Thực trạng quản lí hoạt động hỗ trợ sinh viên nội trú tại các trường đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể
Abstract: Management of boarding student support is an important task of management in
universities. This article analyses situation of management of supporting boarders at universities
under total quality management. This analysis is the basis for proposing solutions to enhance
quality of management of boarders support at universities in current period.
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng quản lí hoạt động hỗ trợ sinh viên nội trú tại các trường đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng quản lí hoạt động hỗ trợ sinh viên nội trú tại các trường đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 79-85 79 THỰC TRẠNG QUẢN LÍ HOẠT ĐỘNG HỖ TRỢ SINH VIÊN NỘI TRÚ TẠI CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC THEO TIẾP CẬN QUẢN LÍ CHẤT LƯỢNG TỔNG THỂ Hoàng Trọng Nghĩa, Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội Ngày nhận bài: 16/05/2018; ngày sửa chữa: 17/05/2018, ngày duyệt đăng: 20/05/2018. Abstract: Management of boarding student support is an important task of management in universities. This article analyses situation of management of supporting boarders at universities under total quality management. This analysis is the basis for proposing solutions to enhance quality of management of boarders support at universities in current period. Keywords: Total quality management, support activities, boarder. 1. Mở đầu Quản lí hoạt động hỗ trợ (HĐHT) sinh viên nội trú (SVNT) ở các trường đại học là một nội dung quan trọng của công tác quản lí nhà trường nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại các trường đại học. Tuy nhiên, hiện nay hiệu quả của HĐHT SVNT đem lại vẫn còn chưa cao, còn một bộ phận SVNT chưa thực sự hài lòng với hoạt động này. Điều đó cho thấy việc quản lí HĐHT SVNT chưa sát sao, mới chỉ hướng vào mục tiêu phục vụ đại trà cho tất cả SVNT, chưa có sự “cá biệt hóa” trong tư vấn đối với từng sinh viên (SV) gặp khó khăn. Chính vì vậy, để tăng cường quản lí hoạt động này, việc áp dụng quản lí chất lượng tổng thể là một việc làm cần thiết. Bài viết này tìm hiểu thực trạng quản lí HĐHT SVNT tại các trường đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể. Đây là cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp nâng cao quản lí HĐHT SVNT tại các trường đại học trong bối cảnh hiện nay. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Một số khái niệm chung - Thuật ngữ “Quản lí chất lượng tổng thể” (Total Quality Management - TQM) có một số định nghĩa như sau: + Theo TCVN ISO 8402:1999 “TQM - Cách quản lí của một tổ chức tập trung vào chất lượng, dựa trên sự tham gia của tất cả các thành viên nhằm đạt được sự thành công lâu dài nhờ việc thỏa mãn khách hàng và đem lại lợi ích cho các thành viên của tổ chức đó và cho xã hội” [1]. + Theo Armand V. Feigenbaum: “TQM là một hệ thống hữu hiệu nhằm hội nhập những nỗ lực về phát triển chất lượng, duy trì chất lượng và cải tiến chất lượng của nhiều nhóm trong một tổ chức để có thể tiếp thị, áp dụng khoa học kĩ thuật, sản xuất và cung ứng dịch vụ nhằm thoả mãn hoàn toàn nhu cầu của khách hàng một cách kinh tế nhất” [2; tr 24]. - Quản lí HĐHT SVNT có thể hiểu là tổng thể cách thức biện pháp tác động có hệ thống, có kế hoạch, thường xuyên, liên tục của chủ thể quản lí và của chính lực lượng SVNT để nắm bắt, điều chỉnh, nâng cao các HĐHT SVNT, hướng đến sự hài lòng của SV, bảo đảm lợi ích chính đáng của SV, để thực hiện tốt nhất quyền và nghĩa vụ nội trú; tạo môi trường, động lực thực hiện tốt mục tiêu giáo dục, đào tạo của nhà trường. - Như vậy, qua nghiên cứu, quản lí HĐHT SVNT theo tiếp cận TQM là quản lí hoạt động hỗ trợ SV đang học tập và sinh hoạt tại các kí túc xá (KTX) của nhà trường để đạt các mục tiêu nêu trên. Đó là hoạt động của chủ thể quản lí (Ban Giám hiệu (BGH), các phòng, khoa, ban quản lí KTX,...) tác động đến đối tượng quản lí (là SV) bằng các biện pháp quản lí (quản lí hoạt động hỗ trợ tự học, bồi dưỡng kĩ năng mềm, câu lạc bộ văn hóa, thể thao,...) để đạt mục tiêu là hỗ trợ SV trong hoạt động học tập, sinh hoạt cuộc sống. 2.2. Tổ chức khảo sát Mục đích: Đánh giá thực trạng HĐHT SVNT và công tác quản lí HĐHT SVNT các trường đại học: Đại học Quốc gia (ĐHQG) Hà Nội và Trường Đại học Ngoại thương (ĐHNT). Đối tượng khảo sát: lấy ý kiến của 408 người, trong đó: - Cán bộ, giảng viên (88 người), bao gồm: + Cán bộ quản lí (44 cán bộ viên chức thuộc Văn phòng Trung tâm và KTX Ngoại ngữ, Trung tâm Hỗ trợ SV ĐHQG Hà Nội; 10 cán bộ Phòng công tác SV tại 3 trường đại học (Trường Đại học Ngoại ngữ, Trường Đại học Công nghệ, Trường Đại học Kinh tế); + Giảng viên (34 giảng viên cố vấn học tập); - Sinh viên: 180 SVNT KTX thuộc Trường Đại học Ngoại ngữ, Trường Đại học Công nghệ và Trường Đại học Kinh tế; 120 SVNT KTX ở ĐHNT. Ngoài ra, tác giả tiến hành phỏng vấn sâu, trao đổi, tọa đàm với 10 cán bộ quản lí (CBQL), lãnh đạo nhà trường và lãnh đạo Trung tâm Hỗ trợ SV và KTX Mễ Trì, Mĩ Đình, ĐHNT để tìm hiểu rõ, góp phần cung cấp tư liệu thực tiễn cho nghiên cứu thực trạng. Nội dung khảo sát: VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 79-85 80 - Khảo sát thực trạng HĐHT SVNT, tập trung vào: đánh giá mục tiêu HĐHT SVNT; mức độ hài lòng của các HĐHT SVNT ở các trường đại học; mức độ tham gia lực lượng tham gia HĐHT SVNT. - Khảo sát thực trạng quản lí HĐHT SVNT, tập trung vào đánh giá các nội dung của công tác quản lí: lập kế hoạch HĐHT SVNT; tổ chức thực hiện HĐHT SVNT; chỉ đạo HĐHT SVNT; kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT. Phương pháp điều tra và công cụ: - Phương pháp điều tra: sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng thu thập số liệu qua phiếu điều tra đối với các đối tượng khách thể điều tra về các nội dung đã xác định. Cụ thể: trên cơ sở nội dung HĐHT SVNT và công tác quản lí HĐHT SVNT, tác giả xác định những nội dung căn bản; đồng thời, đối chiếu với những đặc trưng, nguyên tắc của quản lí chất lượng tổng thể (Total Quality Management - TQM), đó là: + Về mục tiêu của TQM: quản lí tập trung vào chất lượng, hướng tới lâu dài; đảm bảo hài hòa về lợi ích, quyền lợi của các bên tham gia; hướng tới dần thay đổi lối sống, ứng xử văn hóa. + Về lực lượng, phương thức: với sự tham gia của mọi thành viên, lực lượng liên quan; xác định vai trò lãnh đạo; tiến hành một cách hệ thống, nhất quán và cải tiến liên tục. Công cụ điều tra: Bảng hỏi được thiết kế có câu trả lời sẵn, gồm câu hỏi và các phương án trả lời được thiết kế dựa trên nội dung căn bản của HĐHT SVNT và quản lí HĐHT SVNT được đối chiếu, tiếp cận với đặc trưng, nguyên tắc căn bản của quản lí TQM; và được đánh giá thử nghiệm đảm bảo tính giá trị và độ tin cậy của các luồng thông tin, cũng như tính logic của phiếu hỏi. Các tiêu chí đo lường (được đánh giá theo 4 mức từ mức 1 là Tốt đến mức 4 là Kém; đối với thực trạng các HĐHT SVNT đánh giá theo 3 mức: 1: Rất hài lòng; 2: Hài lòng; 3: Chưa hài lòng). Thời gian khảo sát: tháng 12/2017. 2.3. Thực trạng quản lí hoạt động hỗ trợ sinh viên nội trú tại các trường đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể 2.3.1. Nhận thức của lực lượng liên quan về công tác quản lí hoạt động hỗ trợ sinh viên nội trú ở các trường đại học Bảng 1. Nhận thức về tầm quan trọng của việc quản lí HĐHT SVNT Khách thể đánh giá Tổng số Tầm quan trọng của việc quản lí HĐHT SVNT Rất quan trọng Quan trọng Không quan trọng % % % Giảng viên, cán bộ của trường 250 58,5% 39% 6,5% SV 300 39,6% 41,2% 19,2% Các lực lượng khác 50 37,5% 47,5% 15% Kết quả điều tra ở bảng 1 cho thấy, nhận thức về tầm quan trọng của quản lí HĐHT SVNT của cán bộ, giảng viên