Tìm hiểu về can thiệp của chính phủ trong thương mại dịch vụ

Tóm tắt

Trong những năm gần đây, thương mại dịch vụ nổi lên như là một xu thế mới trong thương mại quốc

tế. Mối quan hệ giữa thương mại dịch vụ và thương mại hàng hóa đã trở nên ngày càng rõ nét hơn với

sự xuất hiện của chuỗi giá trị toàn cầu.Thương mại dịch vụ, một lĩnh vực mới, chiếm tỷ lệ tương đối

nhỏ so với tổng kim ngạch thương mại hàng hóa, nhưng dường như bị kiểm soát chặt chẽ hơn cả về

sản xuất và cung ứng dịch vụ, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế. Bài viết này sẽ: (i) xem xét

sự cần thiết can thiệp của Chính phủ vào lĩnh vực thương mại dịch vụ; (ii) phân tích sự khác biệt giữa

sự can thiệp của Chính phủ trong thương mại dịch vụ và thương mại hàng hóa; (iii) các nguyên tắc và

hình thức Chính phủ can thiệp vào thương mại dịch vụ và kết luận. Đặc biệt, bài viết nhìn nhận các biện

pháp can thiệp của Chính phủ, cho dù có mang lại ảnh hưởng tiêu cực lên thương mại dịch vụ, vẫn được

hiểu là phục vụ lợi ích của công chúng, chứ không phải các biện pháp bảo hộ.

pdf 10 trang yennguyen 4080
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu về can thiệp của chính phủ trong thương mại dịch vụ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu về can thiệp của chính phủ trong thương mại dịch vụ

Tìm hiểu về can thiệp của chính phủ trong thương mại dịch vụ
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
74 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
1. Sự cần thiết can thiệp của Chính phủ 
vào thương mại dịch vụ
Thương mại dịch vụ đóng vai trò quan 
trọng trong thương mại quốc tế và mức độ 
phát triển dịch vụ ở mỗi quốc gia khác nhau là 
hoàn toàn khác nhau, nên Chính phủ các nước 
can thiệp vào lĩnh vực thương mại dịch vụ vì 
những mục đích khác nhau. 
Thứ nhất,Chính phủ can thiệp vào lĩnh vực 
thương mại dịch vụ để bảo vệ lợi ích của công 
chúng (public interests). Theo quan điểm của 
các nhà kinh tế, Chính phủ thường can thiệp 
vào thị trường dịch vụ để đảm bảo tính hiệu 
quả cũng như sự công bằng. Cụ thể, Chính 
Tóm tắt 
Trong những năm gần đây, thương mại dịch vụ nổi lên như là một xu thế mới trong thương mại quốc 
tế. Mối quan hệ giữa thương mại dịch vụ và thương mại hàng hóa đã trở nên ngày càng rõ nét hơn với 
sự xuất hiện của chuỗi giá trị toàn cầu.Thương mại dịch vụ, một lĩnh vực mới, chiếm tỷ lệ tương đối 
nhỏ so với tổng kim ngạch thương mại hàng hóa, nhưng dường như bị kiểm soát chặt chẽ hơn cả về 
sản xuất và cung ứng dịch vụ, nhất là trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế. Bài viết này sẽ: (i) xem xét 
sự cần thiết can thiệp của Chính phủ vào lĩnh vực thương mại dịch vụ; (ii) phân tích sự khác biệt giữa 
sự can thiệp của Chính phủ trong thương mại dịch vụ và thương mại hàng hóa; (iii) các nguyên tắc và 
hình thức Chính phủ can thiệp vào thương mại dịch vụ và kết luận. Đặc biệt, bài viết nhìn nhận các biện 
pháp can thiệp của Chính phủ, cho dù có mang lại ảnh hưởng tiêu cực lên thương mại dịch vụ, vẫn được 
hiểu là phục vụ lợi ích của công chúng, chứ không phải các biện pháp bảo hộ.
Từ khóa: Thương mại dịch vụ, sự can thiệp của Chính phủ, lợi ích công cộng, biện pháp bảo hộ 
Mã số: 224.150116. Ngày nhận bài: 15/01/2016. Ngày hoàn thành biên tập: 18/02/2016. Ngày duyệt đăng:18/02/2016.
Summary 
 Trade in service has demonstrated a prevalent trend in international trade arena in recent years. 
The complementarity between trade in goods and services has become more apparent, with the 
emergence of international supply chains. Service, a new form of trade with a relatively small part 
in comparison with the overall current trade, is likely to be imposed some strict measures, governing 
how service is produced and distributed, especially in economic downturn stages. This paper will: 
(i) highlight some reasons behind Government intervention in service; (ii) analyse the Government 
intervention in a separate discussion of trade in goods and trade in service; (iii) examine principles 
and measures that could be implemented in service intervention and conclusion. It should be noted 
that, a measure that deteriorates trade in service should also be viewed in the pursuance of public 
policy objectives rather than protectionist.
Key words: strade in service, Government’s intervention, public interest, protectionist. 
Paper No.224.150116. Date of receipt: 15/01/2016. Date of revision: 18/02/2016. Date of approval: 18/02/2016.
