Thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của trẻ em dưới 2 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Hòa Bình
Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 450 bà mẹ nhằm mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe
trẻ em dưới 2 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Hòa Bình năm 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bà
mẹ có xu hướng đưa trẻ đến các cơ sở y tế gần nhà để khám chữa bệnh khi trẻ mắc bệnh. Tỷ lệ trẻ khám
chữa bệnh tại trạm y tế xã cao nhất (tiêu chảy: 73,9% và nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính: 73,3%), bệnh viện
công (tiêu chảy: 20% và nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính: 40,4%). Chỉ tìm thấy mối liên quan giữa trình độ học
vấn của bà mẹ tới sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em. Bà mẹ có trình độ học vấn trên cấp 3 sử dụng
dịch vụ chăm sóc sức khỏe chỉ bằng 0,19 lần bà mẹ trình độ dưới cấp 3 khi trẻ bị tiêu chảy và bằng 0,43 lần khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (p <>
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của trẻ em dưới 2 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Hòa Bình
TCNCYH 113 (4) - 2018 131 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC Địa chỉ liên hệ: Trần Thị Nga, Viện Đào tạo Y học dự phòng và y tế công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Email: tranthinga@hmu.edu.vn Ngày nhận: 10/5/2018 Ngày được chấp thuận: 15/8/2018 THỰC TRẠNG SỬ DỤNG DỊCH VỤ CHĂM SÓC SỨC KHỎE CỦA TRẺ EM DƯỚI 2 TUỔI VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI TỈNH HÒA BÌNH Trần Thị Nga, Nguyễn Thị Thu Hà 1Viện đào tạo Y học Dự phòng và Y tế Công cộng, Trường Đại học Y Hà Nội Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 450 bà mẹ nhằm mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em dưới 2 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Hòa Bình năm 2017. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bà mẹ có xu hướng đưa trẻ đến các cơ sở y tế gần nhà để khám chữa bệnh khi trẻ mắc bệnh. Tỷ lệ trẻ khám chữa bệnh tại trạm y tế xã cao nhất (tiêu chảy: 73,9% và nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính: 73,3%), bệnh viện công (tiêu chảy: 20% và nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính: 40,4%). Chỉ tìm thấy mối liên quan giữa trình độ học vấn của bà mẹ tới sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em. Bà mẹ có trình độ học vấn trên cấp 3 sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe chỉ bằng 0,19 lần bà mẹ trình độ dưới cấp 3 khi trẻ bị tiêu chảy và bằng 0,43 lần khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (p < 0,05). Từ khóa: sử dụng dịch vụ, trẻ em dưới 2 tuổi, Hòa Bình I. ĐẶT VẤN ĐỀ Dịch vụ y tế là dịch vụ chỉ toàn bộ các hoạt động chăm sóc sức khỏe cho người dân mà kết quả là tạo ra các sản phẩm hàng hóa không tồn tại dưới dạng hình thái vật chất cụ thể, nhằm thỏa mãn kịp thời, thuận tiện và có hiệu quả hơn các nhu cầu ngày càng tăng của người dân về chăm sóc sức khỏe [1]. Việc tìm hiểu hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế của người dân sẽ giúp cho các cơ sở y tế cung cấp các loại hình dịch vụ y tế phù hợp, đáp ứng nhu cầu của người dân. Trẻ em dưới 2 tuổi là đối tượng dễ bị tác động bởi bệnh tật. Ở giai đoạn này, tử vong ở trẻ em 80% liên quan tới viêm phổi và 70% liên quan tới tiêu