The influence of internal control factors on the perfomance effectiveness of the garment, agricultural and chemical enterprises listed on Vietnam’s stock market

Abstract: The research focuses on analysing the impacts of internal control factors on the

performance effectiveness of the garment, agricultural and chemical enterprises listed on

Vietnam’s stock market. The research result shows that of the factors of Risk Assessment, Control

Activities, Information and Communication, Monitoring and Control Environment, the factor of

Information and Communication has the strongest effect on the performance effectiveness of the

enterprises. Next to it is Risk Assessment, Control Environment and Monitoring. The factor of

Control Activities has the least influence on the performance effectiveness of the enterprises.

pdf 13 trang yennguyen 3160
Bạn đang xem tài liệu "The influence of internal control factors on the perfomance effectiveness of the garment, agricultural and chemical enterprises listed on Vietnam’s stock market", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: The influence of internal control factors on the perfomance effectiveness of the garment, agricultural and chemical enterprises listed on Vietnam’s stock market

The influence of internal control factors on the perfomance effectiveness of the garment, agricultural and chemical enterprises listed on Vietnam’s stock market
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
49 
 Original Article 
The Influence of Internal Control Factors on 
the Perfomance Effectiveness of the Garment, Agricultural 
and Chemical Enterprises Listed on Vietnam’s Stock Market 
Do Huy Thuong1,*, Nguyen Thi Phuong Hong2 
1VNU School of Interdisciplinary Studies, Vietnam National University, Hanoi, 
144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
2Hanoi University of Natural Resources and Environment, 
41A, Phu Dien, Bac Tu Liem, Hanoi, Vietnam 
Received 17 February 2020 
Revised 06 March 2020; Accepted 06 March 2020 
Abstract: The research focuses on analysing the impacts of internal control factors on the 
performance effectiveness of the garment, agricultural and chemical enterprises listed on 
Vietnam’s stock market. The research result shows that of the factors of Risk Assessment, Control 
Activities, Information and Communication, Monitoring and Control Environment, the factor of 
Information and Communication has the strongest effect on the performance effectiveness of the 
enterprises. Next to it is Risk Assessment, Control Environment and Monitoring. The factor of 
Control Activities has the least influence on the performance effectiveness of the enterprises. 
Keywords: Internal control, performance effectiveness of enterprises, Vietnam. 
*
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: thuonghuydo@yahoo.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4318 
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
50 
Ảnh hưởng của các nhân tố kiểm soát nội bộ đến 
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp may mặc, nông nghiệp 
và hóa chất niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam 
Đỗ Huy Thưởng1,*, Nguyễn Thị Phương Hồng2 
1Khoa Các khoa học liên ngành, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
2Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội, 41A, 
Đường Phú Diễn, Bắc Từ Liêm, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 17 tháng 02 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 06 tháng 3 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 06 tháng 3 năm 2020 
Tóm tắt: Nghiên cứu tập trung phân tích ảnh hưởng của các nhân tố kiểm soát nội bộ (KSNB) đến 
hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp ngành may mặc, nông nghiệp và hóa chất niêm yết trên 
thị trường chứng khoán Việt Nam. Kết quả cho thấy, trong số các nhân tố, “Thông tin và truyền 
thông” có ảnh hưởng mạnh nhất đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, tiếp đến là “Đánh 
giá rủi ro”, “Môi trường kiểm soát” và “Giám sát”, cuối cùng là nhân tố “Hoạt động kiểm soát”. 
Từ khóa: Kiểm soát nội bộ, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, Việt Nam. 
1. Đặt vấn đề * 
Trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt hiện nay, 
nhiều doanh nghiệp có nguy cơ bị hủy niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam do quản 
trị yếu kém, dẫn đến làm ăn thua lỗ hoặc báo 
cáo tài chính không minh bạch. Trong bối cảnh 
đó, KSNB được coi như là một công cụ quản lý 
các nguồn lực của doanh nghiệp một cách hữu 
hiệu góp phần hạn chế những rủi ro phát sinh 
trong sản xuất và kinh doanh. Do vậy, nghiên 
cứu về KSNB và ảnh hưởng của KSNB đến 
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là 
cần thiết. 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: thuonghuydo@yahoo.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1108/vnueab.4318 
2. Cơ sở lý thuyết 
2.1. Kiểm soát nội bộ 
KSNB là hệ thống bao gồm các quy trình, 
chính sách, thủ tục kiểm soát mà các doanh 
nghiệp thiết lập và áp dụng nhằm thực hiện 4 
mục tiêu: (1) Bảo vệ tài sản của doanh nghiệp, 
(2) Báo cáo tài chính đáng tin cậy, (3) Các quy 
định phải được tuân thủ, (4) Mọi hoạt động 
trong đơn vị được quản lý hiệu quả [1]. 