TÌM HIỂU VỀ CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ 
TRONG THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
Đinh Thị Thanh Long*
* ThS, Học viện Ngân hàng; Email: longdtt@hvnh.edu.vn
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
75Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
phủ thường khắc phục thất bại trên thị trường 
dịch vụ như là hiện tượng thông tin bất cân 
xứng (asymetric information), cạnh tranh 
không lành mạnh (imperfect competition) và 
yếu tố ngoại biên (externalities).
Hiện tượng thông tin bất cân xứng diễn ra 
thường xuyên trên thị trường dịch vụ bởi tính 
vô hình của dịch vụ và người tiêu dùng khó có 
khả năng kiểm định chất lượng dịch vụ cho tới 
khi sử dụng. Ta hãy xem xét vị thế của hai chủ 
thể trong quá trình cung cấp và sử dụng dịch 
vụ. Bản thân nhà cung ứng dịch vụ tự mình 
có thông tin tốt hơn, và họ cũng không mong 
muốn cung cấp thêm thông tin hữu ích cho 
khách hàng sẽ tốn thêm chi phí và giữ lợi thế 
thương mại cho riêng mình.Người tiêu dùng thì 
lại thiếu kiến thức chuyên môn và thông tin kỹ 
thuật về dịch vụ mà họ có thể sử dụng. Kết quả 
là, sự lựa chọn của người tiêu dùng được căn cứ 
dựa trên thông tin không đầy đủ, và hiển nhiên 
là bất lợi thuộc về người tiêu dùng. Nếu người 
tiêu dùng liên tục sử dụng dịch vụ của một nhà 
cung cấp, hoặc sử dụng một dịch vụ từ nhiều 
nhà cung cấp khác nhau, người tiêu dùng có 
cơ hội tiếp cận thông tin lựa chọn dịch vụ tốt 
hơn, nhưng cơ hội không nhiều do bị hạn chế 
của ngân sách. Bên cạnh đó, liên tục sử dụng 
dịch vụ cũng không phải là biện pháp hữu hiệu 
khiến cho các nhà cung ứng dịch vụ có phản 
ứng tốt hơn hoặc cung cấp thông tin nhiều hơn 
cho khách hàng. Cho dù những năm gần đây, 
nhiều nhà cung cấp dịch vụ đã có cam kết nâng 
cao chất lượng dịch vụ theo đòi hỏi của quy 
luật cạnh tranh như chú trọng tới uy tín, hình 
ảnh doanh nghiệp, dịch vụ khách hàng, thương 
hiệu, thủ tục giải quyết khiếu nại cho khách 
hàng, nhưng hầu như các nhà cung cấp không 
chấp nhận những hoạt động gây rủi ro cao cho 
chính mình (Pelkmans, 2006). Mặt khác, thông 
tin bất cân xứng nhiều khi cũng là vấn đề cho 
nhà cung ứng dịch vụ khi khách hàng lại nắm 
giữ thông tin cá nhân. Ví dụ như thị trường bảo 
hiểm nhân thọ, người bảo hiểm sẽ chịu trách 
nhiệm về những tổn thất xảy ra cho người được 
bảo hiểm nhân thọ. Nếu các thông tin về sức 
khỏe của người được bảo hiểm không được 
công bố trung thực, hiện tượng “rủi ro đạo đức” 
dễ xảy ra và lúc này người cung cấp bảo hiểm 
chịu rủi ro về phía mình.
Cạnh tranh không lành mạnh là một ví dụ 
khác về thất bại của thị trường dịch vụ. Các 
dịch vụ cung cấp qua mạng lưới như bưu 
chính, viễn thông, phân phối điện, dịch vụ vận 
tải đường sắt, môi trường được hưởng lợi 
thế theo tính kinh tế nhờ quy mô nên chỉ cần 
một vài nhà cung cấp đã có khả năng đáp ứng 
được nhu cầu thị trường. Với đặc tính này, các 
nhà cung cấp vô hình tạo nên độc quyền tự 
nhiên và kết quả là việc cung ứng thấp hơn 
nhu cầu và giá dịch vụ được hình thành cao 
hơn chi phí cận biên.Vai trò của Chính phủ là 
làm thế nào cho càng nhiều nhà cung cấp dịch 
vụ tham gia, khắc phục hiện tượng độc quyền.
Các yếu tố ngoại biên tích cực và tiêu cực 
cũng ảnh hưởng tới thị trường dịch vụ do giá 
dịch vụ không phản ánh đúng chi phí thực tế 
cũng như phục vụ lợi ích người tiêu dùng, ảnh 
hưởng trực tiếp tới việc tiêu dùng nhiều hay ít 
dịch vụ.Vai trò của Chính phủ là tăng yếu tố 
tích cực và giảm yếu tố tiêu cực. Ô nhiễm môi 
trường do nhiều phương tiện lưu thông trên 
đường phố hoặc do số lượng khách du lịch gia 
tăng là yếu tố ngoại biên tiêu cực. Trái lại việc 
mở rộng mạng lưới dịch vụ viễn thông, tăng 
đầu tư vào giáo dục và tiêm chủng dự phòng 
là yếu tố ngoại biên tích cực.
