Tháo “nút thắt” xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng Việt Nam
Xử lý nợ xấu là một trong các nhiệm vụ trong tâm của Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ
chức tín dụng (TCTD) ban hành kèm theo Quyết định 254/2012/QĐ-TTg ngày 01/3/2012
của Thủ tướng Chính phủ. Với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và nỗ lực của ngành
Ngân hàng, sau gần 4 năm, đến cuối năm 2015, nợ xấu các TCTD giảm xuống còn 131,8
ngàn tỷ đồng, chiếm 2,55% tổng dư nợ (Biểu 1), vượt mục tiêu Đề án 254/2012/QĐ-TTg
đề ra1. Đây là thành công lớn của nền kinh tế và của ngành Ngân hàng. Tuy nhiên, kết quả
này chỉ mới là bước đầu và có phần mang tính bề nổi. Giải quyết tận gốc nợ xấu vẫn là
thách thức lớn đối với Chính phủ và ngành Ngân hàng Việt Nam thời gian tới.
Bạn đang xem tài liệu "Tháo “nút thắt” xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tháo “nút thắt” xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng Việt Nam
1THAÙNG 6.2016 - SOÁ 169 Tháo “nút thắt” xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng Việt Nam Vấn đề - Sự kiện TS. NGUYỄN MẠNH HÙNG Xử lý nợ xấu là một trong các nhiệm vụ trong tâm của Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) ban hành kèm theo Quyết định 254/2012/QĐ-TTg ngày 01/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ. Với quyết tâm cao của cả hệ thống chính trị và nỗ lực của ngành Ngân hàng, sau gần 4 năm, đến cuối năm 2015, nợ xấu các TCTD giảm xuống còn 131,8 ngàn tỷ đồng, chiếm 2,55% tổng dư nợ (Biểu 1), vượt mục tiêu Đề án 254/2012/QĐ-TTg đề ra1. Đây là thành công lớn của nền kinh tế và của ngành Ngân hàng. Tuy nhiên, kết quả này chỉ mới là bước đầu và có phần mang tính bề nổi. Giải quyết tận gốc nợ xấu vẫn là thách thức lớn đối với Chính phủ và ngành Ngân hàng Việt Nam thời gian tới. 1 Trước sự bùng phát nhanh về nợ xấu, mặc dù quyết tâm rất cao nhưng Đề án 254 chỉ đưa ra mục tiêu đến cuối năm 2015 nợ xấu của các NHTM Nhà nước đạt dưới 3%. 2 SOÁ 169 - THAÙNG 6.2016 Từ khóa: Xử lý nợ xấu; khuyến nghị xử lý nợ xấu. 1. Kết quả xử lý nợ xấu giai đoạn 2012- 2015 ét về tỷ lệ, nợ xấu các TCTD tăng từ 3,06% năm 2011, đạt đỉnh 4,12% năm 2012, rồi giảm dần qua các năm và về 2,55% năm 2015. Nhưng về số tuyệt đối, nợ xấu từ 80.626 tỷ đồng năm 2011 tăng qua các năm và đạt đỉnh là 145.183 tỷ đồng vào cuối năm 2014 (Biểu đồ 1). Điều này cho thấy, chỉ đến năm 2015 nợ xấu mới thực sự giảm đáng kể cả về số tuyệt đối và tương đối. Tuy nhiên, số liệu trên chưa phản ánh đúng thực chất nợ xấu của ngành Ngân hàng. Trên thực tế, nợ xấu của ngành Ngân hàng Việt Nam những năm qua diễn ra với tính chất phức tạp và qui mô lớn hơn số liệu nêu trên. Theo báo cáo của các tổ chức tín dụng (TCTD), ở thời điểm 31/5/2012, nợ xấu của hệ thống là 117.723 tỷ đồng, chiếm 4,47%. Nhưng theo số liệu của Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng thì vào tháng 3/2012, tỉ lệ nợ xấu trong toàn hệ thống TCTD là 8,6%, trong khi theo số liệu của Fitch Ratings, tỉ lệ nợ xấu của Việt Nam tại cùng thời điểm này là 15,65%. Đến tháng 9/2012, tỉ lệ nợ xấu theo một báo cáo của Thủ tướng Chính phủ trước Quốc hội lên tới 17%, xấp xỉ tỉ lệ do Fitch Ratings đưa ra là 17,26%. Có sự chênh lệch lớn giữa nợ xấu do các TCTD báo cáo và con số do Fitch Ratings đưa ra là do Fitch Ratings đã thống kê dư nợ được cố định nhóm nợ theo Quyết định 780/QĐ-NHNN ngày 23/4/2012 của NHNN, mà thực chất các khoản nợ này là nợ xấu. Mức độ xử lý nợ xấu thể hiện ở khối lượng nợ xấu mà ngân hàng đã xử lý qua các năm. Tổng nợ xấu toàn ngành Ngân hàng xử lý qua 4 năm, từ 2012 đến 2015, là 493.052 tỷ đồng, với khối lượng xử lý năm sau cao hơn nhiều so với năm trước (Biểu đồ 2). Khối lượng nợ xấu đã xử lý trong năm 2015 bằng 2,5 lần so với năm 2012. 