Montgomery (1916) đã đưa ra quan điểm 
KSNB lần đầu tiên trong cuốn “Lý thuyết và 
thực hành kiểm toán” nhằm giúp nhận diện tác 
động của KSNB đối với công việc kiểm toán 
[2]. Sau đó, Ủy ban Quốc gia chống gian lận về 
báo cáo tài chính của Hoa Kỳ (Committee of 
Sponsoring Organisation - COSO) đã nghiên 
cứu và công bố hệ thống KSNB vào năm 1992 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
51 
với 5 nhân tố (Môi trường kiểm soát, Đánh giá 
rủi ro, Hoạt động kiểm soát, Thông tin và 
truyền thông, Giám sát) và bổ sung 17 nguyên 
tắc vào năm 2013 [1]. Những nguyên tắc đó 
chính cấu thành 5 nhân tố của hệ thống KSNB 
(Bảng 1). 
Bảng 1. Các nhân tố và nguyên tắc ảnh hưởng đến hệ thống KSNB theo COSO 
TT Nhân tố KSNB Nguyên tắc của KSNB 
1 
Môi trường kiểm soát 
1. Cam kết về tính trung thực và tuân thủ giá trị đạo đức 
2. Chịu trách nhiệm giám sát 
3. Thiết lập cơ cấu quyền hạn và trách nhiệm 
4. Thực thi cam kết về năng lực 
5. Đảm bảo trách nhiệm giải trình 
2 
Đánh giá rủi ro 
6. Các mục tiêu phù hợp và cụ thể 
7. Xác định và phân tích rủi ro 
8. Đánh giá rủi ro gian lận 
9. Nhận diện và phân tích các thay đổi trọng yếu 
3 
Hoạt động kiểm soát 
10. Lựa chọn và phát triển hoạt động kiểm soát 
11. Lựa chọn và phát triển hoạt động kiểm soát chung về công nghệ 
12. Triển khai thực hiện thông qua chính sách và thủ tục kiểm soát 
4 
Thông tin và truyền thông 
13. Sử dụng các thông tin thích đáng, phù hợp 
14. Truyền thông nội bộ 
15. Truyền thông bên ngoài tổ chức 
5 Hoạt động giám sát 
16. Thực hiện hoạt động đánh giá thường xuyên hoặc định kỳ 
17. Đánh giá và truyền thông báo cáo giám sát 
Nguồn: COSO, 2013.
Tính hiệu lực của KSNB là sự hoạt động 
theo các quy định liên quan đến 5 nhân tố 
KSNB. Việc đánh giá KSNB có hiệu quả hay 
không phụ thuộc vào kết quả đánh giá sự hoạt 
động của 5 nhân tố KSNB [1]. Đây chính là các 
nhân tố sẽ ảnh hưởng đến hiệu quả của hệ thống 
KSNB ở các doanh nghiệp. 
Có cùng quan điểm với COSO cho rằng 
KSNB hiệu lực và hiệu quả là một thành phần 
quan trọng của quản trị doanh nghiệp và là nền 
tảng cho doanh nghiệp hoạt động an toàn, đảm 
bảo đạt mục tiêu đặt ra, các nghiên cứu ở các 
quốc gia trên thế giới cũng kết luận KSNB hiệu 
quả sẽ ngăn ngừa và phát hiện các gian lận, sai 
sót trong hoạt động của doanh nghiệp [4]. 
Koutoupis và Tsamis (2009) nghiên cứu về thái 
độ áp dụng KSNB của các ngân hàng ở Hy Lạp 
theo cách tiếp cận dựa vào rủi ro, kết quả cho 
thấy tuân thủ quy định quốc tế có thể giúp 
doanh nghiệp giảm thiểu rủi ro. Vì vậy, KSNB 
cần phải được quan tâm đúng mức và kịp thời 
[5]. Ngoài ra, Fadzil, Haron và Jantan (2005) đã 
nghiên cứu KSNB của các công ty Malaysia 
nhằm xác định bộ phận kiểm toán nội bộ có 
tuân thủ các tiêu chuẩn nghề nghiệp không. Kết 
quả cho thấy việc quản lý kiểm toán nội bộ hiệu 
quả có ảnh hưởng đến các khía cạnh của KSNB 
[6]. Các nghiên cứu này cho thấy tầm quan 
trọng của KSNB đối với hoạt động kinh doanh 
của doanh nghiệp. 
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu quốc tế đã vận 
dụng lý thuyết của COSO để đánh giá tính hữu 
hiệu của KSNB tại các doanh nghiệp. Điển hình 
như Umar và cộng sự (2018) đã khảo sát 382 
nhân viên làm việc tại các ngân hàng thương 
mại ở Nigeria để xem xét tác động của KSNB 
đối với hoạt động của các ngân hàng thương 
mại này. Kết quả cho thấy hoạt động kiểm soát, 
môi trường kiểm soát, giám sát và đánh giá rủi 
ro có tương quan thuận với hiệu quả hoạt động 
của các ngân hàng thương mại, trong khi đó 
thông tin và truyền thông không có ảnh hưởng 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
52 
đến hoạt động của ngân hàng [7]. Nghiên cứu 
của Zipporah (2015) đánh giá tác động của 
KSNB đến hiệu quả hoạt động tài chính của các 
doanh nghiệp tại Nairobi (Kenya) trên cơ sở sử 
dụng dữ liệu thứ cấp là các báo cáo thường niên 
của 35 doanh nghiệp giai đoạn 2013-2014, 
thông qua phân tích hồi quy đa biến, với biến 
phụ thuộc là lợi nhuận trên tài sản (ROA) và 
các biến độc lập là môi trường kiểm soát, đánh 
giá rủi ro, hoạt động kiểm soát, thông tin truyền 
thông và giám sát. Kết quả cho thấy, “Môi 
trường kiểm soát”, “Đánh giá rủi ro”, “Hoạt 
động kiểm soát”, “Thông tin và truyền thông” 
có tác động tích cực với ROA, trong khi “Giám 
sát” lại có tác động ngược chiều với ROA [8]. 