Nhiều khi Chính phủ can thiệp vào thị 
trường dịch vụ để tạo sự công bằng. Dịch vụ 
như y tế, giáo dục là các yếu tố đầu vào cho 
phát triển nguồn nhân lực, nên được hướng tới 
như các mục tiêu xã hội của Chính phủ. Ngoài 
ra, sự công bằng cũng được phổ biến như dịch 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
76 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
vụ nghe nhìn, bưu chính, vận tải, cung cấp 
năng lượng và nước sạch với chi phí có thể 
chi trả được cho cư dân ở các vùng sâu, vùng 
xa, bị ngăn cách bởi vị trí địa lý. 
Thứ hai,Chính phủ can thiệp vào lĩnh vực 
dịch vụ do yếu tố chính trị: Các lý thuyết kinh 
tế về vai trò điều tiết của Chính phủ, ngoài 
việc can thiệp phục vụ cho mục đích chung 
của nền kinh tế, thêm vào đó, Chính phủ cũng 
phải quan tâm tới lợi ích của các nhóm (special 
interest groups). Vẫn biết lợi ích nhóm có thể 
gây ra thất bại thị trường, mang lại thuận lợi 
cho một nhóm cụ thể nào trong nền kinh tế, 
nhưng thông thường là những ưu đãi cho nhà 
sản xuất trong nước bởi các lý do sau:
Việc chú trọng tới lợi ích nhóm sẽ giảm 
thiểu rủi ro và nhận được ủng hộ nhiều hơn 
cho các Đảng phái khi tranh cử. Thương mại 
hàng hóa được điều tiết rõ ràng qua thuế quan, 
Chính phủ không thể ưu ái nhà sản xuất trong 
nước hay nhà đầu tư nước ngoài trong cùng 
ngành nghề. Nhưng thương mại dịch vụ thì 
hoàn toàn khác bởi chính sách, công cụ áp 
dụng trong lĩnh vực thương mại dịch vụ có thể 
không rõ ràng. Điều này cho phép Chính phủ 
có động cơ hỗ trợ khu vực trong nước nhằm 
đạt được thỏa hiệp và ủng hộ về chính trị.
Dịch vụ với đặc tính vô hình, đa dạng, 
thường xuyên cần được kiểm soát ngay từ 
khâu cung ứng cho thấy can thiệp trong lĩnh 
vực dịch vụ không những phức tạp mà còn 
không dễ dàng gì khi tiếp cận các tiêu chí cơ 
bản. Việc can thiệp của Chính phủ có thể che 
giấu chủ ý ban đầu của Chính phủ, nhất là 
những ngành cần kiểm soát chặt để đảm bảo 
an toàn vĩ mô và phát triển nguồn nhân lực.
Việc giám sát chất lượng dịch vụ thì vô cùng 
phức tạp, trong khi cơ quan giám sát, người 
giám sát có thể ít kinh nghiệm hoặc ít thông 
tin hoặc nhiều khi vô tình làm sai lệch lợi ích 
của công chúng, nên can thiệp của Chính phủ 
sẽ giảm thiểu sai sót từ phía cơ quan thực thi 
chính sách. 
Các lĩnh vực dịch vụ cần phải đảm bảo tính 
công bằng, nhưng người tiêu dùng thực sự vẫn 
muốn sử dụng và ủng hộ dịch vụ từ nhà sản 
xuất trong nước. Nếu lợi ích của nhà cung ứng 
dịch vụ không còn được hỗ trợ từ Chính phủ, 
thì chi phí sẽ tăng và chất lượng dịch vụ sẽ 
giảm, ảnh hưởng tới lòng tin của cư dân vào 
bộ máy chính quyền.
Thứ ba, Chính phủ bắt buộc can thiệp vào 
lĩnh vực thương mại dịch vụ liên quan tới một 
số loại hình dịch vụ là hàng hóa công cộng. 
Trước đây, một số loại hình dịch vụ như 
xây dựng cơ sở hạ tầng, dịch vụ xã hội, an 
ninh quốc phòng (dịch vụ công cộng) được 
Chính phủ cung cấp trực tiếp cho công chúng, 
dưới hình thức độc quyền. Những thập kỷ gần 
đây, với các cam kết trong lĩnh vực thương 
mại hàng hóa và thương mại dịch vụ, Chính 
phủ các nước dần chuyển từ vai trò của người 
sản xuất dịch vụ công cộng sang vai trò giám 
sát, cho phép khu vực tư nhân tham gia nhiều 
hơn vào lĩnh vực dịch vụ công cộng. Tuy 
nhiên, Chính phủ vẫn giữ vai trò giám sát và 
can thiệp càng chặt chẽ khi quá trình tư nhân 
hóa và mở cửa các thị trường dịch vụ này ngày 
càng phổ biến, do tính đặc thù của nó. 