2. Những vấn đề đặt ra trong xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng thời gian qua Trong tổng số nợ xấu đã xử lý giai đoạn 2012- 2015 thì nợ bán cho Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC) chiếm tỷ trọng lớn nhất (42,24%), tiếp đến là TCTD tự trích lập dự phòng rủi ro (26,7%) và khách hàng trả nợ (18,6%); các hình thức khác chiếm tỷ trọng nhỏ: Phát mại tài sản (2,8%), bán nợ khác (3,2%), hình thức xử lý khác (6,3%). Trong ba hình thức xử lý nợ xấu chiếm tỷ trọng cao nhất (chiếm 87%), ngoài hình thức khách hàng trả nợ đạt tỷ lệ thấp nhất, hai hình thức còn lại (bán nợ cho VAMC và TCTD tự trích lập dự phòng rủi ro) đang nảy sinh những vấn đề tồn tại có thể ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung, ngành Ngân hàng nói riêng, cụ thể như sau: Một là, đối với hình thức TCTD xử lý từ nguồn trích lập dự phòng rủi ro Biểu đồ 1. Tình hình nợ xấu ngành Ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2011- 2015 Nguồn: NHNN 3THAÙNG 6.2016 - SOÁ 169 Qua 4 năm (2012- 2015), các TCTD đã xử lý được 131.519 tỷ đồng nợ xấu từ nguồn trích dự phòng. Đây là mức trích lập rất lớn, tương đương với 31% vốn điều lệ bình quân cùng giai đoạn của toàn Ngành. Nhiều ngân hàng đã “ăn vào” vốn tự có do không tạo ra đủ lợi nhuận để trích lập. Cùng với gánh nặng trích lập dự phòng để xử lý rủi ro các khoản nợ xấu đang nắm giữ, các ngân hàng cũng đang phải chịu áp lực rất lớn trong việc qui định trích lập 20%/năm đối với phần nợ xấu bán cho VAMC nhưng chưa xử lý được tài sản đảm bảo để thu nợ. Việc trích lập dự phòng quá lớn để xử lý rủi ro sẽ dẫn đến nhiều tác động tiêu cực cho cả ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế, như: Thứ nhất, người gửi tiền, vay tiền ngân hàng và nền kinh tế chịu tác động tiêu cực khi ngân hàng trích lập dự phòng rủi ro để xử lý nợ xấu. Để trích lập dự phòng rủi ro đúng qui định, ngân hàng chỉ tiết giảm chi phí để tăng thu nhập là chưa đủ, mà phải điều chỉnh chiến lược kinh doanh theo hướng giảm lãi suất huy động, tăng lãi suất cho vay để gia tăng thu nhập. Như vậy, thiệt thòi cuối cùng vẫn sẽ là người gửi tiền và người vay tiền tại ngân hàng. Điều này cũng đồng nghĩa với doanh nghiệp vay tiền khó tiếp nhận vốn để mở rộng sản xuất, kéo theo thu ngân sách bị hạn chế và sức cạnh tranh của doanh nghiệp nói riêng, của nền kinh tế nói chung bị suy giảm. Thứ hai, làm suy giảm năng lực tài chính và khả năng cạnh tranh của ngành Ngân hàng. Việc trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cao làm cho khả năng sinh lời của ngân hàng suy giảm nghiêm trọng. Tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu của ngành Ngân hàng (ROE) bình quân giai đoạn 2011- 2015 chỉ còn 6,6%/năm so với mức 12,1%/năm giai đoạn 2006- 2010. Năng lực tài chính yếu khiến hạn chế khả năng mở rộng kinh doanh và tăng năng lực cạnh tranh của Ngành. Khả năng đóng góp cho ngân sách của ngành Ngân hàng theo đó cũng suy giảm đáng kể. Hai là, đối với hình thức bán nợ xấu cho VAMC Trong tổng số 207.909 tỷ đồng1 nợ xấu VAMC mua từ các TCTD, đến 31/12/2015 chỉ mới thu hồi được 22.783 tỷ đồng, chiếm 10,9% tổng số nợ đã mua. Hình thức thu nợ của VAMC chủ yếu là phối hợp với các TCTD bán tài sản bảo đảm tiền vay, bán nợ, đôn đốc khách hàng trả nợ... Vì vậy, hiện tại VAMC được xem như là chỗ “nhốt nợ xấu” của các TCTD. Thực chất khối lượng nợ xấu này vẫn là nợ xấu của các TCTD. Hàng năm các TCTD vẫn phải trích 20% dự 1 207.909 là số nợ VAMC mua của TCTD bằng trái phiếu đặc biệt, tương đương với 236.603 tỷ đồng nợ nội bảng của TCTD. Biểu đồ 2. Kết quả xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng giai đoạn 2012- 2015 Nguồn: NHNN 4 SOÁ 169 - THAÙNG 6.2016 phòng rủi ro và sau 5 năm sẽ trả về cho TCTD nếu trong thời gian này không bán được nợ. Tính cả khoản nợ xấu bán cho VAMC chưa xử lý thu hồi được thì nợ xấu của ngành Ngân hàng đến cuối năm 2015 vẫn đang ở mức trên 6%. Như vậy, mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng mức độ xử lý nợ xấu chưa được như kỳ vọng, tỷ lệ nợ xấu thực chất vẫn còn cao. 3. Nguyên nhân của những tồn tại trong xử lý nợ xấu Một là, nợ xấu của Ngành phát sinh trên diện rộng với qui mô lớn là vấn đề của nền kinh tế vĩ mô, vì vậy, muốn giải quyết triệt để nợ xấu, cần phải giải quyết những vấn đề về kinh tế vĩ mô. Một môi trường kinh tế vĩ mô phát triển ổn định giúp doanh nghiệp có thể tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh, tạo nguồn trả nợ ngân hàng. Kinh tế vĩ mô của nước ta đang từng bước đi vào ổn định từ cuối năm 2014 đến nay và còn hàm chứa nhiều yếu tố nội tại cũng như tác động bất lợi từ bên ngoài ảnh hưởng đến phát triển bền vững cũng như xử lý nợ xấu của ngân hàng. Hai là, chưa có nhiều các nguồn lực tài chính thật sự và hữu hiệu ngoài nguồn lực của các chủ nợ (TCTD, VAMC) và con nợ (doanh nghiệp, hộ gia đình và cá nhân vay vốn) để hỗ trợ xử lý nợ xấu. Trách nhiệm xử lý nợ xấu, nhất là trách nhiệm về tài chính vẫn đang thuộc về các chủ nợ và con nợ, trong khi họ đang sức cùng lực kiệt, cần sự trợ giúp từ bên ngoài. Những năm qua, Chính phủ và các Bộ/ngành có liên quan đã có hàng loạt cơ chế chính sách để hỗ trợ cho ngân hàng và doanh nghiệp xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng nhất là “tiền tươi, thóc thật” để xử lý nợ xấu thì gần đây mới được ghi nhận. Quan điểm về xử lý nợ xấu không sử dụng tiền ngân sách sẽ kéo dài thời gian xử lý và tạo ra một số tiêu cực cho ngân hàng, doanh nghiệp và nền kinh tế như đã nêu ở trên. Theo Nghị định 53/2013/ NĐ-CP, VAMC có vốn điều lệ 500 tỷ đồng là quá nhỏ để thực hiện nhiệm vụ đầu tư cơ sở vật chất và mua nợ các TCTD theo Bảng 1. Kết quả xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng theo các hình thức giai đoạn 2012- 2015 Đơn vị: Tỷ đồng Hình thức xử lý nợ xấu Tổng 2012 2013 2014 2015 Khối lượng Tỷ trọng Khách hàng trả nợ 91.878 18,6% 25.322 15.944 21.610 29.002 Bán phát mại TSBĐ 13.886 2,8% 4.077 2.533 3.374 3.902 TCTD sử dụng quỹ DPRR 131.519 26,7% 35.176 30.387 30.556 35.400 Bán nợ cho VAMC 207.909 42,24% 0 29.578 79.612 98.719 Bán nợ khác 15.829 3,2% 3.743 6.572 3.836 1.678 Hình thức khác 32.039 6,3% 6.358 2.962 4.562 18.157 Tổng cộng 493.052 100% 74.667 87.976 143.550 186.858 Nguồn: NHNN Biểu đồ 3. ROE ngành Ngân hàng giai đoạn 2006- 2015 Nguồn: NHNN 5THAÙNG 6.2016 - SOÁ 169 giá thị trường. Đến 31/3/2015, vốn điều lệ của VAMC được nâng lên 2.000 tỷ đồng theo Nghị định 34/2015/NĐ-CP của Chính phủ. Đây