và SV là không giống nhau; trong đó, cơ bản đội ngũ cán bộ, giảng viên đánh giá mức độ quan trọng hơn SV. Cụ thể: đánh giá rất quan trọng của quản lí HĐHT SVNT của cán bộ, giảng viên là 58,5%, quan trọng là 39%, không quan trọng là 6,5%; tương ứng với đánh giá của SV: rất quan trọng là 39,6%, quan trọng là 41,2%, không quan trọng là 19,2%. Kết quả này cho thấy đa số cán bộ, giáo viên nhận thức được tầm quan trọng và vai trò của công tác quản lí HĐHT SVNT, tuy nhiên vẫn còn một bộ phận nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác này, đây cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả của công tác quản lí HĐHT SVNT các trường đại học chưa cao. Thực tế tham gia vào quản lí HĐHT SVNT cần có sự phối hợp của các lực lượng xã hội khác (công an khu vực, Đoàn cơ sở, một số tổ chức chính quyền địa phương vệ sinh môi trường, các công ty, doanh nghiệp...). Vì vậy, để có những cơ sở đánh giá quản lí HĐHT SVNT, chúng tôi lựa chọn và tiến hành khảo sát lực lượng này, kết quả cho thấy: 37,5% cho rằng rất quan trọng; 47,5% cho rằng quan trọng; 15% cho rằng không quan trọng. Kết quả điều tra cho thấy: các lực lượng tham gia quản lí HĐHT SVNT cơ bản nhận thức đúng đắn về mức độ quan trọng của hoạt động này. Đây là yếu tố có ý nghĩa tiên quyết, tạo thuận lợi để thực hiện việc quản lí HĐHT SVNT trong các trường đại học theo tiếp cận TQM. Tuy nhiên, còn một bộ phận cán bộ, giảng viên, SV, nhất là lực lượng bên ngoài nhà trường nhận thức chưa đầy đủ về mức độ quan trọng của hoạt động này. 2.3.2. Xây dựng kế hoạch hoạt động hỗ trợ sinh viên nội trú tại các trường đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể (bảng 2) Theo bảng 2, kết quả khảo sát đánh giá chung các nội dung cụ thể của công tác lập kế hoạch cho thấy các mức là: mức tốt 36,4%, mức khá 38,7%, mức trung bình 14,8%, mức kém là 11,4%. Trong đó: nội dung được đánh giá tốt nhất là “Xây dựng kế hoạch dài hạn và kế hoạch cụ thể cho từng HĐHT, trong từng giai đoạn nhất định” với mức tốt là 41,2%, khá là 42,8%, trung bình là 10,5%, kém là 5,5%. Ban Giám hiệu trường đại học đã quan tâm xây dựng kế hoạch dài hạn 5 năm, hàng năm và kế hoạch cụ thể cho từng quý, tháng. Tuy nhiên, khi phỏng vấn sâu, nhiều SVNT ở ĐHNT cho rằng, việc xây dựng kế hoạch năm có chất lượng tốt hơn. Tuy nhà trường có lực lượng chuyên trách quản lí VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 79-85 81 HĐHT SVNT là Trung tâm hỗ trợ SV và Phòng Công tác chính trị - sinh viên (CTCT-SV) nhưng do phòng không có cán bộ chuyên trách, nhân viên ít nên công tác xây dựng kế hoạch cho tháng, tuần còn những tồn tại, yếu kém nhất định. Nội dung đánh giá thấp nhất là “Sẵn sàng điều chỉnh kế hoạch để cải tiến các HĐHT SVNT” chỉ có 28,2% đánh giá tốt và 35,7% đánh giá khá, có 21,3% đánh giá bình thường và 14,8% đánh giá kém. Mặc dù kế hoạch đã được lập, tuy nhiên trong quá trình tổ chức thực hiện có những thực tế xảy ra khác với dự kiến, nhưng các chủ thể quản lí chưa có những điều chỉnh kịp thời để nâng cao chất lượng HĐHT SVNT (nhu cầu được hỗ trợ nhiều hơn về kĩ năng khởi nghiệp, làm việc tập thể, tính tương tác, kĩ năng thuyết trình...). Nội dung “Phân tích toàn diện thực trạng, nhu cầu HĐHT SVNT” có 35,5% đánh giá tốt, 37,5% đánh giá khá, 17,6% đánh giá bình thường, 9,4% đánh giá kém. Phân tích, đánh giá đúng thực trạng nhu cầu HĐHT SVNT là khâu tiên quyết lập kế hoạch. Bởi vậy, cơ bản ban giám hiệu các trường đại học đã thực hiện tốt chỉ đạo phân tích đánh giá nhu cầu ăn, ở, sinh hoạt, học tập của SV. Để nắm bắt nhu cầu SV, nhiều trường đại học đã tổ chức nhiều hình thức để tìm hiểu, nắm bắt. Tại KTX Mễ Trì, ĐHQG Hà Nội đã tổ chức cuộc thi “SVNT - Thực trạng và giải pháp”, cuộc thi không chỉ thu hút được sự quan tâm của đông đảo SV mà đã thực sự trở thành đợt sinh hoạt tư tưởng chính trị sâu rộng trong SVNT. Các cuộc thi là diễn