Thứ tư, vai trò của Chính phủ vào lĩnh vực 
thương mại dịch vụ càng gia tăng khi đối mặt 
với khủng hoảng
Thực tế cho thấy, trong và sau khủng hoảng, 
kinh tế suy thoái càng củng cố vai trò của 
Chính phủ sử dụng các biện pháp phi thuế quan 
đối với thương mại hàng hóa và can thiệp của 
Chính phủ với thương mại dịch vụ. Và khu vực 
tài chính chứng kiến sự can thiệp của Chính 
phủ rõ ràng nhất. Các nghiên cứu học thuật 
cũng chỉ ra nguyên nhân ban đầu và cơ bản của 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
77Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
khủng hoảng tài chính thế giới gần đây là do 
những yếu kém mang tính thể chế trong giám 
sát hệ thống tài chính ở mỗi quốc gia, đi kèm 
với quá trình tự do hóa tài chính diễn ra tương 
đối mở ở nhiều nước đã đặt hệ thống tài chính 
các nước trong hiện tượng lây nhiễm. Để đối 
phó với khủng hoảng, ngay lập tức, Chính phủ 
các nước phát triển đã sử dụng các gói cứu trợ, 
cho vay đặc biệt với các định chế tài chính lớn 
(Baldwin and Evenett, 2010). Phải công nhận 
rằng các biện pháp can thiệp kịp thời hoàn toàn 
theo đúng mục tiêu vừa ngăn chặn đà đổ vỡ hệ 
thống tài chính, khôi phục chức năng hoạt động 
của thị trường tài chính, bảo vệ người tiêu dùng 
dịch vụ tài chính và tái lập lại ổn định khu vực 
tài chính trên toàn thế giới. 
2. Sự khác biệt giữa can thiệp Chính phủ 
trong thương mại dịch vụ và thương mại 
hàng hóa
Đã từ lâu, thương mại hàng hóa và thương 
mại dịch vụ có mối quan hệ hai chiều, hỗ trợ 
nhau cùng phát triển. Dịch vụ vận chuyển và 
logistics được coi là cực kỳ quan trọng ảnh 
hưởng trực tiếp tới thương mại hàng hóa, trong 
khi truyền thông, bảo hiểm, ngân hàng cũng 
là những ngành dịch vụ bổ trợ kèm theo. Các 
dịch vụ như phân phối, hậu mãi, bảo hành 
cũng góp phần bổ sung cho giá trị gia tăng của 
hàng hóa. Về nguyên tắc, thương mại hàng 
hóa và thương mại dịch vụ cũng đều dựa theo 
nguyên tắc chung của hội nhập quốc tế. Song 
trên thực tế, các biện pháp quản lý thương mại 
dịch vụ được nghiên cứu khác biệt với thương 
mại hàng hóa ở các mặt:
Thứ nhất, khả năng áp dụng và đánh thuế 
tính trên giá trị dịch vụ là khó thực hiện.Trong 
tất cả các trường hợp, nhân viên hải quan không 
thể tận mắt chứng kiến dịch vụ “di chuyển qua 
khỏi biên giới”, và giá trị dịch vụ chỉ được biết 
sau khi các dịch vụ có liên quan được sản xuất 
hoặc tiêu thụ (Hoekman and Primo Braga, 
1997). Do đó, về mặt kỹ thuật, Chính phủ các 
nước không thể áp dụng các biện pháp thuế 
quan trong thương mại dịch vụ.
Thứ hai, các biện pháp hạn chế dịch vụ chủ 
yếu được thực hiện trên lãnh thổ nước sở tại, 
ở bên trong biên giới (behind the border). Các 
loại hình dịch vụ có thể được cung cấp bởi bốn 
phương thức khác nhau (modes of supply).
Trong đó, có phương thức chỉ yêu cầu sự di 
chuyển qua biên giới của dịch vụ (mà không 
có sự di chuyển của nhà cung cấp) hoặc sự di 
chuyển qua biên giới của nhà cung cấp (mà 
không có sự di chuyển của dịch vụ). Do đó, 
việc quản lý nhập khẩu dịch vụ tại biên giới 
(at the border) như đối với thương mại hàng 
hóa là không khả thi.
Thứ ba, các biện pháp áp dụng cho thương 
mại dịch vụ thường được áp dụng cho cả hàng 
hóa (loại hình dịch vụ) và nhà sản xuất (người 
cung ứng dịch vụ). Đây là điểm khác biệt lớn 
khi quản lý thương mại hàng hóa và thương mại 
dịch vụ. Các biện pháp quản lý thương mại hàng 
hóa chỉ áp dụng cho mỗi hàng hóa di chuyển ra 
khỏi biên giới một quốc gia. Trong khi thương 
mại dịch vụ, quá trình sản xuất thường kèm với 
tiêu thụ, nhà cung ứng dịch vụ phải hiện diện 
thương mại ở nước nhập khẩu dịch vụ, nên quản 
lý thương mại dịch vụ sử dụng cho cả hai đối 
tượng người cung ứng và dịch vụ. 
3. Các nguyên tắc và hình thức Chính 
phủ can thiệp vào thương mại dịch vụ
3.1. Các nguyên tắc can thiệp
Ngay từ những dòng đầu tiên của Hiệp định 
chung về thương mại dịch vụ (GATS) đã thừa 
nhận quyền của mỗi quốc gia thành viên trong 
việc quản lý, điều chỉnh và cung cấp dịch vụ 
trên lãnh thổ của từng quốc gia nhằm đạt được 
mục tiêu chính sách quốc gia. Điều này cho 
phép chính sách về thương mại dịch vụ vẫn 
do Chính phủ của từng quốc gia quyết định. 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
78 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
Do đó, so với thương mại hàng hóa, Chính 
phủ có thể áp dụng nhiều biện pháp can thiệp 
hơn trong thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, các 
biện pháp can thiệp phải nằm trong khuôn khổ 
các nguyên tắc tham gia WTO theo hai nhóm 
nghĩa vụ sau:
Các nguyên tắc chung mà các quốc gia 
thành viên phải tuân thủ: là các cam kết về 
tính khách quan, công bằng, không tạo ra rào 
cản trong thương mại dịch vụ. Các nghĩa vụ 
chung này áp dụng cho tất cả các quốc gia 
thành viên và các lĩnh vực dịch vụ. 