là quyết định cần thiết để tăng nhanh khả xử lý nợ xấu cho VAMC. Tuy nhiên, so với gần 208.000 tỷ đồng nợ mà VAMC đã mua về thì chưa thấm vào đâu. Theo quan điểm của tác giả, mức vốn trên vẫn còn thấp so với yêu cầu xử lý nhanh chóng và hiệu quả nợ xấu. Cần phải có nguồn lực tài chính lớn hơn (cả trong và ngoài ngân sách) mới có thể giải quyết cơ bản nợ xấu. Ba là, Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ xấu hoạt động theo đúng nguyên tắc thị trường. Mua bán nợ xấu là ngành nghề kinh doanh có điều kiện, hiện tại chỉ các TCTD, công ty quản lý nợ (VAMC, DATC) mới được phép thực hiện và chưa hoạt động theo đúng nguyên tắc thuận mua vừa bán của thị trường. VAMC mua nợ từ các TCTD, nhưng chưa có thị trường để Công ty này bán nợ cho các tổ chức khác. Các khoản nợ mà VAMC mua từ các TCTD chủ yếu được mua theo giá sổ sách (dư nợ gốc), chưa mua bán theo giá thị trường2. Mặt khác, chưa có nhiều chủ thể tham gia thị trường mua nợ. Trong khi có hàng trăm, thậm chí là hàng ngàn chủ thể có nhu cầu bán nợ (các TCTD và chi nhánh), thì có quá ít bên mua nợ (VAMC, DATC và có thể là AMC của các TCTD). Như vậy, cung thì nhiều, cầu thì hạn chế, nên xử lý nợ xấu chậm. 2 Ngày 12/4/2016 Thống đốc NHNN đã ký ban hành Quyết định 618/QĐ- NHNN về việc xây dựng và triển khai Phương án mua nợ xấu theo giá trị thị trường của VAMC. Mặt khác, phần lớn các khoản nợ xấu của các TCTD được bảo đảm bởi các bất động sản (BĐS), nhưng ở nước ta chưa có thị trường bất động sản đúng nghĩa, đất đai vẫn thuộc sở hữu Nhà nước, chưa nói đến việc hoàn thành các thủ tục pháp lý đối với BĐS là vô cùng phức tạp và khó khăn. Bốn là, VAMC là đơn vị chủ lực mua nợ xấu của các TCTD, nhưng với mô hình hiện tại không cho phép VAMC đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ xấu đã mua. VAMC mua nợ xấu của các TCTD có bảo đảm bằng tài sản ở trên tất cả các tỉnh/thành phố trực thuộc trung ương của cả nước. Nhưng hiện tại, VAMC chỉ có một trụ sở duy nhất ở Hà Nội, điều này nói lên VAMC không đủ nguồn lực (mạng lưới, con người) để đồng thời thực hiện bán tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ trên phạm vi cả nước. Thời gian qua nợ xấu VAMC thu hồi thông qua hình thức bán tài sản bảo đảm tiền vay chủ yếu là do TCTD bán nợ thực hiện (VAMC ủy quyền). Sắp tới, khi VAMC mua nợ theo giá thị trường, đòi hỏi Công ty này phải mở rộng mạng lưới và phát triển mạng lưới đại lý xử lý tài sản bảo đảm tiền vay phù hợp với các qui định của pháp luật mới có thể đẩy nhanh tiến độ xử lý tài sản bảo đảm tiền vay thu nợ. Năm là, việc thu giữ, bán, phát mại tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ xấu còn gặp nhiều khó khăn. Thực tế khi VAMC tiến hành phát mại các tài sản thế chấp, có quá nhiều vướng mắc pháp lý và thực tế không dễ vượt qua được. Chẳng hạn, khi chuyển giao tài sản cho người mua phải mất một khoản chi phí lớn hoặc thủ tục giải chấp cực kỳ phức tạp, nhất là khi chủ sở hữu tài sản (bên thế chấp- con nợ, bảo lãnh bằng tài sản) bất hợp tác. Tâm lý của người mua cũng không yên tâm khi mua tài sản phát mại. Họ sợ khi mua tài sản này rồi không thể nào sử dụng được ngay theo ý muốn vì có sự chống đối hoặc ngăn cản từ người chủ cũ, hoặc do thủ tục xác nhận quyền sở hữu đầy đủ kéo dài rất lâu. Đó là những rào cản lớn làm kéo dài thời gian xử lý nợ xấu. 4. Một số khuyến nghị Một là, tạo môi trường pháp lý thống nhất để hoạt động