chảy, gây gánh nặng tử vong trẻ em lớn đặc biệt ở các nước thu nhập thấp và trung bình [2]. Một nghiên cứu tại Trung Quốc cho thấy hầu hết những người chăm sóc trẻ đã tìm kiếm sự chăm sóc ở bên ngoài khi trẻ bị sốt, ho, viêm phổi và tiêu chảy, khoảng 2/3 tìm kiếm sự chăm sóc tại các trạm y tế xã và các bệnh viện quận/huyện [3]. Một nghiên cứu khác ở Zambezia cho thấy có 65% trẻ bị sốt được đưa đến một cơ sở y tế [4]. Kết quả của một số nghiên cứu tại Việt Nam cũng cho thấy trên 70% trẻ em khi ốm đau được đưa đến các cơ sở y tế và có xu hướng với trẻ em khu vực thành thị tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe tại bệnh viện hoặc trung tâm y tế huyện trong khi trẻ em ở khu vực nông thôn lại đa phần khám và điều trị tại trạm y tế xã [5 - 7]. Hòa Bình là một tỉnh miền núi, tập trung nhiều dân tộc sinh sống. Năm 2016, tỷ suất tử vong chiếm 5,7/1000 trẻ đẻ sống, dưới 1 tuổi 13/1000, dưới 5 tuổi 14,5/1000, có tới 90% trẻ nhiễm khuẩn đường hô hấp (58.880 trẻ), tiêu chảy (5.253 trẻ). Các nguyên nhân trẻ tử vong là viêm phổi, dị tật bẩm sinh, sơ sinh non yếu, 132 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC tai nạn [8]. Vậy việc sử dụng dịch vụ y tế của trẻ dưới 2 tuổi ở đây như thế nào? Yếu tố nào ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ y tế? Để trả lời câu hỏi này nghiên cứu được thực hiện với mục tiêu mô tả thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của trẻ em dưới 2 tuổi và một số yếu tố liên quan tại tỉnh Hòa Bình năm 2017. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tượng: Bà mẹ có con dưới 2 tuổi. Tiêu chuẩn: Bà mẹ có con dưới 2 tuổi trên địa bàn nghiên cứu, đồng ý tham gia nghiên cứu, không bị các rối loạn tâm thần, có khả năng cung cấp thông tin, loại trừ những đối tượng trong danh sách không có mặt tại hộ gia đình trong thời gian nghiên cứu. Địa điểm, thời gian nghiên cứu Địa điểm: Thành phố Hòa Bình, huyện Lương Sơn và huyện Mai Châu, tỉnh Hòa Bình. Thời gian: từ tháng 9/2016 đến tháng 4/2017. 2. Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang. Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho ước tính một tỷ lệ Trong đó: n: Cỡ mẫu nghiên cứu cần có. Z2(1-α/2): Hệ số tin cậy với α = 0,05 ta có Z = 1,96; p: là tỷ lệ trẻ em mắc bệnh được đưa đến cơ sở y tế của một nghiên cứu trước. p = 32,1% [9]; ε: Khoảng sai lệch mong muốn giữa tham số mẫu và tham số quần thể. Chọn ε = 0,15. Từ công thức trên tính n = 362, lấy thêm 20% để đảm bảo cỡ mẫu → Cỡ mẫu thực tế là 450 bà mẹ có con dưới 2 tuổi. 3. Chọn mẫu: Theo 3 bước Bước 1: Chọn chủ đích: 1 huyện thành thị (Thành phố Hòa Bình), 1 huyện nông thôn (huyện Lương Sơn) và 1 huyện miền núi (huyện Mai Châu). Bước 2: Chọn Xã: chọn chủ đích mỗi huyện 15 xã → Tổng số điều tra 45 xã. Bước 3: Chọn bà mẹ có con dưới 2 tuổi: Tại mỗi xã, lập danh sách hộ gia đình có con dưới 2 tuổi. Tiến hành lấy mẫu ngẫu nhiên đơn để chọn ra 10 bà mẹ có con dưới 2 tuổi/ xã. 4. Kỹ thuật thu thập số liệu Phỏng vấn sử dụng bộ câu hỏi có cấu trúc gồm: phần thông tin chung, mắc các bệnh cấp tính về nhiễm khuẩn hô hấp và tiêu chảy của trẻ, lựa chọn điều trị của bà mẹ. Trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp khi có triệu chứng như ho, sốt, khó thở, và mắc tiêu chảy khi có những triệu chứng như đau bụng, đi ngoài ≥ 3 lần/ ngày. 5. Sai số và hạn chế sai số Sai số: sai số nhớ lại của các bà mẹ, sai số do kỹ năng của điều tra viên trong quá trình thu thập số liệu. Cách khắc phục sai số: Thiết kế bộ câu hỏi dễ hiểu, thử nghiệm và hoàn chỉnh trước khi thu thập số liệu chính thức. Tập huấn kỹ điều tra viên và giám sát viên. Trước khi kết thúc phỏng vấn điều tra viên phải xem xét lại phiếu điều tra để khẳng định các thông tin đã được n = Z2(1- α/2) (p.