đàn để SV bày tỏ những quan điểm, nguyện vọng của mình đối với KTX. Sau mỗi lần tổng kết, trao thưởng, dễ dàng nhận thấy có thay đổi sâu sắc về nhận thức và ý thức làm chủ, trách nhiệm trong việc xây dựng môi trường sống ở KTX của từng đối tượng. Nội dung: “Xác định mục tiêu HĐHT của SVNT trên cơ sở lấy chất lượng làm đầu” có 36,5% đánh giá tốt; 38,4% đánh giá khá; 16,7% đánh giá bình thường và 8,4% đánh giá kém. Quản lí tập trung vào chất lượng, lấy chất lượng làm đầu là mục tiêu then chốt của quản lí chất lượng theo tiếp cận tổng thể. Trong những năm qua, đáp ứng nhu cầu SVNT, các trường đại học đã tổ chức các HĐHT theo hướng lấy chất lượng làm trọng, từng bước được nâng lên. Tại ĐHQG Hà Nội và ĐHNT sau nhiều năm hoạt động ở KTX uy tín trung tâm hỗ trợ SV ngày càng cao, tập hợp được đông đảo SV trong các lĩnh vực: hoạt động tình nguyện, văn hoá thể thao, khen thưởng, kỉ luật, vệ sinh môi trường... Nhiều ý kiến của SV đã chỉ ra những thiếu sót trong công tác quản lí và phục vụ hoặc không còn phù hợp với điều kiện hiện tại. Có những vấn đề SV đề cập có giá trị đối với công tác quản lí trong tương lai. Một số ý tưởng hay của SV đã được vận dụng trong công tác quản lí và đã đem lại hiệu quả thiết thực, nổi bật là ý tưởng đề nghị được thành lập Ban đại diện SV thay thế cho các tổ chức SV khác trong KTX. Đây là một mô hình tự quản của SV được đánh giá cao về tính hiệu quả cả về tổ chức và nội dung hoạt động. 2.3.3. Tổ chức hoạt động hỗ trợ sinh viên nội trú tại các trường đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể (bảng 3) Theo bảng 3, kết quả khảo sát đánh giá chung các nội dung cụ thể của công tác tổ chức HĐHT SVNT cho thấy các mức là: mức tốt là 38,4%; mức khá là 40,4%; mức trung bình là 11,2%; mức kém là 10,0%; trong đó: - Nội dung được đánh giá tốt nhất là “Xác định cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ các lực lượng” với 42,2% đánh giá Bảng 2. Thực trạng lập kế hoạch HĐHT SVNT TT Nội dung Mức độ đánh giá Tốt (%) Khá (%) Bình thường (%) Kém (%) 1 Phân tích toàn diện thực trạng, nhu cầu HĐHT SVNT 35,5 37,5 17,6 9,4 2 Xác định mục tiêu HĐHT của SVNT trên cơ sở lấy chất lượng làm đầu 36,5 38,4 16,7 8,4 3 Xác định bước đi, tiến độ quá trình thực hiện kế hoạch HĐHT SVNT 39,2 40,8 9,3 10,7 4 Xác định các nguồn lực (nhân lực, vật lực) bảo đảm thực hiện kế hoạch 35,8 36,2 17,4 20,6 5 Xác định các biện pháp thực hiện kế hoạch hỗ trợ SVNT 38,4 39,6 11,3 10,7 6 Xây dựng kế hoạch dài hạn và kế hoạch cụ thể cho từng HĐHT, trong từng giai đoạn nhất định 41,2 42,8 10,5 5,5 7 Sẵn sàng điều chỉnh kế hoạch để cải tiến các HĐHT SVNT 28,2 35,7 21,3 14,8 Đánh giá chung 36,4 38,7 14,8 11,4 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 79-85 82 tốt; 45,3% khá; 8,5% bình thường và 4,0% kém. Qua tìm hiểu hai trường ĐHQG Hà Nội và ĐHNT, cơ bản hai trường đã xây dựng và xác định cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ của các lực lượng liên quan HĐHT SVNT bảo đảm phù hợp, đúng tính chất chuyên môn, nhiệm vụ của từng bộ phận. Nhờ đó, các HĐHT SVNT từng bước đi vào nền nếp, khắc phục hiện tượng chồng chéo giữa các bộ phận. - Nội dung các ý kiến đánh giá thấp nhất là “Bồi dưỡng nghiệp vụ các lực lượng thực hiện HĐHT SVNT” với mức tốt là 32,4%; mức khá 35,3%; mức bình thường là 15,3% và kém là 17%. Để tổ chức, quản lí tốt HĐHT SVNT thì bồi dưỡng nghiệp vụ các lực lượng là khâu quan trọng. Cán bộ trung tâm hỗ trợ SV và phòng CTCT- SV rất cần có những kiến thức và kĩ năng về quản lí tổ chức các HĐHT đời sống SV; hỗ trợ các hoạt động dịch vụ hỗ trợ học tập và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cho thấy, nội dung này chưa được các trường chú trọng thực hiện. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến một bộ phận cán bộ, nhân viên chưa thực sự có đủ trình độ, kiến thức, kĩ năng cần thiết trong quản lí, tổ chức các HĐHT SVNT. - Nội dung “Phát huy trách nhiệm các lực lượng liên quan trong tổ chức thực hiện HĐHT SVNT” có 39,4% đánh giá tốt; 41,2% đánh giá khá; 10,0% đánh giá bình th ... hực hiện tốt việc chỉ đạo theo chức năng, nhiệm vụ đã xác định. Tại ĐHNT, Đoàn Thanh niên đã tổ chức nhiều diễn đàn về phương pháp giảng dạy, học tập và tổ chức hội nghị khoa học. Các câu lạc bộ tổ chức nhiều chương trình: tư vấn cách học, thi, test kĩ năng, tìm kiếm cơ hội học bổng, xin tài trợ, giới thiệu chỗ trọ cho SV, giới thiệu các công ty tuyển dụng, tổ chức nhiều chương trình văn hóa văn nghệ, thể thao cho SV, các khóa học bồi dưỡng kĩ năng cho SV. Định kì 2 năm/lần Đoàn Thanh niên, Hội SV và các câu lạc bộ đã tổ chức Festival tuyển dụng với các hoạt động như: gặp gỡ các nhà tuyển dụng và tuyển dụng ngay tại chỗ...; tọa đàm về nghề nghiệp và việc làm; cuộc thi về các kĩ năng và nghề nghiệp... - Nội dung “Kịp thời nắm bắt thông tin hai chiều để cải tiến, điều chỉnh HĐHT SVNT” có 40,4% đánh giá tốt; 41,6% đánh giá khá; 10,2% đánh giá bình thường và 7,8% đánh giá kém. Qua trao đổi, về cơ bản, các trường đại học đã làm tốt việc nắm bắt thông tin hai chiều để cải tiến, điều Bảng 3. Thực trạng tổ chức HĐHT SVNT TT Nội dung Mức độ đánh giá Tốt (%) Khá (%) Bình thường (%) Kém (%) 1 Xác định cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ các lực lượng 42,2 45,3 8,5 4,0 2 Coi trọng phát huy vai trò lãnh đạo trong tổ chức HĐHT SVNT 40,3 42,0 9,7 8,0 3 Phát huy trách nhiệm các lực lượng liên quan trong tổ chức thực hiện HĐHT SVNT 39,4 41,2 10,0 9,4 4 Lựa chọn, sắp xếp, phân công nhiệm vụ các lực lượng thực hiện HĐHT SVNT 41,2 42,5 9,3 8,0 5 Bồi dưỡng nghiệp vụ các lực lượng thực hiện HĐHT SVNT 32,4 35,3 15,3 17,0 6 Xây dựng cơ chế hợp tác, phối hợp các lực lượng liên quan trong tổ chức thực hiện HĐHT SVNT 34,2 36,8 15,3 13,7 7 Đảm bảo tính hệ thống, nhất quán trong tổ chức HĐHT SVNT 39,5 40,0 10,5 10,0 Đánh giá chung 38,4 40,4 11,2 10.0 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 79-85 83 chỉnh nâng cao hiệu quả quản lí HĐHT SVNT. Tại trường ĐHQG Hà Nội và ĐHNT, quán triệt tinh thần trên từng học kì các KTX đều tổ chức đối thoại trực tiếp nghe SVNT nêu ý kiến để kịp thời nắm bắt thực trạng, những bất cập, hạn chế để điều chỉnh các HĐHT SVNT ở KTX. Đối với những vấn đề SV quan tâm như lắp đặt điện thoại, lắp đặt hệ thống máy tính nối mạng đến từng phòng ở, trước khi thực hiện, ban quản lí KTX các trường tổ chức tổ chức thăm dò, điều tra xã hội học trên diện rộng để nghe ý kiến SVNT trước khi triển khai thực hiện. Kiến thức môn học, phương pháp học tập, thi kiểm tra và các kĩ năng khác được giảng viên trao đổi ngay tại lớp hoặc qua email. Đặc biệt, tiếp thu ý kiến của SVNT về giảm bớt thủ tục hành chính, tại ĐHQG Hà Nội, Trung tâm Nội trú SV là đơn vị đầu tiên trong các trường đại học tiến hành xây dựng các phần mềm quản lí KTX. Phần mềm quản lí SV đã thực sự giảm bớt khó khăn và thời gian làm việc cho cán bộ, SV; tạo điều kiện thuận lợi trong việc giải quyết các thủ tục hành chính và góp phần thực hiện văn minh văn hóa trong giao tiếp giữa cán bộ và SV. Ban giám đốc Trung tâm đã có sự chỉ đạo tiếp tục hoàn thiện phần mềm để nâng cao chất lượng. - Nội dung đánh giá thấp nhất là “Chỉ đạo bảo đảm các lực lượng đoàn kết, gắn bó và hợp tác trong thực hiện HĐHT SVNT” chỉ có 32,4% đánh giá tốt và 34,6% đánh giá khá; trong khi có 19,3% đánh giá bình thường và 13,7% đánh giá kém. Thực tế những năm qua, tại ĐHQG Hà Nội và ĐHNT, việc chỉ đạo thực hiện các HĐHT SVNT thông qua đầu mối KTX trực tiếp là Trưởng ban quản lí KTX, họ có trách nhiệm liên kết, tập hợp các thành viên trong đơn vị của mình hoàn thành các HĐHT SVNT một cách trách nhiệm, hiệu quả. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, công tác phối hợp giữa Trung tâm Hỗ trợ SV với các lực lượng trong HĐHT SVNT còn chưa thường xuyên. Đồng thời về quy chế đều đề cập sự phối hợp giữa trường đại học với chính quyền địa phương nhưng nhiều ý kiến cho rằng, sự phối hợp đó còn bị hạn chế. - Nội dung “Chỉ đạo HĐHT SVNT thông qua các hoạt động” có 41,5% đánh giá tốt; 43,5% đánh giá khá; 9,3% đánh giá bình thường và 5,7% đánh giá kém. Phỏng vấn sâu, các ý kiến cho rằng, chỉ đạo HĐHT thông qua hoạt động giảng dạy các môn học và chỉ đạo HĐHT thông qua các hoạt động văn nghệ, thể dục thể thao được thực hiện tốt hơn việc chỉ đạo thông qua các hoạt động khác (sinh hoạt tập thể, tư vấn...). Do đó, đây cũng là điều các nhà quản lí của trường cần chú ý điều chỉnh để hoạt động này đạt được hiệu quả hơn. - Nội dung “Phát huy vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo và các lực lượng trong thực hiện HĐHT SVNT” có 39,0% đánh giá tốt; 40,3% đánh giá khá; 12,7% đánh giá bình thường và 8,3% đánh giá kém. Như vậy, về cơ bản vai trò trách nhiệm của lãnh đạo và các lực lượng liên quan HĐHT SVNT đã được phát huy. Tuy nhiên, mức độ phát huy của các lực lượng chưa đồng đều. Qua trao đổi, cán bộ trực tiếp quản lí SV (trung tâm hỗ trợ SV, phòng công tác chính trị và quản lí SV) nhiệt tình, trách nhiệm và SVNT dễ gần hơn. Một bộ phận cán bộ, giảng Bảng 4. Thực trạng chỉ đạo HĐHT SVNT TT Nội dung Mức độ đánh giá Tốt (%) Khá (%) Bình thường (%) Kém (%) 1 Tuyên truyền nâng cao nhận thức về tổ chức thực hiện HĐHT SVNT 34,5 37,7 15,3 12,5 2 Động viên các lực lượng trong tổ chức HĐHT SVNT 34,2 36,8 16,4 12,6 3 Chỉ đạo các lực lượng tiến hành HĐHT SVNT theo chức năng, nhiệm vụ 42,3 41,7 9,2 6,8 4 Kịp thời nắm bắt thông tin hai chiều để cải tiến, điều chỉnh HĐHT SVNT 40,4 41,6 10,2 7,8 5 Chỉ đạo bảo đảm các lực lượng đoàn kết, gắn bó và hợp tác trong thực hiện HĐHT SVNT 32,4 34,6 19,3 13,7 6 Chỉ đạo HĐHT SVNT thông qua các hoạt động 41,5 43,5 9,3 5,7 7 Phát huy vai trò, trách nhiệm của lãnh đạo và các lực lượng trong thực hiện HĐHT SVNT 39,0 40,3 12,7 8,3 8 Chỉ đạo bảo đảm điều kiện cơ sở vật chất cho HĐHT SVNT 42,3 43,0 8,7 6,3 Đánh giá chung 37,5 39,5 13,1 9,8 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 79-85 84 viên, cả lãnh đạo trường đại học chưa thực sự phát huy hết trách nhiệm, sự nhiệt tình trong tổ chức, tiến hành HĐHT SVNT. 2.3.5. Kiểm tra, đánh giá hoạt động hỗ trợ sinh viên nội trú tại các trường đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể (bảng 5) Theo bảng 5, đánh giá chung về kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT có các mức tương ứng: tốt là 30,4%; khá là 32,8%; trung bình là 19,6%; kém là 15,2%. Như vậy, so với các nội dung khảo sát khác, thì đánh giá chung về kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT ở mức thấp hơn. Điều này cho thấy trong quá trình kiểm tra, việc thực hiện nội dung và thực hiện sử dụng phương pháp còn có nhiều bất cập. - Nội dung đánh giá thấp nhất là “Xác định các tiêu chí đánh giá chất lượng HĐHT SVNT theo TQM” với 28,3% đánh giá tốt; 31,7% đánh giá khá; 22,5% bình thường và 17,5% mức kém. Phỏng vấn sâu, đa số ý kiến cho rằng, việc kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT đã có nhiều chuyển biến tích cực, song chưa thực sự tập trung vào chất lượng, các tiêu chí kiểm tra chưa xác định cụ thể theo định lượng mới chỉ dừng ở định tính là nhiều (ví dụ xác định số SVNT trên một phòng ở, nhưng chưa xác định chất lượng cụ thể phòng: xuống cấp hay chưa, thông thoáng hay không; hay kết nối mạng có thông không,...). - Nội dung được đánh giá cao nhất là “Thực hiện sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm HĐHT SVNT” với 35,2% ý kiến đánh giá tốt; 36,8% đánh giá khá; 16,3% đánh giá bình thường và 11,7% đánh giá kém. Qua trao đổi, cơ bản các ý kiến cho rằng, các trường đại học đã làm tốt công tác này. Tuy nhiên, muốn đạt kết quả cao hơn thì cần phải đưa ra các tiêu chí thi đua cụ thể hơn, giá trị giải