường những cá nhân tham gia đều đưa ra những hướng nghiên cứu vốn là thế mạnh của mình (tất nhiên là phải thuyết phục được Hội đồng xét duyệt về tính cấp thiết). Trong khi đó, có nhiều vấn đề thực sự cần thiết và mang lại hiệu quả, nhưng do khó khăn khi triển khai nên không ai đăng ký để thực hiện. Do đó, trong thời gian tới cần đổi mới quy trình xét chọn và giao nhiệm vụ NCKH theo hướng: Đối với đề tài có thể áp dụng cơ chế xét tuyển, chọn thầu Đối với loại đề tài này cần áp dụng phương thức tuyển chọn theo phương thức xét thầu, bảo đảm cho các đơn vị trong và ngoài KTNN đều có thể tham gia tuyển chọn. Việc tuyển chọn sẽ do Hội đồng Khoa học KTNN quyết định và kết quả tuyển chọn phải được thông báo công khai. Theo định hướng nghiên cứu đã được thông báo cho các đơn vị biết để đề nghị những vấn đề thiết thực có tính cấp thiết phải nghiên cứu cho Hội đồng Khoa học KTNN tổng hợp, sau đó sẽ tổ chức xét thầu. Đối với các đề tài thực hiện theo phương thức giao trực tiếp Bên cạnh việc xét thầu đề tài, cần có cơ chế “giao” những đề tài mới và phức tạp cho những cá nhân/đơn vị có năng lực thực hiện đề tài hoặc theo cơ chế đặt hàng. Đối với các đề tài thực hiện theo phương thức giao trực tiếp thì việc lựa chọn tổ chức, cá nhân có năng lực, phẩm chất, điều kiện và chuyên môn phù hợp để trực tiếp giao nhiệm vụ NCKH là rất cần thiết và là yếu tố quyết định đến tiến độ và chất lượng nghiên cứu đề tài. Công tác nghiệm thu Đối với công tác nghiệm thu cần thực hiện cơ chế quản lý đề tài theo kết quả, sản phẩm đầu ra theo hướng tạo thuận lợi cho các nhà khoa học trong tổ chức nghiên cứu và nghiệm thu đề tài theo tinh thần của thông tư 55/2015/TTLT-BTC-BKHCN hướng dẫn định mức, phân bổ dự toán đề tài sử dụng kinh phí NSNN; bám sát vào thuyết minh và Hợp đồng nghiên cứu khoa học đã ký kết để đánh giá đúng thực trạng và chất lượng nghiên cứu của đề tài. Sau khi nghiệm thu, Thường trực văn phòng Hội đồng Khoa học KTNN cần thông báo kịp thời cho lãnh đạo KTNN về kết quả nghiên cứu của các đề tài; Các buổi nghiệm thu cần thông báo công khai rộng rãi và mời thêm những tổ chức và cá nhân khác quan tâm, liên quan đến đề tài nghiên cứu như thủ trưởng các đơn vị liên quan đến đề tài nghiên cứu cùng tham dự các buổi nghiệm thu nhằm giám sát hoạt động cũng như chất lượng nghiên cứu . Chuyển giao kết quả nghiên cứu Một trong những vấn đề của công tác NCKH mà KTNN cần chú trọng trong thời gian tới đó là phải xây dựng những quy định về cơ chế chuyển giao kết quả nghiên cứu như quy định các chủ nhiệm đề tài cần phổ biến kết quả nghiên cứu của đề tài trên Website của KTNN, đăng trong các Tạp chí và Tờ Thông tin của ngành. Ngoài ra, cần tăng cường chất lượng của công tác xã hội hóa, in ấn phát hành kết quả nghiên cứu và nâng cao hơn nữa hiệu quả của hoạt động và công tác quản lý KH&CN. Thứ ba, về tổ chức bộ máy nghiên cứu khoa học. Đối với tổ chức bộ máy NCKH cần có quy định cụ thể về trách nhiệm của nghiên cứu viên như quy định về định mức nghiên cứu khoa học hàng năm đối với nghiên cứu viên. Đối với Hội đồng Khoa học KTNN cần nâng cao trách nhiệm của các thành viên trong Hội đồng và tăng cường chất lượng hoạt động của các thành viên Hội đồng và phương thức hoạt động của Hội đồng khoa học cũng cần có những đổi mới, hoàn thiện. Khẩn trương xem xét để xây dựng một tổ chức đảm trách về công tác quản lý hoạt động KH&CN tương xứng với vai trò, địa vị pháp lý cũng như xứng tầm với chức năng nhiệm vụ của KTNN và thông lệ chung về cơ cấu tổ chức bộ máy của một cơ quan bộ và ngang bộ ở nước ta hiện nay. Thứ tư, đổi mới việc phân bổ kinh phí cho hoạt động nghiên cứu khoa học. Đổi mới cơ chế tài chính cần chú trọng đầu tư có trọng điểm cho các đề tài 14 TRÖÔØNG ÑAØO TAÏO VAØ BOÀI DÖÔÕNG NGHIEÄP VUÏ KIEÅM TOAÙN – 20 NAÊM XAÂY DÖÏNG VAØ PHAÙT