(1 - p) (p.ε)2 TCNCYH 113 (4) - 2018 133 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC khai thác đầy đủ. Điều tra viên kiểm tra phiếu phát hiện những thông tin còn thiếu, sai sót và hoàn thiện lại phiếu. 6. Phân tích và xử lý số liệu Số liệu được kiểm tra, làm sạch và nhập bằng phần mềm Epidata 3.1 sau đó xử lý thống kê bằng phần mềm Stata 12.0. Sử dụng test thống kê mô tả để tính toán kết quả. 7. Đạo đức nghiên cứu Đề tài được sự chấp thuận và tự nguyện tham gia của cộng đồng, sự ủng hộ của chính quyền địa phương, lãnh đạo các cơ sở y tế trên địa bàn nghiên cứu, mọi thông tin được bảo mật và chỉ sử dụng cho mục đích nghiên cứu. III. KẾT QUẢ 1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu Có 450 bà mẹ có con dưới 2 tuổi tham gia nghiên cứu. Đa số các bà mẹ là dân tộc Mường, Kinh, Thái và không theo tôn giáo, có sự khác biệt về điều kiện kinh tế hộ gia đình giữa các huyện, Mai Châu có tỷ lệ hộ nghèo cao nhất (34%). Phần lớn các bà mẹ có trình độ hết cấp 3, ở thành phố Hòa Bình bà mẹ có trình độ từ trung cấp trở lên chiếm tỷ lệ cao nhất (44%). Về nghề nghiệp, các bà mẹ là nông dân chiếm tỷ lệ lớn ở huyện Lương Sơn (42,7%) và huyện Mai Châu (52%). 2. Thực trạng sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em dưới 2 tuổi Biểu đồ 1 Tình hình mắc triệu chứng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính và tiêu chảy của trẻ trong bốn tuần qua (n = 450) * NKHHCT: nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Tỷ lệ trẻ mắc các triệu chứng nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính (75%) cao hơn so với tiêu chảy (34,2%) và đều cao ở cả ba huyện. Ở Mai Châu có tỷ lệ trẻ mắc nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính cao hơn so với thành phố Hòa Bình và huyện Lương Sơn. Biểu đồ 2. Lựa chọn sử dụng dịch vụ y tế khi trẻ có các triệu chứng bệnh 134 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC *NKHHCT: nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Khi trẻ bị tiêu chảy và nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, đa số các bà mẹ đều đưa trẻ đi khám/ điều trị, tỷ lệ bà mẹ không đưa trẻ đi khám/điều trị thấp, dưới 20%. Bảng 1. Sử dụng dịch vụ y tế của bà mẹ khi trẻ bị tiêu chảy Lựa chọn nơi khám chữa bệnh Thành phố Hòa Bình (n = 23) Lương Sơn (n = 53) Mai Châu (n = 54) Chung (n = 130) n % n % n % n % Trạm y tế xã 11 47,8 40 75,5 45 83,3 96 73,9 Bệnh viện công 11 47,8 18 33,9 25 46,3 54 41,5 Phòng khám tư 5 21,7 13 24,5 8 14,8 26 20,0 Phòng khám đa khoa khu vực 4 17,4 13 24,5 6 11,1 23 17,7 Bệnh viện tư nhân 1 4,4 2 3,8 0 0,0 3 2,3 Khác 0 0,0 7 13,2 3 5,6 10 7,7 Khi trẻ bị tiêu chảy, tỷ lệ bà mẹ đưa trẻ đến trạm y tế xã khám/ điều trị nhiều nhất (73,9%), tỷ lệ này ở thành phố Hòa Bình thấp hơn hai huyện Lương Sơn và Mai Châu. Tiếp đến, trẻ được đưa đến bệnh viện công là 41,5%; thấp nhất là được đưa đến phòng khám tư (20%). Bảng 2. Sử dụng dịch vụ y tế của bà mẹ khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính Lựa chọn nơi khám chữa bệnh Thành phố Hòa Bình (n = 66) Lương Sơn (n = 100) Mai Châu (n = 111) Chung (n = 277) n % n % n % n % Trạm y tế xã 29 43,9 72 72,0 102 91,9 203 73,3 Bệnh viện công 37 56,1 33 33,0 42 37,8 112 40,4 Phòng khám tư 29 43,9 33 33,0 16 14,4 78 28,2 Phòng khám đa khoa khu vực 10 15,2 21 21,0 12 10,8 43 15,5 Bệnh viện tư nhân 5 7,6 1 1,0 3 2,7 9 3,3 Khác 9 13,6 7 7,0 5 4,5 21 7,6 Khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, tỷ lệ bà mẹ đưa trẻ đến trạm y tế xã, bệnh viện công để khám/điều trị nhiều nhất (73,3% và 40,4%), tiếp đến là phòng khám tư là 28,2%, thấp nhất là tỷ lệ đến bệnh viện tư (3,3%). TCNCYH 113 (4) - 2018 135 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC 3. Một số yếu tố ảnh hưởng tới sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em dưới 2 tuổi tại tỉnh Hòa Bình năm 2017 Bảng 3. Phân tích hồi quy đa biến các yếu tố liên quan tới sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em Đặc điểm Sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi trẻ bị bệnh OR 95% CI Sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi trẻ bị tiêu chảy Trình độ học vấn (*Dưới cấp 3) Trên cấp 3 0,19* 0,05 – 0,71 Nghề nghiệp mẹ (* Nông dân) Nghề nghiệp khác 1,02 0,38 – 2,71 Sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính Dân tộc (* Mường, Thái, khác) Kinh 0,61 0,33 - 1,15 Trình độ học vấn (* Dưới cấp 3) Trên cấp 3 0,43* 0,19 - 0,95 Nghề nghiệp mẹ (* Nông dân) Nghề nghiệp khác 0,63 0,34 - 1,16 Kinh tế hộ gia đình (* Nghèo) Không nghèo 0,37 0,10 - 1,30 Có mối liên quan giữa trình độ học vấn của bà mẹ tới sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi trẻ mắc bệnh (p < 0,05). Khi trẻ bị tiêu chảy, bà mẹ có trình độ học vấn trên cấp 3 sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe chỉ bằng 0,19 lần bà mẹ trình độ dưới cấp 3. Khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, bà mẹ có trình độ học vấn trên cấp 3 sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe chỉ bằng 0,43 lần bà mẹ có trình độ học vấn dưới cấp 3. IV. BÀN LUẬN Hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế là sự lựa chọn ưu tiên các loại dịch vụ y tế của người dân khi cần chăm sóc sức khỏe theo từng mức độ khác nhau. Người dân có thể tìm đến sử dụng bất cứ hình thức cung cấp dịch vụ y tế nào do các cơ sở y tế công lập hay tư nhân cung cấp. Trong nghiên cứu, hầu hết bà mẹ đều đưa trẻ đi khám khi trẻ bị bệnh, tỷ lệ bà mẹ không điều trị gì cho trẻ rất thấp (< 20%). Điều này cho thấy, đa số các bà mẹ đều lo lắng khi trẻ mắc bệnh, nhận thức được việc đưa trẻ đi khám/điều trị để nhanh chóng xác định được tình trạng cũng như chữa khỏi bệnh cho trẻ. Kết quả cũng tương đồng với nghiên cứu tại huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị năm 2010 cho thấy: Đa số các bà mẹ đưa 136 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC con đến cơ sở y tế khi trẻ bị tiêu chảy hoặc ho, sốt (75% và 82,6%) [6]. Trong số những bà mẹ lựa chọn nơi khám điều trị khi con bị bệnh, đa số các bà mẹ lựa chọn y tế công, nhiều nhất là tỷ lệ bà mẹ đưa trẻ đến trạm y tế xã và bệnh viện công (bảng 1 và bảng 2), điều này cho thấy các bà mẹ tin tưởng vào chất lượng dịch vụ ở các cơ sở y tế công. Tỉnh Hòa Bình là một tỉnh nằm trong Dự án “Tăng cường năng lực hệ thống y tế tuyến cơ sở”, các trạm y tế xã được hỗ trợ, bổ sung trang thiết bị, nâng cấp cơ sở hạ tầng, cải thiện chất lượng dịch vụ đã đáp ứng được tốt hơn nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân. Cũng theo kết quả nghiên cứu, tỷ lệ bà mẹ đưa trẻ đến trạm y tế xã khám/ điều trị ở thành phố Hòa Bình thấp hơn và đến y tế tư nhân cao hơn so với hai huyện còn lại. Điều này có thể là do ở thành phố là địa điểm thuận lợi đi lại, tập trung nhiều bệnh viện, phòng khám tư, người dân có thể lựa chọn đa dạng các loại hình dịch vụ phù hợp với nhu cầu hơn. Đây là thông tin hữu ích cho các nhà hoạch định xem xét đưa ra những chính sách tăng cường phát triển tuyến y tế cơ sở phù hợp, đặc biệt là đối với những nơi khó khăn. Trẻ dưới 2 tuổi là nhóm trẻ đặc biệt, ở nhóm tuổi này việc quyết định khám chữa bệnh là do người chăm sóc trẻ, chủ yếu là từ phía bà mẹ, người nuôi dưỡng chính của trẻ. Theo Điều tra y tế quốc gia năm 2001 - 2002, trình độ giáo dục có mối liên hệ với việc khám chữa bệnh khi ốm đau, những người có trình độ học vấn cao hơn có xu hướng tiếp cận dịch vụ nhiều hơn, đặc biệt đối với dịch vụ chăm sóc sức khỏe trẻ em [7; 10]. Tuy nhiên, trong nghiên cứu, phân tích hồi quy đa biến cho thấy bà mẹ có trình độ học vấn trên cấp ba có tỷ lệ sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe chỉ bằng 0,19 lần bà mẹ trình độ dưới cấp 3 khi trẻ bị tiêu chảy và 0,43 lần bà mẹ có trình độ học vấn dưới cấp ba khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính. Điều này có thể giải thích là do những đối tượng có trình độ học vấn cao có kiến thức về phòng và xử trí bệnh tốt hơn, họ nhận thức được việc khi nào cần đưa trẻ đi khám, khi nào cần sử dụng dịch vụ y tế, mà không sử dụng dịch vụ một cách tràn lan, lãng phí thời gian, tiền bạc khi không cần thiết. Các yếu tố khác như dân tộc, nghề nghiệp, kinh tế hộ gia đình, nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy mối liên quan tới việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe của bà mẹ khi trẻ bị bệnh. Có thể cần phải có những nghiên cứu sâu hơn trên quy mô rộng hơn để làm rõ được vấn đề này. Tuy nhiên những kết quả chúng tôi đưa ra phần nào cung cấp được những thông tin giúp ích cho y tế địa phương thấy được tình hình sức khỏe, nhu cầu chăm sóc sức khỏe và hành vi tìm kiếm dịch vụ y tế của người dân khi mắc bệnh, từ đó cung cấp các loại hình dịch vụ y tế kịp thời và tốt nhất đáp ứng được nhu cầu góp phần nâng cao sức khỏe cho trẻ em và người dân địa phương. V. KẾT LUẬN Khi trẻ có các triệu chứng bệnh, bà mẹ đưa trẻ đến khám chữa bệnh tại y tế công cao hơn y tế tư, cao nhất đến trạm y tế xã (tiêu chảy: 73,9% và nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính: 73,3%), tiếp đến là bệnh viện công (41,5% và 40,4%), thấp nhất là bệnh viện tư (2,3% và 3,3%). Bà mẹ đưa trẻ đến khám chữa bệnh tại y tế công ở thành phố thấp hơn so với hai huyện nông thôn và miền núi. Chỉ tìm thấy mối liên quan giữa trình độ học vấn của bà mẹ và việc sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe khi trẻ bị bệnh. Bà mẹ có trình độ học vấn trên cấp 3 có tỷ lệ sử dụng TCNCYH 113 (4) - 2018 137 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC dịch vụ chăm sóc sức khỏe chỉ bằng 0,19 lần bà mẹ trình độ dưới cấp 3 khi trẻ bị tiêu chảy và 0,43 lần bà mẹ có trình độ học vấn dưới cấp ba khi trẻ bị nhiễm khuẩn hô hấp cấp tính, p < 0,05. Lời cảm ơn Chúng tôi xin trân trọng cám ơn sự giúp đỡ của các đơn vị y tế tỉnh Hòa Bình và những bà mẹ đã tham gia phỏng vấn tại 3 huyện Lương Sơn, thành phố Hòa Bình và huyện Mai Châu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Jun A Liu, Qi Wang và Zu X Lu (2010). Job satisfaction and its modeling among town- ship health center employees: a quantitative study in poor rural China. BMC Health Ser- vices Research, 10, 115. 