Ngoài ra, Lagat và cộng sự (2016) đã nghiên 
cứu tác động của KSNB đối với quản lý tài 
chính trong chính quyền quận Bangingo, 
Kenya. Kết quả cho thấy trong số 5 nhân tố 
KSNB, “Hoạt động giám sát” có ảnh hưởng 
đáng kể đến quản lý tài chính, trong khi đó 
“Môi trường kiểm soát” và “Thông tin và 
truyền thông” không có ảnh hưởng đến quản lý 
tài chính [9]. 
Tại Việt Nam, nghiên cứu ứng dụng KSNB 
đã được nhiều tác giả quan tâm. Trên cơ sở lý 
thuyết và mô hình nghiên cứu về KSNB xây 
dựng theo COSO (2013), Nguyễn Thị Loan 
(2018) đã thu thập dữ liệu thông qua khảo sát 
250 lãnh đạo và nhân viên của 26 ngân hàng 
thương mại tại Việt Nam năm 2017, kết quả 
cho thấy các nhân tố có ảnh hưởng tích cực đến 
tính hiệu lực của KSNB hoạt động tín dụng tại 
các ngân hàng lần lượt là “Giám sát rủi ro”, 
“Thủ tục kiểm soát”, “Thông tin truyền thông” 
và “Môi trường kiểm soát” [10]. Đáng chú ý, 
nghiên cứu tác động của KSNB đến hiệu quả 
hoạt động của Tập đoàn Điện lực Việt Nam của 
Vũ Thu Phụng (2016) cho thấy, các nhân tố 
KSNB đều có tác động cùng chiều đến hiệu quả 
hoạt động của doanh nghiệp và mức độ ảnh 
hưởng của từng nhân tố đến hiệu quả hoạt động 
của doanh nghiệp [11]. 
Từ các nghiên cứu trên cho thấy, KSNB 
hữu hiệu góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động 
của doanh nghiệp nói chung. Tuy nhiên, doanh 
nghiệp trong các lĩnh vực khác nhau và tại các 
nền kinh tế khác nhau có đặc thù riêng. Do đó, 
khi áp dụng KSNB cho các doanh nghiệp thuộc 
các lĩnh vực khác nhau thì sẽ có tác động khác 
nhau tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 
Do đó, bài viết nghiên cứu tác động của KSNB 
đến hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp 
may mặc, hóa chất và nông nghiệp niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 
2.2. Mô hình nghiên cứu 
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất. 
j 
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất. 
Môi trường kiểm soát 
Hiệu quả hoạt động 
Đánh giá rủi ro 
Hoạt động kiểm soát 
Thông tin và truyền thông 
Giám sát 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
53 
2.3. Giả thuyết nghiên cứu 
Nhóm tác giả sử dụng 5 nhân tố cấu thành 
hệ thống KSNB của COSO để xây dựng thang 
đo, có sự điều chỉnh và bổ sung để phù hợp với 
điều kiện thực tế. Cụ thể: 
a. Môi trường kiểm soát. 
Môi trường kiểm soát là tập hợp các tiêu 
chuẩn, quy trình và cấu trúc, làm cơ sở để thực 
hiện KSNB trong doanh nghiệp [2, 12]. Môi 
trường kiểm soát bao gồm: Tính nguyên vẹn và 
giá trị đạo đức của doanh nghiệp; Các thông số 
cho phép hội đồng quản trị thực hiện trách 
nhiệm giám sát của mình; Cơ cấu tổ chức và 
phân công quyền lực, trách nhiệm; Quá trình 
thu hút, phát triển và giữ nhân tài; và Sự 
nghiêm túc thực hiện các biện pháp kiểm soát. 
Kiểm soát môi trường có tác động đến toàn bộ 
hệ thống KSNB. Do đó, nghiên cứu đưa ra 
giả thuyết: 
H1: Môi trường kiểm soát có tương quan 
cùng chiều với hiệu quả hoạt động của 
doanh nghiệp. 
b. Đánh giá rủi ro. 
Các doanh nghiệp thường đối mặt với 
những rủi ro từ bên trong và bên ngoài [3]. Rủi 
ro được xác định là khả năng một sự kiện có thể 
xảy ra và có ảnh hưởng xấu đến việc đạt được 
mục tiêu của doanh nghiệp. Do đó, đánh giá rủi 
ro là cơ sở để xác định mức độ rủi ro có thể 
quản lý. Điều kiện tiên quyết để đánh giá rủi ro 
là việc thiết lập các mục tiêu được liên kết với 
nhau ở các mức độ khác nhau. Nhà quản lý xác 
định rõ mục tiêu liên quan đến hoạt động, báo 
cáo và tuân thủ các quy định của đơn vị để xác 
định và phân tích rủi ro đối với mục tiêu đó. 