TRIEÅN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁNSố 113 - tháng 3/2017 NCKH có ý nghĩa đối với sự phát triển của KTNN, không nên phân bổ bình quân, cào bằng như hiện nay; cần nâng cao quyền tự chủ về tài chính và nghiên cứu; và cần có cơ chế khuyến khích tài chính đối với các đề tài nghiên cứu. Đối với những đề tài trọng điểm, quan trọng và phức tạp cần thiết phải tăng cường thêm kinh phí phù hợp để có khả năng tổ chức thực hiện. Có như vậy mới khuyến khích được những người tổ chức thực hiện nghiên cứu đề tài, nhưng bên cạnh đó, cũng lựa chọn được các chủ nhiệm đề tài có “tâm” và đủ “tầm”, có trách nhiệm, niềm đam mê trong nghiên cứu. Thứ năm, tăng cường hợp tác đối ngoại trong nghiên cứu khoa học. Giải pháp này bao gồm việc đẩy mạnh HTQT, mở rộng cơ chế chủ động hợp tác đối với các đơn vị, cá nhân và cho phép các đơn vị, cá nhân tham gia các khóa học, các hiệp hội khoa học hoặc tham gia các hội nghị, hội thảo khoa học của các tổ chức; đồng thời triển khai các nhiệm vụ NCKH theo nội dung Nghị đinh thư ký kết giữa KTNN Việt Nam và các SAI trên thế giới và khu vực nhằm tận dụng kiến thức và kinh nghiệm của họ trong các hoạt động kiểm toán Chính phủ mà chúng ta còn thiếu và hạn chế. Thứ sáu, các giải pháp khác. Ngoài các giải pháp trên, để nâng cao chất lượng hoạt động KH&CN và thông tin khoa học của KTNN trong thời gian tới cần phải chú trọng các giải pháp như cơ chế khuyến khích tài chính đối với các sáng tạo trong NCKH; xây dựng chế độ đãi ngộ, khen thưởng đúng người, đúng việc và kịp thời đối với cá nhân có nhiều thành tích nghiên cứu đóng góp cho sự phát triển của KTNN và những công trình NCKH đặc biệt xuất sắc có tính ứng dụng cao mang lại hiệu quả thiết thực Thứ bảy, cần thiết phải bổ sung các định hướng nghiên cứu. Theo chúng tôi các đề tài nghiên cứu một mặt vẫn tiếp tục nghiên cứu những vấn đề liên quan đến hoàn thiện tổ chức, bộ máy, nâng cao năng lực của KTV; chuyên môn nghiệp vụ kiểm toán, phương pháp kiểm toán mới đối với kiểm toán hoạt động, hồ sơ mẫu biểu; nghiên cứu xây dựng các phần mềm kiểm toán với các phương pháp, kỹ thuật kiểm toán tiên tiến tương tự cơ quan kiểm toán tối cao của các nước trên thế giới để nâng cao chất lượng và hiệu quả kiểm toán; cần phải tăng cường hướng nghiên cứu những vấn đề vĩ mô để tư vấn những vấn đề hoạch định và điều hành chính sách kinh tế vĩ mô và quản trị quốc gia qua đó nâng cao vị thế và uy tín của KTNN. Hoạt động KH&CN và thông tin khoa học của Trường trong 20 năm qua không những đóng góp quan trọng vào quá trình xây dựng và phát triển KTNN trong việc xác lập địa vị và khuôn khổ pháp lý, xây dựng, hoàn thiện tổ chức, bộ máy và hoàn thiện phương pháp chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm toán mà còn góp phần truyền thông qua đó nâng cao vị thế, uy tín, giá trị, và lợi ích hoạt động của KTNN đối với Chính phủ, Quốc hội và xã hội. Hiện nay Trường Đào tạo đang đứng trước những cơ hội lớn để phát triển, song cũng gặp không ít khó khăn và thách thức mới. Để tận dụng được những cơ hội và vượt qua được những thách thức, Trường cần tiếp tục phát huy hơn nữa vai trò của mình góp phần quan trọng vào việc thực hiện thành công Kế hoạch chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, xứng đáng với kỳ vọng của Đảng, Chính phủ, Quốc hội và lãnh đạo KTNN. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Luật khoa học và công nghệ số 29/2013/ QH13 2. Nghị định số 08/2014/NĐ-CP của Chính phủ: Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khoa học và công nghệ 2013. 3. Quy chế tổ chức và quản lý hoạt động khoa học của KTNN ban hành theo quyết định số 1714/QĐ-KTNN ngày 29/10/2012 của Tổng KTNNN. 4. Các Báo cáo tổng kết hoạt động khoa học và công nghệ của KTNN và của Trung tâm KH & BDCB.
File đính kèm:
- thanh_qua_20_nam_hoat_dong_khoa_hoc_va_cong_nghe_cua_truong.pdf