thưởng cao hơn và phải được coi là một nội dung quan trọng trong tổng kết cuối năm. Nội dung “Tổ chức thực hiện kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT” có 32,5% đánh giá tốt; 34,6% đánh giá khá; 17,4% đánh giá bình thường và 15,6% đánh giá kém. Tìm hiểu sâu, chúng tôi được biết: việc kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT theo năm học được đánh giá tốt hơn kiểm tra, đánh giá thường xuyên và theo học kì. Điều này cho thấy, hoạt động kiểm tra, đánh giá mới chỉ tập trung vào cuối năm học, nên có những hạn chế, bất cập trong quản lí, tổ chức HĐHT SVNT chưa được khắc phục kịp thời. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến cho rằng chưa có sự phối hợp tốt giữa tổ chức các đơn vị, đoàn thể trong và ngoài trường trong kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT các trường đại học. Công tác kiểm tra đột xuất tình hình SVNT cũng chưa được đánh giá cao. Kết quả này phản ánh thực trạng là trong những năm qua trung tâm hỗ trợ SV cũng như phòng công tác chính trị và quản lí SV và ban quản lí các KTX chưa thực sự quan tâm đúng mức việc kiểm tra đột xuất về các quản lí HĐHT SVNT các trường đại học. 2.4. Đánh giá chung 2.4.1. Ưu điểm - Các HĐHT SVNT được triển khai ngày càng đa dạng, đáp ứng cơ bản nhu cầu, nguyện vọng của SVNT: về ăn ở, sinh hoạt và các điều kiện bảo đảm đời sống; hoạt động giáo dục chính trị tư tưởng, hỗ trợ học tập cho SVNT ở các khu KTX. - Lực lượng tham gia hoạt động hỗ trợ SVNT (cán bộ, giảng viên, nhân viên...) ngày càng tăng về số lượng, với trình độ chuyên môn và nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm trong HĐHT SVNT ngày càng được nâng cao. - Nhiều chương trình và các HĐHT SVNT đã được nghiên cứu, áp dụng mang lại những kết quả đáng khích lệ như giúp SV có thêm những kiến thức cần thiết, trực tiếp góp phần giải quyết một phần khó khăn trong học tập, sinh hoạt và tìm kiếm việc làm của SV. - Công tác quản lí HĐHT SVNT đã được thực hiện nghiêm túc, theo chức năng, nhiệm vụ và đã khẳng định kết quả bước đầu, góp phần nâng cao chất lượng của HĐHT SVNT. Bảng 5. Thực trạng kiểm tra, đánh giá HĐHT SV TT Nội dung Mức độ đánh giá Tốt (%) Khá (%) Bình thường (%) Kém (%) 1 Xác định các tiêu chí đánh giá chất lượng HĐHT SVNT theo TQM (tập trung vào chất lượng...) 28,3 31,7 22,5 17,5 2 Xác định phương pháp kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT (trực tiếp, gián tiếp; thường xuyên, đột xuất...) 29,5 32,5 21,4 16,6 3 Tổ chức thực hiện kiểm tra, đánh giá HĐHT SVNT 32,5 34,6 17,4 15,6 4 Thực hiện sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm HĐHT SVNT 35,2 36,8 16,3 11,7 5 Rút kinh nghiệm, điều chỉnh nâng cao chất lượng HĐHT SVNT 31,4 33,6 19,5 15,5 Đánh giá chung 30,4 32,8 19,6 15,2 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2018, tr 79-85 85 2.4.2. Hạn chế, tồn tại - Vẫn còn một bộ phận SVNT chưa thực sự hài lòng với HĐHT SVNT về hỗ trợ ăn, ở và một số điều kiện sinh hoạt; một số mô hình câu lạc bộ, đội nhóm chuyên ngành, công tác tình nguyện vẫn còn mang tính bề nổi, tự phát, chưa duy trì thường xuyên, liên tục để SVNT rèn luyện nên hiệu quả chưa cao, chưa thu hút được đông đảo SVNT tham gia. - Trên thực tế, ngoài Phòng CTCT-SV còn rất nhiều các đơn vị tự triển khai thực hiện HĐHT SVNT. Do việc triển khai thực hiện tách biệt ở các đơn vị khác nhau và mang tính tự phát nên HĐHT SVNT tổ chức chưa khoa học, chuyên nghiệp; nội dung còn bị chồng chéo và trùng lặp giữa các đơn vị. Công tác phối hợp giữa các lực lượng chưa thường xuyên, hiệu quả. - Quản lí HĐHT SVNT mới chỉ phục vụ đại trà cho tất cả SVNT thông qua các buổi hội thảo, tọa đàm, chưa đạt được sự cá biệt hóa trong tư vấn đối với từng SV gặp khó khăn. Một bộ phận không nhỏ SV chưa thực sự chủ động tìm gặp các cán bộ, giảng viên khi gặp phải những khó khăn, vướng mắc và có nhu cầu được hỗ trợ. - Công tác lập kế hoạch HĐHT vẫn còn có những bất cập, chủ yếu quan tâm kế hoạch dài hạn, chưa thực sự chú trọng kế hoạch ngắn và cần thiết trước mắt. - Công tác kiểm tra, đánh giá kết quả của HĐHT SVNT chưa được tiến hành một cách thường xuyên. 