Đồng thời, nhà quản lý cũng phải xem xét sự 
phù hợp giữa các mục tiêu trong doanh nghiệp. 
Ngoài ra, đánh giá rủi ro đòi hỏi nhà quản lý 
phải xem xét tác động của những thay đổi có 
thể xảy ra do môi trường bên ngoài và do mô 
hình kinh doanh của doanh nghiệp khiến cho 
KSNB không có hiệu quả. Vì vậy, nghiên cứu 
đưa ra giả thuyết: 
H2: Đánh giá rủi ro có tương quan cùng 
chiều với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 
c. Hoạt động kiểm soát. 
Hoạt động kiểm soát là các hoạt động được 
thiết lập thông qua các chính sách, thủ tục nhằm 
đảm bảo các chỉ thị của hội đồng quản trị để 
giảm thiểu rủi ro khi thực hiện các mục tiêu đề 
ra [12]. Các hoạt động kiểm soát được thực 
hiện ở tất cả các cấp với nhiều mức độ khác 
nhau, bao gồm: hướng dẫn, ủy quyền, phê 
duyệt, xác minh, đối chiếu và đánh giá hiệu quả 
công việc,... Sự phân công nhiệm vụ thường 
được thiết lập để lựa chọn và phát triển các hoạt 
động kiểm soát. Khi sự phân công nhiệm vụ 
không thực tế thì hội đồng quản trị hoặc nhà 
quản lý cao cấp phải lựa chọn và phát triển các 
hoạt động kiểm soát thay thế. Vì vậy, nghiên 
cứu đưa ra giả thuyết: 
H3: Hoạt động kiểm soát có tương quan 
cùng chiều với hiệu quả hoạt động của 
doanh nghiệp. 
d. Thông tin và truyền thông. 
Thông tin là yếu tố cần thiết trong việc thực 
hiện trách nhiệm KSNB để đạt được các mục 
tiêu đặt ra [1]. Nhà quản lý nắm bắt được thông 
tin hoặc tạo ra và sử dụng thông tin liên quan từ 
cả nguồn nội bộ và bên ngoài để hỗ trợ chức 
năng của các nhân tố KSNB. Truyền thông là 
một quá trình liên tục, lặp đi lặp lại để cung 
cấp, chia sẻ và thu thập thông tin cần thiết. 
Truyền thông nội bộ là phương tiện phổ biến 
thông tin trong toàn doanh nghiệp, giúp nhân 
viên nhận được thông điệp rõ ràng từ quản lý 
cấp trên. Truyền thông bên ngoài gồm hai mặt: 
vừa giúp truyền đạt thông tin liên quan trong 
nội bộ, vừa cung cấp thông tin cho bên ngoài để 
đáp ứng yêu cầu và mong đợi của khách hàng, 
đối tác. Vì vậy, nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
H4: Thông tin và truyền thông có tương 
quan cùng chiều với hiệu quả hoạt động của 
doanh nghiệp. 
e. Giám sát. 
Đánh giá liên tục, đánh giá riêng biệt hoặc 
kết hợp cả hai hình thức được sử dụng để xác 
định các yếu tố KSNB [1]. Đánh giá liên tục 
được xây dựng trong các quy trình ở các cấp độ 
khác nhau của doanh nghiệp để cung cấp thông 
tin kịp thời. Trong khi đó, đánh giá riêng biệt, 
được thực hiện định kỳ, sẽ rất khác nhau về 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
54 
phạm vi và tần suất, tùy thuộc vào cách thức 
đánh giá rủi ro, hiệu quả của việc đánh giá liên 
tục và hình thức quản lý của doanh nghiệp. Kết 
quả được đánh giá theo nhân tố được thiết lập 
bởi cơ quan quản lý tiêu chuẩn đã được công 
nhận hoặc ban giám đốc. Những thiếu sót sẽ 
được báo cáo cho nhà quản lý cấp trên hoặc ban 
giám đốc vào thời điểm thích hợp. Vì vậy, 
nghiên cứu đưa ra giả thuyết: 
H5: Giám sát có tương quan cùng chiều với 
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 
2.4. Hiệu quả hoạt động 
Nghiên cứu hiệu quả hoạt động của doanh 
nghiệp xuất phát từ lý thuyết tổ chức và quản trị 
chiến lược [12]. Theo các quan điểm và cách 
tiếp cận khác nhau, việc phân chia hiệu quả 
hoạt động cũng rất khác nhau. Theo mục tiêu 
của chủ thể, hiệu quả được chia thành hiệu quả 
chung và hiệu quả riêng (bao gồm hiệu quả 
kinh tế và hiệu quả xã hội). Theo ... KS) 
(Mean = 4,283; SD = 0,5299) và đánh giá thấp 
nhất ở nhân tố “Hoạt động kiểm soát” (HĐKS) 
(Mean = 3,506; SD = 0,6611). Phân tích tương 
quan cho thấy các nhân tố KSNB đều có quan 
hệ với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp 
(r ≠ 0), các biến độc lập cũng có tương quan với 
nhau (Bảng 5). Do đó, cần kiểm tra hiện tượng 
đa cộng tuyến khi phân tích hồi quy. 