mua, bán và xử lý nợ xấu bảo đảm thông suốt Theo qui định của pháp luật hiện hành, các chủ thể tham gia vào hoạt động mua, bán nợ khác nhau có qui định riêng về hoạt động mua, bán nợ. Hoạt động mua, bán nợ có sự tham gia của Công ty Mua bán nợ Việt Nam (DATC) đang được điều chỉnh trực tiếp bởi Thông tư số 57/2015/TT- BTC ngày 24/4/2015 của Bộ Tài chính. Hoạt động mua, bán nợ có sự tham gia của TCTD đang được điều chỉnh trực tiếp bởi Thông tư số 09/2015/TT-NHNN ngày 17/7/2015 của NHNN. Hoạt động mua, bán nợ có sự tham gia của VAMC đang được điều chỉnh trực tiếp bởi các Nghị định: Số 53/2013/NĐ-CP ngày 18/5/2013, Số 34/2015/NĐ-CP ngày 31/3/2015 và Số 18/2016/ NĐ-CP của Chính phủ; Thông 6 SOÁ 169 - THAÙNG 6.2016 tư số 19/2013/TT-NHNN ngày 06/9/2013, Thông tư số 14/2015/ TT-NHNN ngày 28/8/2015 và Quyết định số 618/QĐ-NHNN ngày 12/4/2016 của NHNN. Trong tương lai, khi có sự tham gia của các tổ chức trong và ngoài nước, nếu lại có thêm các qui định riêng về hoạt động mua bán nợ cho các tổ chức này, sẽ rất khó cho việc triển khai thực hiện, cũng như khó có sự thống nhất, công bằng và thuận tiện cho công tác kiểm tra, giám sát hoạt động mua bán nợ. Lưu ý rằng, trong quá trình mua bán nợ, một con nợ sẽ liên quan đến nhiều chủ nợ và ngược lại. Ví dụ, khi DATC tham gia mua nợ, tái cấu trúc doanh nghiệp nhà nước A, thì có thể sẽ liên quan đến nhiều TCTD, VAMC và các tổ chức tài chính khác là chủ nợ của doanh nghiệp A. Lúc đó, nếu các văn bản qui phạm pháp luật có liên quan không có sự thống nhất với nhau, thì rất khó cho quá trình xử lý. Vì vậy theo chúng tôi, cần nghiên cứu để gom các qui định riêng lẻ này thành một văn bản qui phạm pháp luật chung về hoạt động mua bán nợ. Cùng với tạo hành lang pháp lý cho xử lý nợ, hành lang pháp lý để bảo đảm an toàn cho việc tiếp tục cho vay mới đối với khách hàng có nợ xấu cũng cần được sớm nghiên cứu, ban hành để hỗ trợ xử lý nợ xấu. Đây cũng là yêu cầu cấp thiết, để người ra quyết định tín dụng có đủ tự tin rằng, cấp tín dụng mới cho khách hàng có nợ xấu là rủi ro, nhưng họ được pháp luật bảo vệ. Hai là, tạo điều kiện thuận lợi để các tổ chức kinh tế- tài chính có năng lực và kinh nghiệm nhanh chóng tham gia thị trường mua bán nợ xấu Đề án xử lý nợ xấu các TCTD ban hành kèm theo Quyết định 843/QĐ-TTg ngày 31/5/2013 xác định nguyên tắc “Huy động mọi nguồn lực trong xã hội để xử lý nợ xấu các TCTD...”. Cho đến nay, nguyên tắc này chưa được thực hiện tốt. Với các chủ thể tham gia mua bán nợ xấu như hiện nay (gồm các TCTD, DATC, VAMC và các AMC của các TCTD) thì quá trình xử lý nợ xấu sẽ không nhanh như kỳ vọng. Cần tạo điều kiện pháp lý thuận lợi để các tổ chức trong và ngoài nước có đủ điều kiện hoạt động mua bán nợ, nhất là các tổ chức tài chính nước ngoài tham gia vào quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD Việt Nam. Trong điều kiện ngân sách hạn hẹp, việc tạo môi trường pháp lý thuân lợi, rõ ràng, minh bạch để thu hút các nguồn lực tài chính cũng như năng lực, kinh nghiệm xử lý nợ xấu của các tổ chức tài chính nước ngoài trong thời gian tới là hết sức cần thiết. Nếu các tổ chức và cá nhân nước ngoài tham gia mua bán nợ xấu, giá trị thực của các khoản nợ sẽ được đánh giá xác thực, tính minh bạch cao, điều cần thiết cho việc xác định chính xác mặt bằng giá nợ xấu của các TCTD. Nhưng quan trọng hơn, việc có được “tiền thật” từ nước ngoài để đẩy nhanh xử lý nợ xấu các TCTD