Nghĩa vụ đối xử tối huệ quốc - MFN (Điều 
II): đòi hỏi mỗi quốc gia thành viên phải đối 
xử như nhau với các nhà cung cấp đến từ các 
nước thành viên khác nhau về tất cả các vấn 
đề. Nguyên tắc MFN cho phép hai ngoại lệ 
theo ca ... á trị của các hoạt động dịch 
vụ được phép thực hiện; (iii) hình thức pháp 
lý của nhà cung cấp dịch vụ; (iv) mức độ vốn 
góp trong liên doanh.
Cam kết đối xử quốc gia (Điều XVII): 
nguyên tắc đối xử quốc gia đòi hỏi mỗi nước 
thành viên phải dành cho dịch vụ và người 
cung cấp dịch vụ của các nước thành viên 
khác sự đối xử không kém thuận lợi hơn so 
với đối xử mà nước thành viên đó áp dụng 
cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của nước 
mình. Bản chất của cam kết đối xử quốc gia là 
những điều kiện, hạn chế mà một nước thành 
viên áp dụng đối với nhà cung cấp dịch vụ 
nước ngoài theo cách kém ưu đãi hơn hoặc 
không bình đẳng với các nhà cung cấp dịch 
vụ trong nước, hay còn gọi là cam kết ngoại 
lệ với nguyên tắc đối xử quốc gia. Trên cơ sở 
nghĩa vụ chung và các cam kết ngoại lệ, các 
nước thành viên sẽ quy định cam kết nội địa 
cụ thể cho từng ngành, phân ngành dịch vụ.
Điều lưu ý là, nội dung của nguyên tắc đối 
xử quốc gia không khác biệt giữa thương mại 
hàng hóa và thương mại dịch vụ. Nhưng cam 
kết đối xử quốc gia giữa các nước thành viên 
là khác nhau về mức độ thực hiện nguyên tắc. 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
79Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
Trong thương mại hàng hóa, các nước thành 
viên đã đàm phán song phương và đa phương 
để có sự thỏa thuận về đối xử quốc gia ở mức 
độ hầu như tuyệt đối cho hầu hết các loại hàng 
hóa về thuế, phí, các quy định và điều kiện 
thương mại Trái lại, nguyên tắc đối xử quốc 
gia áp dụng rất hạn chế trong thương mại dịch 
vụ. Cam kết mở cửa thương mại dịch vụ còn 
dè dặt, có nhiều hạn chế trong từng ngành, 
phân ngành dịch vụ và ở từng nước thành viên.
3.2. Các biện pháp can thiệp của Chính 
phủ trong lĩnh vực thương mại dịch vụ
Chính phủ các nước có thể sử dụng nhiều 
biện pháp can thiệp vào lĩnh vực thương mại 
dịch vụ, căn cứ theo cơ cấu dịch vụ và tầm 
quan trọng của ngành dịch vụ đối với nền kinh 
tế trong nước, cam kết về mức độ mở cửa thị 
trường dịch vụ. Thực tế cho thấy, các biện 
pháp can thiệp, cho dù có tác động tiêu cực 
tới thương mại dịch vụ, làm tăng chi phí cung 
cấp dịch vụ khi gia nhập hoặc hoạt động trên 
thị trường, không được nhìn nhận như biện 
pháp bảo hộ. Mà trái lại, như đã phân tích ở 
phần 1, Chính phủ luôn can thiệp vào thương 
mại dịch vụ để bảo vệ lợi ích của công chúng.
Các biện pháp tác động vào sự gia nhập 
vào thị trường và cung cấp dịch vụ
Francois và Hoekman (2010) phân chia 
can thiệp của Chính phủ căn cứ theo tác động 
của sự can thiệp đối với nhà cung cấp dịch 
vụ trong nước và nước ngoài trên nguyên tắc 
phân biệt đối xử kể từ khi nhà cung cấp gia 
nhập thị trường cho tới khi chính thức hoạt 
động (Bảng 1).
Bảng 1: Ví dụ về các biện pháp can thiệp của Chính phủ vào sự gia nhập thị trường 
và cung cấp dịch vụ
Nguyên tắc Gia nhập thị trường Cung cấp dịch vụ
Không phân 
biệt đối xử
Cho phép ba nhà cung cấp dịch vụ điện 
thoại di động được phép hoạt động trên 
lãnh thổ
Các ngân hàng thương mại phải thỏa 
mãn yêu cầu về vốn điều lệ
Phân biệt đối 
xử
Quy định số lượng nhân viên quản lý 
người nước ngoài cho mỗi chi nhánh; tỷ 
lệ vốn cổ phần của nhà đầu tư trong nước; 
Chi nhánh công ty bảo hiểm nước 
ngoài chỉ được phép kinh doanh một 
số loại hình dịch vụ; kiểm soát giá
Nguồn: Francois and Hoekman (2010).
Việc phân chia theo tác động của can thiệp 
tới việc gia nhập và hoạt động trên thị trường 
đã đề cập tới tất cả các loại hình can thiệp của 
Chính phủ trên thị trường dịch vụ. Có thể dễ 
dàng nhận thấy mục đích của việc phân nhóm.