Bảng 3. Kết quả kiểm định độ tin cậy của thang đo 
Thang đo 
Cronbach’s 
Alpha 
Số biến 
Ký hiệu 
biến 
Trung bình 
thang đo 
nếu biến bị 
loại 
Phương sai 
thang đo nếu 
loại biến 
Hệ số tương 
quan biến - tổng 
Cronbach’s 
Alpha nếu 
loại biến 
Môi 
trường 
kiểm soát 
0,835 6 
MTKS1 21,9100 9,841 ,544 ,822 
MTKS2 21,8833 9,374 ,615 ,808 
MTKS3 21,9567 9,333 ,663 ,801 
MTKS5 22,0300 8,497 ,670 ,796 
MTKS6 22,1133 8,569 ,607 ,811 
MTKS7 21,8900 8,720 ,592 ,814 
Đánh giá 
rủi ro 
0,830 3 
ĐGRR2 8,1400 2,676 ,609 ,839 
ĐGRR3 8,1833 2,077 ,728 ,728 
ĐGRR4 8,0567 2,361 ,742 ,713 
Hoạt 
động 
kiểm soát 
0,811 3 
HĐKS1 7,0967 3,559 ,591 ,819 
HĐKS2 6,9233 3,536 ,741 ,661 
HĐKS3 6,8800 3,685 ,660 ,741 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
57 
Thông 
tin và 
truyền 
thông 
0,837 5 
TTTT1 13,9633 11,260 ,600 ,816 
TTTT2 14,0767 11,141 ,705 ,785 
TTTT3 13,9200 11,184 ,708 ,784 
TTTT4 13,8667 11,788 ,655 ,800 
TTTT5 13,8667 12,163 ,537 ,831 
Hoạt 
động 
giám sát 
0,818 5 
GS1 15,9367 8,628 ,455 ,829 
GS2 15,6833 7,903 ,640 ,772 
GS3 15,6767 8,133 ,656 ,768 
GS4 15,6333 7,758 ,697 ,755 
GS5 15,8567 8,418 ,613 ,781 
Nguồn: Nhóm nghiên cứu phân tích từ số liệu khảo sát. 
Bảng 4. Kết quả ma trận xoay các nhân tốa 
Biến quan sát 
Nhóm nhân tố 
1 2 3 4 5 
MTKS5 ,790 
MTKS3 ,772 
MTKS7 ,739 
MTKS6 ,727 
MTKS2 ,723 
MTKS1 ,676 
TTTT3 ,832 
TTTT2 ,826 
TTTT4 ,796 
TTTT1 ,751 
TTTT5 ,678 
GS4 ,819 
GS3 ,790 
GS2 ,779 
GS5 ,748 
GS1 ,644 
ĐGRR4 ,892 
ĐGRR3 ,874 
ĐGRR2 ,775 
HĐKS2 ,892 
HĐKS3 ,848 
HĐKS1 ,799 
Phương pháp rút nhân tố: Phân tích thành phần chính với phép xoay Varimax. 
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tập hợp từ phần mềm SPSS 20 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
58 
Bảng 5. Kết quả phân tích nhân tố cho biến phụ thuộc 
 Hệ số tải nhân tố 
HQHĐ1 0,833 
HQHĐ 5 0,810 
HQHĐ4 0,809 
HQHĐ2 0,720 
HQHĐ3 0,702 
Hệ số Cronbach’s Alpha 0,832 
Giá trị riêng biệt 3,015 
Độ biến thiên được giải thích (%) 60,306 
Hệ số KMO = 0,824; Sig = 0,000 
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp từ phần mềm SPSS 20. 
Bảng 6. Ma trận tương quan và điểm đánh giá cho từng nhân tố 
Mã Mean SD MTKS TTTT GS ĐGRR HĐKS HQHĐ 
MTKS 4,283 ,5678 1 
TTTT 4,197 ,5299 ,559** 1 
GS 4,031 ,5257 ,412** ,405** 1 
ĐGRR 4,124 ,7078 ,382** ,365** ,323** 1 
HĐKS 3.506 ,6611 ,395** ,415** ,577** ,393** 1 
HQHĐ 3.855 ,5314 ,600** ,624** ,674** ,459** ,687** 1 
** Tương quan ở mức ý nghĩa 1% 
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp từ phần mềm SPSS 20. 