3. Kết luận Quản lí HĐHT SVNT là một nội dung quan trọng của công tác quản lí nhà trường ở các trường đại học nhằm đưa HĐHT SVNT đi vào nề nếp và từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động này. Ban Giám hiệu các trường đại học đã chỉ đạo và lấy Trung tâm hỗ trợ SV, Phòng CTCT-SV làm đầu mối và phối hợp với các khoa, phòng trong nhà trường triển khai tích cực với nhiều hoạt động phong phú. Tuy nhiên, đội ngũ cán bộ đảm trách HĐHT SVNT còn ít và chưa chuyên nghiệp nên việc tiến hành các hoạt động còn hạn chế, giải quyết công việc chưa kịp thời cho SV. Vì vậy, cần phải có kế hoạch xây dựng đội ngũ làm quản lí HĐHT SVNT để hoạt động này đạt hiệu quả cao hơn nữa. Các yếu tố ảnh hưởng đến quản lí HĐHT SVNT bao gồm: các yếu tố thuộc về cán bộ quản lí ĐHQG Hà Nội và Trung tâm Hỗ trợ SV; các yếu tố thuộc về cán bộ và SV; các yếu tố thuộc về môi trường, cơ chế chính sách về HĐHT SVNT. Qua khảo sát các khách thể đều đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố là rất nhiều. Đầy là những vấn đề có tính cần thiết, rất cần được xem xét và phát triển trong việc đề xuất các biện pháp quản lí HĐHT SVNT ở các trường đại học để đưa hoạt động này thực sự có hiệu quả và chất lượng hơn nữa. Tài liệu tham khảo [1] Bộ Khoa học - Công nghệ và Môi trường (1999). Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN ISO 8402:1999 về Quản lí chất lượng và đảm bảo chất lượng - Thuật ngữ và định nghĩa. [2] Trần Ngọc Trình (2015). Quản lí chất lượng đào tạo tại các trường trung cấp chuyên nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh. Luận án tiến sĩ Quản lí giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam. [3] Đặng Quốc Bảo (2011). Quản lí Nhà trường. NXB Giáo dục Việt Nam. [4] Vương Chương Báo (2011). Mô hình quản lí chất lượng giáo dục đại học trên cơ sở quản lí chất lượng tổng thể. NXB Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh. [5] Bộ GD-ĐT (2016). Thông tư số 10/2016/TT- BGDĐT ngày 05/4/2016 về Ban hành Quy chế Công tác sinh viên đối với chương trình đào tạo đại học hệ chính quy. [6] Bộ GD-ĐT (2016). Thông tư số 26/2017/TT- BGDĐT ngày 18/10/2017 về Quy định Tổ chức hoạt động văn hóa của học sinh, sinh viên trong các cơ sở giáo dục. [7] Bộ GD-ĐT (2017). Công văn số 3765/BGDĐT- GDCTHSSV ngày 17/8/2017 về việc hướng dẫn thực hiện nhiệm vụ giáo dục chính trị và công tác học sinh, sinh viên năm học 2017-2018. [8] Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Thị Mỹ Lộc (2012). Đại cương khoa học quản lí. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [9] Chính phủ (2017). Quyết định số 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”. [10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2014). Nghị quyết Trung ương 8, Khóa XI về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo. [11] Nguyễn Đức Đăng (2016). Quản lí giáo dục quốc phòng và an ninh cho sinh viên ở các cơ sở giáo dục đại học theo tiếp cận quản lí chất lượng tổng thể. Luận án tiến sĩ Quản lí giáo dục, Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội. [12] Nguyễn Thị Mỹ Lộc - Đặng Quốc Bảo - Nguyễn Trọng Hậu - Nguyễn Quốc Chí - Nguyễn Sĩ Thư (2010). Quản lí giáo dục - Một số vấn đề lí luận và thực tiễn. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. [13] Quốc hội (2012). Luật Giáo dục đại học (số 08/2012/QH13). [14] Lê Đình Sơn (2014). Quản lí cơ sở vật chất phục vụ đào tạo của trường đại học theo quan điểm quản lí chất lượng tổng thể (TQM). Luận án tiến sĩ Quản lí giáo dục, Trường Đại học Giáo dục - Đại học Quốc gia Hà Nội.
File đính kèm:
- thuc_trang_quan_li_hoat_dong_ho_tro_sinh_vien_noi_tru_tai_ca.pdf