Nhóm biện pháp liên quan tới việc gia nhập 
thị trường chủ yếu là các biện pháp hạn chế số 
lượng nhà cung cấp, do đó hạn chế số lượng 
dịch vụ cung ứng ở mỗi mức giá. Nhóm biện 
pháp quản lý hoạt động nhằm mục đích tăng 
chi phí hoạt động, và kết quả là, dịch vụ được 
cung ứng ra ở mức giá cao hơn. 
Nguyên tắc phân biệt đối xử được áp dụng 
khi gia nhập thị trường và trong quá trình hoạt 
động giúp bảo hộ nhà cung cấp trong nước với 
bất lợi thuộc về phía nước ngoài. Nhưng nguyên 
tắc phân biệt đối xử nhiều khi nên hiểu là sự 
hạn chế cạnh tranh nói chung trong những nhà 
cung cấp, chứ không phải phân biệt đối xử giữa 
nhà cung cấp trong nước với nước ngoài, như áp 
dụng với thương mại hàng hóa. Do đó, nếu như 
nguyên tắc phân biệt đối xử bị bãi bỏ, thì vẫn 
có những ngành dịch vụ chỉ có một số nhà cung 
cấp nhất định mới được phép hoạt động. Hay 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
80 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
nói cách khác, mặc dù không hề có ưu ái gì cho 
nhà cung cấp trong nước, cho dù là nhà cung 
cấp trong nước hay nước ngoài, sự gia nhập thị 
trường vẫn bị hạn chế tương đối.
Các biện pháp thường xuyên được sử dụng
Hoekman and Primo Braga (1997) lại phân 
chia các biện pháp can thiệp theo bốn nhóm biện 
pháp đang được sử dụng hiện hành, chứ không 
chú trọng vào hậu quả của các biện pháp can 
thiệp (Bảng 2). Copeland and Mattoo (2008) 
cũng tuân thủ theo các phân chia như vậy, nhưng 
hướng tiếp cận và tên gọi theo các biện pháp phi 
thuế quan được áp dụng cho thương mại hàng 
hóa, nhấn mạnh tới việc phân biệt đối xử và gây 
hậu quả kinh tế, ảnh hưởng tới giá.
Bảng 2: Các biện pháp can thiệp thường xuyên được sử dụng
Tên nhóm biện pháp Mô tả, ví dụ
1. Hạn ngạch, hàm lượng 
nội địa và quy định cấm 
(Quotas, local content and 
prohibitions)
- Hạn chế định lượng
Các quy định hạn chế về định lượng như hạn ngạch thường được sử 
dụng để hạn chế nhà cung cấp dịch vụ chứ không phải là hạn chế 
dịch vụ. 
Ví dụ: Các hiệp định song phương điều chỉnh dịch vụ hàng không 
theo UNCTAD Liner Code. Hiệp định song phương quy định cụ 
thể hãng hàng không của hai nước được khai thác tuyến đường với 
số chuyến bay, số lượng hành khách trong một khoảng thời gian 
nhất định. Ngoài ra cho phép hãng hàng không của nước thứ ba 
cũng được phép khai thác tuyến đường bay theo một tỷ lệ quy định.
- Quy định về tỷ lệ nội địa hóa
Một số lĩnh vực dịch vụ được Chính phủ duy trì tình trạng độc quyền 
cho nhà cung cấp dịch vụ trong nước, đặc biệt trong giai đoạn đầu 
mở cửa với những lĩnh vực dịch vụ liên quan tới ổn định vĩ mô (dịch 
vụ tài chính ngân hàng), đảm bảo sự công bằng cho dân cư sinh sống 
ở những vùng khó khăn (dịch vụ bưu chính viễn thông)
- Quy định cấm, hạn chế cung cấp dịch vụ
Cấm các loại hình dịch vụ và hàng hóa giữa hai quốc gia khi có lệnh 
trừng phạt kinh tế, cấm vận.
2. Nhóm công cụ liên 
quan tới yếu tố giá dịch vụ 
(Price - based instruments)
- Lệ phí
Nếu thuế quan là biện pháp được sử dụng cơ bản ảnh hưởng tới 
thương mại hàng hóa, thì lệ phí đóng vai trò giống như thuế quan 
trong thương mại dịch vụ, áp dụng khi các thể nhân cung cấp dịch 
vụ di chuyển ra khỏi biên giới quốc gia.
Ví dụ: lệ phí làm visa, lệ phí sân bay khi máy bay hạ cánh, lệ phí 
cảng biển khi tàu neo đậu nhận/ dỡ hàng
Ở nhiều nước, tuy các khoản lệ phí thấp, nhưng Chính phủ các 
nước thường sử dụng biện pháp hạn chế nhà cung cấp dịch vụ nước 
ngoài, kèm với chính sách hạn chế nhập cư, đã thực sự thiết lập nên 
rào cản hoàn hảo cho việc gia nhập thị trường.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
81Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
 - Kiểm soát giá
Kiểm soát giá là việc cơ quan của Chính phủ đặt ra mức giá áp dụng 
cho một ngành hay một sản phẩm. Kiểm soát giá thường liên quan 
tới các ngành dịch vụ được cung cấp bởi khu vực nhà nước hoặc 
độc quyền. Kiểm soát giá thường đi kèm với các biện pháp hạn chế 
định lượng nhằm mục đích áp đặt mức giá phải thấp hơn mức giá 
độc quyền, trong trường hợp nhà cung cấp dịch vụ cụ thể có sức 
mạnh thị trường. 