4.4. Kết quả phân tích hồi quy và kiểm định 
giả thuyết 
Trước tiên, phân tích tương quan Pearson 
được sử dụng để phân tích mối tương quan giữa 
các biến định lượng. Với mức ý nghĩa 5%, các 
hệ số tương quan cho thấy mối quan hệ giữa 
biến phụ thuộc với các biến độc lập đều có ý 
nghĩa thống kê (giá trị Sig. < 0,05). Độ lớn của 
các hệ số tương quan đảm bảo không xảy ra 
hiện tượng đa cộng tuyến. Do đó, có thể sử 
dụng các thống kê khác để kiểm định mối quan 
hệ giữa các biến. Tiếp theo, phân tích hồi quy 
tuyến tính bội về mối quan hệ ảnh hưởng giữa 
các nhân tố KSNB tới hiệu quả hoạt động của 
doanh nghiệp được tiến hành. Theo Bảng 4, hệ 
số R2 = 0,805 cho thấy mô hình hồi quy tuyến 
tính bội đã xây dựng phù hợp với tập dữ liệu 
đạt mức 80,5%. Kết quả phân hồi quy chỉ ra, 
5 biến độc lập bao gồm: MTKS, ĐGRR, 
HĐKS, TTTT và GS (Bảng 5) có hệ số Beta 
chưa chuẩn hóa lần lượt là 0,193; 0,262; -0,004; 
0,267; và 0,192 với mức ý nghĩa nhỏ hơn 0,05. 
Như vậy, các giả thuyết H1, H2, H3, H4, H5 
được chấp nhận. 
Dựa trên hệ số Beta, có thể kết luận TTTT 
có ảnh hưởng mạnh nhất đến HQHĐ. Tiếp đó là 
ĐGRR, MTKS và GS. HĐKS là nhân tố có ảnh 
hưởng ít nhất tới HQHĐ. Mô hình hồi quy 
tuyến tính thu được có dạng như sau: 
HQHĐ = 0,193*MTKS + 0,262*ĐGRR - 
0,004*HĐKS + 0,267*TTTT + 0,192*GS. 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
59 
Bảng 7. Kết quả hồi quy mô hình các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động 
Mô hình 
Hệ số hồi quy 
chưa chuẩn hóa 
Hệ số hồi quy 
chuẩn hóa Giá trị t Mức ý nghĩa (Sig.) 
Thống kê 
cộng tuyến 
Beta Sai số chuẩn Beta Dung sai VIF 
(Hằng số) ,376 ,117 3,226 ,001 
MTKS ,193 ,018 ,283 10,612 ,000 ,928 1,077 
ĐGRR ,262 ,015 ,479 18,005 ,000 ,934 1,070 
HĐKS -,004 ,012 -,009 -,355 ,723 ,967 1,034 
TTTT ,267 ,013 ,548 21,140 ,000 ,984 1,016 
GS ,192 ,015 ,333 12,600 ,000 ,950 1,053 
Biến phụ thuộc: HQHĐ 
R2 điều chỉnh = 0,805 
Nguồn: Nhóm nghiên cứu phân tích từ số liệu khảo sát. 
5. Thảo luận và kiến nghị 
5.1. Thảo luận 
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy “Thông 
tin và truyền thông” có ảnh hưởng mạnh nhất 
đến hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Tiếp 
đến là các nhân tố “Đánh giá rủi ro”, “Môi 
trường kiểm soát” và “Giám sát”. “Hoạt động 
kiểm soát” là nhân tố có ảnh hưởng ít nhất tới 
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. 
Kết quả nghiên cứu của nhóm tác giả cũng 
tương đồng với một số kết quả nghiên cứu 
trước. Chẳng hạn, nghiên cứu của Nguyễn Thị 
Loan (2018) cho thấy các nhân tố KSNB có 
ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả hoạt động tín 
dụng của các ngân hàng thương mại Việt Nam 
lần lượt là giám sát rủi ro, thủ tục kiểm soát, 
thông tin truyền thông và môi trường kiểm soát 
[10]. Kết quả này tương đồng với kết quả 
nghiên cứu của Vũ Thu Phụng (2016) về tác 
động của KSNB đối với hiệu quả hoạt động của 
Tập đoàn Điện lực Việt Nam [11]. Tuy nhiên, 
nghiên cứu của Umar và cộng sự (2018) về tác 
động của KSNB đối với hoạt động của các ngân 
hàng thương mại ở Nigeria đã chỉ ra hoạt động 
kiểm soát, môi trường kiểm soát, giám sát và 
đánh giá rủi ro có tương quan thuận với hiệu 
quả hoạt động của các ngân hàng, trong khi đó 
thông tin và truyền thông không có ảnh hưởng 
đến hoạt động của ngân hàng [7]. Cũng tại một 
quốc gia châu Phi, khi xem xét tác động của 
KSNB đến hiệu quả hoạt động tài chính của 35 
doanh nghiệp, Zipporah (2015) nhận thấy môi 
trường kiểm soát, đánh giá rủi ro, hoạt động 
kiểm soát, thông tin truyền thông có tác động 
tích cực đến hiệu quả hoạt động của doanh 
nghiệp, trong khi hoạt động giám sát lại có tác 
động ngược chiều [8]. Tại Keneya, khi nghiên 
cứu tác động của KSNB đối với quản lý tài 
chính trong lĩnh vực công, Lagat và cộng sự 
(2016) thấy rằng “Hoạt động giám sát” có ảnh 
hưởng đáng kể đến quản lý tài chính, trong khi 
đó “Môi trường kiểm soát” và “Thông tin và 
truyền thông” không có ảnh hưởng đến quản lý 
tài chính [9]. Điều đó cho thấy hệ thống kiểm 
soát khác nhau có mức độ tác động khác nhau 
đến hiệu quả của các doanh nghiệp trong các 
lĩnh vực và tại các thị trường khác nhau. 