2. United Nations Children’s Fund (UNICEF) (2016). One is too many. Ending child deaths from pneumonia and diarrhoea. 3. Qiong Wu, Yanfeng Zhang (2013). Care-seeking and quality of care for outpatient sick children in rural Hebei, China: a cross- sectional study. Diseases in low and middle income countries, 54, 541 - 549. 4. M. Bayham, M. Blevins, M. Lopez et al (2017). Predictors of Health-Care Utilization Among Children 6-59 Months of Age in Zam- bezia Province, Mozambique. Am J Trop Med Hyg, 96(2), 493 - 500. 5. Nguyễn Anh Vũ, Lê Thị Hương (2011). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ em dưới 5 tuổi vùng dân tộc Mường tại huyện Yên Thủy tỉnh Hòa Bình, Tạp chí Y học thực hành, 6(768), 27 - 30. 6. Lê Thị Hương, Vũ Phương Hà (2010). Kiến thức, thực hành nuôi con của các bà mẹ và tình trạng dinh dưỡng của trẻ em dưới 2 tuổi vùng dân tộc thiểu số tại huyện Hướng Hóa, tỉnh quảng trị năm 2010, Tạp chí Nghiên cứu y học Phụ trương, 70(5), 16 - 21. 7. Vương Lan Mai, Trần Thị Mai Oanh, Nguyễn Hoàng Long (2013). Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế của một số nhóm dân cư và các rào cản trong tiếp cận dịch vụ y tế. Tạp chí Y học thực hành, 7(876), 14 - 15. 8. Việt Lâm (2017). Childfund Việt Nam hỗ trợ Hòa Bình triển khai mô hình xử lý lồng ghép chăm sóc trẻ bệnh và Sổ theo dõi sức khỏe bà mẹ và trẻ em, truy cập ngày 20-3- 2018 tại trang web com/ 2017/03/19/childfund-viet-nam-ho-tro-hoa-binh -trien-khai-mo-hinh-xu-ly-long-ghep-cham-soc- tre-benh-va-so-theo-doi-suc-khoe-ba-me-va- tre-em/. 9. Trần Lệ Thu (2012). Tình trạng dinh dưỡng và một số yếu tố liên quan của trẻ dưới 24 tháng tuổi tại 2 xã thuộc huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang năm 2011. Luận văn BSCK II, Đại học Y Hà Nội, Hà Nội. 10. Bộ Y tế và Tổng cục thống kê (2003). Báo cáo kết quả điều Y tế quốc gia 2001 - 2002. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội. Summary USE OF HEALTH CARE SERVICES OF CHILDREN UNDER 2 YEARS AND SOME RELATED FACTORS IN HOA BINH PROVINCE A cross-sectional study was conducted on 450 mothers with children under the age of 2 years to determine the current state of health care needs in children under 2 years of age and some related factors of Hoa Binh province in 2017. The results show that mothers use nearby 138 TCNCYH 113 (4) - 2018 TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC community health centers when their children require medical attention. Children are most commonly treated for diarrhea and respiratory infection at 73.9% and 73.3% respectively; Hospitalization following diarrhea occurred at a rate of 20% and acute respiratory infections at 40.4%. A correlation between maternal education and health care utilization was found. Mothers with a grade 3 education used health care services at a rate that was 0.19 times higher than mothers with lower education level for treatment of diarrhea and 0.43 times higher for treatment of acute respiratory infections (p < 0.05). Keywords: use service, children under 2 years, Hoa Binh
File đính kèm:
- thuc_trang_su_dung_dich_vu_cham_soc_suc_khoe_cua_tre_em_duoi.pdf