Ví dụ: Chính phủ có thể đề ra mức giá tối thiểu, mức giá đối đa, quy 
định hoặc công thức áp dụng tính giá chung và thường áp dụng 
trong ngành dịch vụ bưu chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, 
hàng không.
3. Quy định về tiêu chuẩn, 
hệ thống giấy phép, đấu 
thầu (Standard, licencing 
and procurement)
- Quy định về tiêu chuẩn, giấy phép cung cấp dịch vụ
Hầu hết các quốc gia, Chính phủ hoặc cơ quan quản lý chuyên ngành 
đều có quy định về tiêu chuẩn, giấy phép khi kinh doanh dịch vụ, 
nhất là các loại hình dịch vụ chuyên nghiệp (dịch vụ tư vấn, y tế, kế 
toán, kiểm toán). Dịch vụ vận tải phải tuân thủ theo quy định về xả 
khí thải gây ô nhiễm môi trường Thông qua các quy định hệ thống 
tiêu chuẩn, giấy phép sẽ làm cho giá dịch vụ tăng lên, hạn chế các nhà 
cung cấp dịch vụ nước ngoài gia nhập thị trường.
- Quy định đấu thầu
Các văn bản pháp lý điều chỉnh hoạt động đấu thầu cũng có thể tạo ra 
sự phân biệt đối xử, ưu ái hơn với nhà thầu trong nước 
Ví dụ: Theo luật đấu thầu mua sắm của Mỹ, Chính phủ có thể dành ra 
6% giá trị thầu cho nhà cung ứng hàng hóa dịch vụ trong nước; 12% 
giá trị thầu cho doanh nghiệp vừa và nhỏ có trụ sở ở vùng lãnh thổ có 
tỷ lệ thất nghiệp cao; 50% giá trị thầu đối với gói mua sắm phục vụ 
an ninh quốc phòng. Có nước không công bố tiêu chí cụ thể phân biệt 
nhà thầu trong nước với nước ngoài, nhưng quy định bất thành văn, 
chỉ nhà thầu trong nước được tiếp cận dịch vụ kế toán và quảng cáo.
4. Phân biệt đối xử khi nhà 
cung cấp tiếp cận kênh 
phân phối hệ thống
(Discriminatory access to 
distribution networks)
Các nhà cung cấp dịch vụ mới gia nhập thị trường đều cần hệ thống 
kênh phân phối sẵn có. Việc hạn chế nhà cung cấp dịch vụ nước 
ngoài tiếp cận kênh phân phối sẵn có thể hiện rõ ràng sự phân biệt 
đối xử.
Ví dụ: nhà cung cấp dịch vụ viễn thông nước ngoài phải tự xây 
dựng cơ sở hạ tầng riêng chứ không được cung cấp dịch vụ trực tiếp 
trên mạng lưới sẵn có. 
(Nguồn: Copeland and Mattoo (2008)).
Các biện pháp can thiệp của Chính phủ phục vụ lợi ích của công chúng
Bảng 3 mô tả các ngành dịch vụ mà Chính phủ có thể chú trọng để khắc phục khuyết tật thị 
trường và đảm bảo sự công bằng.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
82 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
Bảng 3: Các ví dụ về cung ứng dịch vụ của Chính phủ phục vụ lợi ích công chúng
Mục tiêu Các biện pháp can thiệp
1. Đảm bảo sự tiếp cận công bằng
- Chính phủ luôn theo đuổi mục tiêu công bằng 
để mọi công dân có thể tiếp cận dịch vụ giáo 
dục và chăm sóc sức khỏe với mức chi phí 
thấp, thậm chí là miễn phí. 
- Trong lĩnh vực giao thông và bưu chính viễn 
thông, Chính phủ cũng mong muốn người dân 
ở các vùng sâu, xa cũng được tiếp cận dịch vụ, 
không tính đến yếu tố lợi nhuận. 
- Chương trình hỗ trợ chéo: Chính phủ sẽ lấy 
nguồn thu từ các vùng có lợi nhuận để tái đầu 
tư vào các vùng kém phát triển hoặc cho những 
công dân cần hỗ trợ tài chính. 
- Hệ thống cấp phép được ban hành đảm bảo 
nghĩa vụ cung cấp dịch vụ chung (như yêu cầu 
các bệnh viện công phải miễn phí dịch vụ cho 
một nhóm bệnh nhân nhất định).
2. Bảo vệ người tiêu dùng
- Hạn chế hiện tượng thông tin bất cân xứng 
(asymetric information) trong các loại hình 
dịch vụ mang tính chuyên nghiệp: tài chính, 
y tế
- Cho phép người tiêu dùng dịch vụ có thông 
tin đánh giá chất lượng và độ an toàn của dịch 
vụ. 