5.2. Một số kiến nghị 
Thứ nhất, hệ thống KSNB cần có những 
điều chỉnh phù hợp với cấu trúc tổ chức của 
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có mức độ tập 
trung càng cao thì nhân tố “Thông tin và truyền 
thông” cần phải được tăng cường nhằm đảm 
bảo thông tin liên quan được xác định, nắm bắt 
và truyền thông một cách kịp thời, chính xác. 
Điều đó giúp cho quá trình trao đổi thông tin 
được thông suốt từ nhà quản trị xuống các 
phòng, ban và ngược lại. Ngoài ra, mức độ tập 
trung càng cao thì cần phải tạo ra môi trường 
kiểm soát vững mạnh, giúp các thành viên trong 
tổ chức tuân thủ các quyết định do nhà quản trị 
cấp cao đưa ra để đạt được mục tiêu chung của 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
60 
doanh nghiệp. Đáng chú ý, mức độ tập trung 
ảnh hưởng đến hoạt động giám sát. Điều đó có 
nghĩa là cấp ra quyết định thấp hơn yêu cầu 
hoạt động giám sát trong doanh nghiệp 
nhiều hơn. 
Thứ hai, cần một hệ thống KSNB đủ mạnh 
để nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh 
nghiệp khi sự bất ổn từ môi trường bên ngoài 
gia tăng. Môi trường bên ngoài bao gồm sức ép 
xã hội về các vấn đề như môi trường sinh thái, 
kinh tế - xã hội và phúc lợi của người lao động. 
Môi trường bên ngoài càng bất ổn thì càng phải 
tăng cường sự tin cậy của hệ thống KSNB. 
Doanh nghiệp hoạt động trong môi trường bên 
ngoài có mức độ bất ổn cao thì cần một cấu trúc 
linh hoạt nhằm thích ứng với sự thay đổi của 
môi trường. Nhận thức của doanh nghiệp về sự 
bất ổn của môi trường bên ngoài càng cao thì 
càng đòi hỏi mức độ xử lý thông tin trong 
doanh nghiệp càng nhiều. Do đó, doanh nghiệp 
cần phải quan tâm đến yếu tố “Thông tin và 
truyền thông”. Sự bất ổn của môi trường bên 
ngoài đồng nghĩa với việc doanh nghiệp thiếu 
thông tin để lập kế hoạch cho sản phẩm và dịch 
vụ, đánh giá nhu cầu khách hàng và lập các kế 
hoạch dự phòng. Do đó, doanh nghiệp cần phải 
tăng cường hoạt động thông tin và truyền thông, 
cũng như triển khai hoạt động kiểm soát chặt 
chẽ hơn nhằm giúp doanh nghiệp đạt được mục 
tiêu của mình. 
Thứ ba, cần tăng cường hiệu quả các hoạt 
động kiểm soát trong các doanh nghiệp. Phân 
chia trách nhiệm hợp lý sẽ làm giảm thiểu các 
nguy cơ dẫn đến sai sót và gian lận cũng như 
giúp phát hiện ra các sai sót và gian lận này 
trong quá trình tác nghiệp. Do vậy, để hạn chế 
tối đa rủi ro có thể xảy ra, các doanh nghiệp 
không nên giao cho một cá nhân nắm tất cả các 
khâu của một quy trình nghiệp vụ từ khi phát 
sinh cho đến khi kết thúc. Trong doanh nghiệp 
may mặc, nông nghiệp và hóa chất niêm yết 
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, các quy 
trình và thủ tục kiểm soát thường không được 
quy định chính thức mà thường được lưu hành 
theo kiểu truyền miệng, nên việc giúp nhân viên 
nhận thức tầm quan trọng của hoạt động kiểm 
soát trong sản xuất - kinh doanh của doanh 
nghiệp là điều cần thiết. Ngoài ra, cần cập nhật 
văn bản, chế độ và chính sách thường xuyên 
nhằm đảm bảo các chính sách và thủ tục mà 
doanh nghiệp đề ra không bị lạc hậu, lỗi thời. 
Thứ tư, tăng cường thông tin và truyền 
thông đối với doanh nghiệp niêm yết trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam. Thông tin và 
truyền thông ngày càng quan trọng trong việc 
giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình 
để tồn tại và phát triển. Thông tin và truyền 
thông phải đảm bảo thông suốt tới mọi bộ phận 
và cá nhân trong doanh nghiệp cũng như các 
đối tượng bên ngoài có liên quan. Tuy nhiên, tại 
các doanh nghiệp có quy mô lớn, việc truyền 
thông bên trong từ nhà quản trị cấp cao đến 
nhân viên thực thi nhiệm vụ thường khó khăn vì 
thông qua nhiều cấp quản lý. Do vậy, để các 
chính sách và chỉ thị từ nhà quản trị cấp cao đến 
nhân viên đều hiểu rõ và thực thi, cần yêu cầu 
các trưởng phòng, ban phổ biến những nội dung 
liên quan đến từng nhân viên và yêu cầu nhân 
viên ký xác nhận trên văn bản minh chứng đã 
hiểu và nắm rõ các quy định. Đối với các thông 
tin cần báo cáo lên nhà quản trị cấp cao, doanh 
nghiệp cần có kênh thông tin mở, sẵn sàng lắng 
nghe và cần phải làm cho nhân viên tin rằng 
nhà quản trị cấp cao thực sự muốn biết các vấn 
đề đang xảy ra và sẽ giải quyết một cách có 
hiệu quả. 