Việt Nam là giải pháp hữu hiệu lúc này. Sở dĩ họ không vào được là do chưa có chính sách hoàn thiện, tính pháp lý về quyền chủ nợ, quyền xử lý tài sản chưa cao, còn nhiều tranh chấp. Thực tế xử lý nợ của các TCTD cho thấy, trong trường hợp khách hàng không đồng thuận, một TCTD phải mất không dưới 2 năm để xử lý bảo đảm tiền vay là BĐS để thu hồi nợ. Nếu tình trạng này không được cải thiện, thì việc thu hút nguồn lực tài chính từ nước ngoài để xử lý nợ xấu các TCTD tại Việt Nam là điều khó thực hiện. Bên cạnh khuyến khích các tổ chức tài chính, nhất là tổ chức tài chính nước ngoài tham gia hoạt động mua bán nợ xấu các TCTD Việt Nam, việc có chính sách rõ ràng, minh bạch để các doanh nghiệp, các tập đoàn kinh tế tham gia hoạt động mua bán, sáp nhập doanh nghiệp cũng là giải pháp hữu hiệu cần chú trọng triển khai. Chủ doanh nghiệp mới sau mua bán, sáp nhập sẽ thực hiện trả nợ cho ngân hàng hoặc cùng ngân hàng thống nhất để tái cơ cấu lại khoản nợ xấu tại ngân hàng. Lúc đó, khoản nợ xấu sẽ trở thành nợ tốt hơn do năng lực quản lý và tài chính của con nợ cũ đã được thay thế bởi con nợ mới tốt hơn. Tuy nhiên, cần có tiêu chí lựa chọn doanh nghiệp trong nước đủ điều kiện tham gia xử lý nợ xấu tại các TCTD Việt Nam, nếu không sẽ dễ dẫn đến tạo dư địa để biến tướng của tín dụng đen phát triển. Mặt khác phải hạn chế để đi đến triệt tiêu cơ chế xin, cho dự án BĐS trên cơ sở phát triển thị trường BĐS công khai, minh bạch. Ba là, Ngân sách Nhà nước là nguồn tài chính cần thiết để xử lý nhanh và hiệu quả nợ xấu của các TCTD Nợ xấu của các TCTD phát sinh 7THAÙNG 6.2016 - SOÁ 169 trên diện rộng với qui mô lớn là vấn đề của nền kinh tế vĩ mô, vì vậy, Ngân sách Nhà nước tham gia vào xử lý nợ xấu là việc cần thiết. Hầu hết quá trình xử lý nợ xấu của các nước trên thế giới, Ngân sách Nhà nước là nguồn tài chính quan trọng để xử lý nợ xấu của nền kinh tế. Trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á giai đoạn 1997- 2000, để xử lý nợ xấu các TCTD, các nước sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp mạnh. Trong đó, việc thành lập Công ty mua bán nợ xấu quốc gia (AMC) là giải pháp trung tâm mà các quốc gia lựa chọn. Với mỗi quốc gia, do những đặc điểm kinh tế- xã hội và lịch sử khác nhau nên AMC sẽ có cách thức hoạt động riêng, nhưng điểm chung mà các nước đều làm là Ngân sách Nhà nước tham gia với tư cách là nguồn lực quan trọng để thực hiện xử lý nợ xấu thông qua cơ chế hoạt động của các AMC. Tại Nhật Bản giai đoạn 1995- 2000, Bộ Tài chính bơm gần 10.000 tỷ Yên để xử lý nợ xấu các TCTD, Ngân hàng Trung ương Nhật (BOJ) bơm thanh khoản mà không cần phải thế chấp tài sản. Ở Mỹ, để giải quyết nợ xấu và hỗ trợ thanh khoản các TCTD cho cuộc khủng hoảng 2008- 2009, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã bơm 700 tỷ USD cho các TCTD nước này. Ngân hàng Trung ương Anh chi 500 tỷ bảng để đảm bảo thanh khoản và xử lý nợ xấu ngành Ngân hàng nước này giai đoạn 2008- 2009 Còn ở nước ta thời gian qua, Ngân sách Nhà nước rất eo hẹp nên chưa tham gia vào xử lý nợ xấu của các TCTD. Theo chúng tôi, Ngân sách Nhà nước cần tham gia để xử lý có hiệu quả nợ xấu của nền kinh tế. Nếu các TCTD cứ tiếp tục trích lập dự phòng để xử lý rủi ro với khối lượng lớn như những năm vừa qua thì sẽ dẫn đến sức cùng lực kiệt và rất có thể dẫn tới đổ vỡ. Do đó, đã đến lúc ngân sách có hỗ trợ giúp các ngân hàng vượt qua khó khăn để