- Quy định các biện pháp an toàn và yêu cầu kỹ 
thuật tương ứng với từng lĩnh vực dịch vụ
- Thiết lập các quy định công khai về chi phí, 
rủi ro, hiệu ứng phụđảm bảo cho người tiêu 
dùng có thể ra quyết định với thông tin được 
công bố
- Cung cấp chương trình đào tạo và giáo dục 
mang tính minh bạch
- Yêu cầu bảo hiểm trách nhiệm bắt buộc (bảo 
hiểm trách nhiệm của bác sỹ). 
3. Hạn chế tác động xấu từ môi trường bên 
ngoài và yếu tố ngoại biên (externalities)
- Hạn chế ô nhiễm môi trường và ô nhiễm tiếng 
ồn từ phương tiện giao thông
- Cải thiện ô nhiễm môi trường sống, môi 
trường tự nhiên và hạn chế cạn kiệt tài nguyên 
từ hoạt động du lịch, nhất là du lịch sinh thái
- Quy định hạn chế, phân loại phương tiện giao 
thông vào cuối tuần, ban đêm, vùng dân cư dễ 
bị tổn thương do tiếng ồn
- Thông qua luật xây dựng và luật môi trường
- Chương trình hỗ trợ, đánh thuế để có nguồn 
vốn tài trợ cho bảo tồn, tu sửa di tích văn hóa
4. Ổn định kinh tế vĩ mô
Hệ thống tài chính của một quốc gia được coi 
là ngành dịch vụ dễ bị tổn thương và bất ổn, 
lan truyền từ định chế tài chính này sang định 
chế tài chính khác; từ khu vực tài chính sang 
khu vực nền kinh tế thực; bóp méo tín hiệu thị 
trường và chu chuyển vốn từ nơi cần vốn tới 
nơi thiếu vốn
- Quy định an toàn tài chính: quy định vốn điều 
lệ tối thiểu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
- Yêu cầu đa dạng hóa tài sản để hạn chế rủi 
ro tiềm tàng: mức độ cho vay tối đa cho một 
khách hàng, ngành kinh tế
- Tuân thủ chế độ báo cáo tài chính, báo cáo 
lưu chuyển tiền tệ, báo cáo trạng thái dòng tiền, 
ngoại tệ
5. Phòng chống hiện tượng lũng đoạn thị 
trường và độc quyền
- Hạn chế hiện tượng độc quyền tự nhiên đối 
với các ngành dịch vụ cung cấp qua mạng lưới
- Quy định hạn chế thị phần, phân đoạn hoặc 
chia nhỏ gói dịch vụ cho nhiều nhà cung cấp 
tham gia
- Kiểm soát giá
- Thiết lập tiêu chuẩn kỹ thuật theo yêu cầu của 
Chính phủ
(Nguồn: World Trade Organization (WTO) (2005a))
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
83Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
4. Kết luận
Bài viết đã giới thiệu tổng quan về mặt lý 
thuyết vai trò can thiệp của Chính phủ trong 
lĩnh vực thương mại dịch vụ. Bài viết đã phân 
tích lý do tại sao Chính phủ cần phải can thiệp, 
sự khác biệt giữa can thiệp của Chính phủ với 
hai loại hình thương mại hàng hóa và thương 
mại dịch vụ, các nguyên tắc cần tuân thủ và 
biện pháp can thiệp. Nội dung bài viết cũng 
nhìn nhận việc can thiệp của Chính phủ nhằm 
mục đích bảo vệ quyền lợi của công chúng, 
chứ không phải mục đích bảo hộ nền kinh tế. 
Tuy nhiên, trên thực tế, hành động hạn chế 
thương mại dịch vụ của một nước có thể châm 
ngòi cho hàng loạt các biện pháp trả đũa tương 
tự ở các nước khác, kéo theo hàng loạt các 
nước khác tham gia, đe dọa tới sự tự do hóa 
thương mại và dịch vụ. Hình thức can thiệp, 
loại hình cung cấp dịch vụ nào được Chính 
phủ các nước sử dụng phổ biến trên thực tế, 
hậu quả của can thiệp về mặt kinh tế và tác 
động tới sự tự do hóa thương mại là những 
vấn đề cần được xem xét trong các nghiên cứu 
tiếp theo. 
Tài liệu tham khảo
1. 1. Baldwin, R. E. and Evenett, S. (eds.), 2010, The Collapse of Global Trade, Murky 
Protectionism, and the Crisis: Recommendations for the G20, London, Centre for 
Economic Policy Research.
2. Copeland, B. R. and Mattoo, A., 2008, The Basic Economics of Services Trade, in Mattoo, 
A., Stern, R. M. and Zanini, G. (eds.), Handbook of International Trade in Services, 
Oxford University Press. 
3. Francois, J. and Hoekman, B., 2010, Services Trade and Policy, Journal of 
EconomicLiterature48(3): 642 - 692.
4. Hoekman, B. and Primo Braga, C. A., 1997, Protection and Trade in Services: A Survey, 
Washington, D.C., World Bank, Policy Research Working Paper 1747.
5. Martin Roy, 2015, Charting the evolving landscape of services trade policies: Recent 
Patterns of Protection and Liberalization, Staff Working Paper ERSD-2015-08.
6. Pelkmans, J., 2006, European Integration: Methods and Economic Analysis, Harlow, 
Pearson Education Limited. 
7. WTO, General Agreement on Trade in Services
8. WTO, 2015, World Trade Report 2012.

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_ve_can_thiep_cua_chinh_phu_trong_thuong_mai_dich_vu.pdf