Thứ năm, hoàn thiện môi trường kiểm soát 
trong các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường 
chứng khoán Việt Nam. Môi trường kiểm soát 
phản ánh sắc thái chung của một doanh nghiệp, 
tác động đến ý thức của mọi thành viên trong tổ 
chức. Môi trường kiểm soát ảnh hưởng đến 
cách thức kinh doanh của doanh nghiệp và đến 
các mục tiêu được thiết lập. Các nhân tố của 
môi trường kiểm soát bao gồm: Tính trung thực 
và giá trị đạo đức, Cơ cấu tổ chức, Phân định 
quyền hạn và trách nhiệm, Chính sách nhân 
sự,... Tại các doanh nghiệp mới hoạt động, 
chính sách nhân sự thường không ban hành 
bằng văn bản hay xây dựng một cách bài bản 
như trong các doanh nghiệp hoạt động lâu năm. 
Do vậy, các doanh nghiệp mới cần phải chú 
trọng xây dựng chính sách nhân sự nhằm ứng 
phó với sự thay đổi của môi trường kinh doanh. 
Ngoài ra, các doanh nghiệp này cũng cần phải 
phân định trách nhiệm và quyền hạn trong công 
D.H. Thuong, N.T.P. Hong / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 36, No. 1 (2020) 49-61 
61 
việc rõ ràng giúp doanh nghiệp khuyến khích sự 
chủ động của các cá nhân trong công việc, 
nhưng phải ở trong mức độ giới hạn để bảo đảm 
đạt được mục tiêu chung của doanh nghiệp. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Stephen Mc Nally, The COSO 2013 and SOX 
Compliance - One Approach to an effective 
Transition, The Association of Accountants and 
Financial Professionals in Business, 2013. 
[2] H. Robert Montgomery, Auditing: Theory and 
Practice, 2d ed., rev. and enl. edition, New York, 
Ronald Press Co, 1916. 
[3] T. Karagiorgos, G. Drogalas, A. Dimou, 
“Effectiveness of internal control system in the 
Greek Bank Sector”, The South European Review 
of Business Finance & Accounting, 2010, 
pp.417-427. 
[4] M. Salehi, M.M. Shiri, F. Ehsanpour, 
“Effectiveness of internal control in the banking 
sector: Evidence from bank Mellat, Iran”, IUP 
Journal of Bank Management 12(1) (2013) 23-34. 
[5] Koutoupis, Tsamis, “Risk based internal auditing 
within Greek banks: A case study approach”, 
Journal of Management Government 13 (2009) 
101-130. 
[6] F. Hanim Fadzil, H. Haron, M. Jantan, “Internal 
auditing practices and internal control system”, 
Managerial Auditing Journal 20(8) (2005) 
844-866. 
[7] Hussaini Umar et. al., “The effect of internal 
control on performance of commercial banks in 
Nigeria”, International Journal of Management 
Research & Review 8(6) (2018) 13-32. 
[8] Ndembu Zipporah Njoki, “The effect of internal 
controls on the financial performance of 
manufacturing firms in Kenya”, IOSR Journal of 
Economics and Finance 8(3) (2017) 92-105. 
[9] Cornelius Kipkemboi Lagat, Caroline Ayuma 
Okelo, Edwin Terer, “Effect of internal control 
systems on financial management in Baringo 
County Government, Kenya”, Journal of 
Economics, Finance and Accounting 3(1) (2016) 
93-106. 
[10] Nguyen Thi Loan, “Factors impact on the 
effectiveness of internal control systems in credit 
facilities in Vietnam commercial banks”, Science 
Journal of Ho Chi Minh Open University 63(6) 
(2018) 105-121. (in Vietnamese). 
[11] Vu Thu Phung, Internal Control Factors affecting 
the performance effectiveness of EVN, 
Dissertation of Economics, HCM University of 
Economics, 2016. (in Vietnamese). 
[12] Raj Bahadur Sharma1, Nabil Ahmed M. Senan, 
“A study on effectiveness of Internal Control 
System in Selected Banks in Saudi, Arabia”, 
Asian Journal of Managerial Science 8(1) (2019) 
41-47. 
[13] J. Hair, W. Black, B. Babin, R. Anderson, 
R. Tatham, Multivariate Data Analysis, 6th ed, 
New Jersey: Prentice Hall, 2006. 
[14] Nunally, Bernstein, Psychometric Theory, 3rd 
edition, Mc Graw - Hill, New York, 1994. 
H 
h 

File đính kèm:

  • pdfthe_influence_of_internal_control_factors_on_the_perfomance.pdf