tiếp tục đảm trách tốt vai trò huyết mạch của nền kinh tế. Bốn là, tiếp tục hoàn thiện mô hình và cơ chế xử lý nợ xấu cho VAMC, nhất là cơ chế xử lý tài sản bảo đảm tiền vay VAMC vẫn là đơn vị chủ lực để xử lý nợ xấu của các TCTD Việt Nam thời gian tới. Nhưng phải chuyển từ “nhốt nợ” sang “tiêu thụ nợ”. Muốn vậy, phải hoàn thiện mô hình và cơ chế xử lý nợ xấu cho VAMC. Về mô hình, nên khẩn trương mở các chi nhánh của VAMC ở khu vực miền Trung và miền Nam. Các chi nhánh này nên hình thành tại các trung tâm lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng. Đồng thời, cần mở một số văn phòng đại diện tại các khu vực trọng điểm như Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ. Các chi nhánh, văn phòng đại diện phải bảo đảm tinh gọn, năng động, hiệu quả. Muốn vậy, phải đặc biệt chú trọng khâu tuyển chọn và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Về cơ chế, tiếp tục tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong hoạt động mua, bán nợ xấu, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay thu hồi nợ xấu của VAMC. Sau 4 năm ra đời và hoạt động, với sự cố gắng của Chính phủ, NHNN và các Bộ/ngành có liên quan, đến nay, đã có một hệ thống văn bản qui phạm pháp luật khá đầy đủ để VAMC hoạt động. Tuy nhiên, với mô hình xử lý nợ xấu không dùng vốn ngân sách mang tính đặc thù chưa hề có trên thế giới, do vậy nhiệm vụ của các nhà hoạch định chính sách, pháp luật và của VAMC là “vừa khai phá, vừa thiết kế, vừa thi công”3. Vì vậy, yêu cầu về sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các qui định của pháp luật về cơ chế chính sách để VAMC hoạt động thông suốt, có hiệu quả là một tất yếu khách quan. Đặc biệt là các qui định về mô hình, cơ chế tài chính, xử lý tài sản và trách nhiệm phối hợp thực hiện của cơ quan hành pháp trong xử lý thu hồi nợ xấu. Hiện vẫn còn nhiều bất cập về các qui định của pháp luật và khó khăn trong thực tế triển khai xử xý thu hồi nợ xấu của VAMC và của các TCTD. Vấn đề này chúng tôi xin sẽ đề cập ở một nghiên cứu chuyên sâu khác. Năm là, xây dây là, tây là, y chúng t đy là, y chúng tôi xin sẽ đề cập ở một nghiên cứu chuyên sâu khác. và của các TCTD. Vhối hợp thực hiện của c Tiến hành tổng kết, đánh giá xác thực kết quả thực hiện Đề án 254 về cơ cấu lại hệ thống TCTD giai đoạn 2011-2015 và tiếp tục xây dựng và tổ chức thực hiện Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2016- 2020. Xem đây là 3 Nguyễn Quốc Hùng (2014). Đánh giá sự phù hợp trong lộ trình, cách thức và hoàn thiện cơ cấu cho VAMC. < vn/hoat-dong-cua-vamc/danh-gia- su-phu-hop-trong-lo-trinh--cach- thuc-va-hoan-thien-co-cau-cho- vamc/37462/026002001.html>, xem 1/4/2016 8 SOÁ 169 - THAÙNG 6.2016 giải pháp quan trọng, không chỉ là trước mắt, mà còn là giải pháp dài để hạn chế, phòng ngừa nợ xấu phát sinh. Trong đó, cần tập trung giải quyết tốt các vấn đề: Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh quá trình mua bán, sáp nhập (M&A) các TCTD. Ưu tiên bán, sáp nhập các TCTD yếu kém vào TCTD tốt để bảo đảm có đủ năng lực tài chính xử lý nợ xấu. Vì với những ngân hàng yếu kém, năng lực tài chính đã suy kiệt, thì càng để lâu, nợ xấu càng trầm trọng. Hơn nữa, với năng lực quản trị rủi ro của những TCTD yếu kém, nếu không được M&A vào TCTD tốt, thì có được trợ giúp xử lý nợ xấu, nguy cơ tái lập nợ xấu mới là hiện hữu. Thứ hai, từng TCTD xây dựng phương án, mục tiêu, lộ trình và giải pháp xử lý nợ đối với từng khách hàng thuộc nhóm “khách hàng nhạy cảm”. Nhóm khách hàng nhạy cảm ở đây bao gồm khách hàng là sân sau của các ông chủ, lãnh đạo các TCTD, các chủ sở hữu chéo ngân hàng, các tập đoàn, tổng công ty. Với nhóm khách hàng này, nếu để ung nhọt nợ xấu phát tán, nguy cơ dẫn đến đỗ bể các NHTM chủ nợ là rất lớn. Vì thế, cần phải xây dựng các kịch bản xử lý nợ cho từng khách hàng riêng biệt. Đây là vấn đề hết sức lớn và phức tạp, phải đặc biệt lưu tâm lựa chọn phương án tối ưu, không chủ quan nóng vội, nhưng phải cương quyết, đúng lộ trình. Thứ ba, các TCTD, nhất là TCTD có nợ xấu cao thường xuyên phân tích nợ xấu, phân loại khách hàng nợ xấu để lựa chọn phương án xử lý tối ưu. Thực tế chỉ TCTD mới biết và lựa chọn phương án xử lý nợ xấu phù hợp đối với từng khách hàng. Với những khách hàng có triển vọng, cần tạo điều kiện để họ vay mới với lãi suất hợp lý để tiếp tục sản xuất kinh doanh, tạo nguồn trả nợ. Đồng thời, xem xét miễn, giảm lãi nợ cũ để cùng nhau vượt khó, hướng nhanh đến mục tiêu giảm nợ xấu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Với những khách hàng không còn khả năng phát triển, cần sử dụng đồng bộ nhiều giải pháp như bán nợ cho VAMC, xử lý tài sản bảo đảm tiền vay, xử lý nợ từ quỹ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng. TCTD cũng cần chú trọng đến việc tiết giảm chi phi hoạt động, tăng trích lập dự phòng rủi ro, tăng trưởng tín dụng, hạ lãi suất cho vay, gắn tăng trưởng tín dụng với nâng cao chất lượng thẩm định và phòng ngừa rủi ro tín dung... xem đây là những giải pháp căn cơ, lâu dài để giảm tỷ lệ nợ xấu. ■ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Các Nghị định số: 163/2006/NĐ-CP, 53/2013/NĐ-CP, 34/2015/NĐ-CP và 18/2016/NĐ-CP 2. Các Quyết định số: 59/2006/QĐ- NHNN, 618/QĐ-NHNN và 254/2012/QĐ- TTg. 3. Các Thông tư số: 19/2013/TT-NHNN, 14/2015/TT-NHNN, 09/2015/TT-NHNN và 57/2015/TT-BTC 4. CafeF, Vnexpress, Vneconomy 5. IMF, financial soundness indicators, http:/blooberg.com. 6. Nguyễn Quốc Hùng (2014). Đánh giá sự phù hợp trong lộ trình, cách thức và hoàn thiện cơ cấu cho VAMC. 7. Tổng cục Thống kê, Niên giám thông kê và website. 8. Tổng hợp từ các bản tin tài chính APT, SUMMARY Recommendation for NPL resolution in Vietnam NPL resolution is one of the core missions of Credit Institutions (CI) Restructuring Plan issued along with Decision 254/2012/QD-TTg on 01/3/2012 by the Prime Minister. With high commitments from the political system and extreme effort from the banking sector, after 4 years, at the end of 2015, the NPL was reduced to 131,1 thousand billions VND, or 2,55% of total loan outstanding (Graph 1), surpassed the goals set out in Plan 254/2012/QD-TTg [1]. This is a great achivement of the economy as well as the banking sector. However, this is only the first steps. Thorough NPL resolution is still a great challenge for the Government and the banking sector in the next years. THÔNG TIN TÁC GIẢ Nguyễn Mạnh Hùng, Tiến sỹ Đơn vị công tác: Viện Chiến lược Ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Lĩnh vực nghiên cứu chính: Tín dụng, quản trị NHTM, chính sách tiền tệ, tín dụng ngân hàng Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Ngân hàng, Khoa học và Đào tạo ngân hàng, Công nghệ ngân hàng, Thị trường tài chính Email: manhhungvba@gmail.com
File đính kèm:
- thao_nut_that_xu_ly_no_xau_nganh_ngan_hang_viet_nam.pdf