Truy tìm căn nguyên tăng trưởng (Phần 2)
PHẦN III
CON NGƯỜI HÀNH ĐỘNG VÌ ĐỘNG CƠ
Trong phần II, chúng ta đã biết không có một công thức thần kỳ nào có thể biến
người nghèo trở thành giàu có. Viện trợ, đầu tư, giáo dục, kiểm soát dân số, điều
chỉnh chính sách cho vay hay xóa nợ đều không phải là liều thuốc tiên cho tăng
trưởng. Nguyên nhân là do các công thức nêu trên đã không dựa trên nguyên tắc cơ
bản của kinh tế học: đó là con người hành động vì động cơ. Ở phần III này, chúng ta
sẽ thấy, ngay cả khi chính phủ không cản trở thị trường tự do, người nghèo cũng
không có động cơ để thoát khỏi nghèo khổ. Để vượt qua những điều không may
mắn và thoát nghèo, người nghèo cần nhận được các động cơ trực tiếp do chính phủ
tạo nên. Đôi khi sự thiếu may mắn chứ không phải chính sách tồi tệ mới là nguyên
nhân của tình trạng này. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu các chính phủ đã
ngăn cản thị trường tự do và tạo ra những động cơ triệt tiêu tăng trưởng như thế
nào. Một trong những hoạt động hủy hoại nền kinh tế của chính phủ là tham
nhũng. Tạo ra động cơ chống tham nhũng và khuyến khích thị trường tự do thường
đòi hỏi chính phủ phải có những chính sách cải cách thể chế cơ bản, những chính
sách này sẽ buộc chính phủ chịu trách nhiệm trước luật pháp và trước các công dân
của mình. Ngay cả khi nguyên nhân rắc rối bắt nguồn từ chính sách của chính phủ
hay nạn tham nhũng thì chúng ta cũng chẳng làm được gì nhiều vì các viên chức
chính phủ có động cơ để đưa ra những chính sách hủy hoại nền kinh tế. Sự bất bình
đẳng và phân biệt dân tộc càng làm tăng khả năng chính phủ sử dụng các chính
sách hủy hoại nền kinh tế, bởi vì khi đó chính phủ sẽ hành động vì lợi ích của một
tầng lớp hay nhóm dân tộc nhất định chứ không phải vì lợi ích của cả quốc gia. Để
đảm bảo tăng trưởng kinh tế, chính phủ cần có những nỗ lực có ý thức trong việc
cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng. Thất bại trong tăng trưởng xảy
ra khi chúng ta, thông qua chính phủ, hoặc đã “làm những gì chúng ta lẽ ra không
nên làm” hoặc là “không làm những gì mà chúng ta nên làm”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Truy tìm căn nguyên tăng trưởng (Phần 2)
PHẦN III CON NGƯỜI HÀNH ĐỘNG VÌ ĐỘNG CƠ Trong phần II, chúng ta đã biết không có một công thức thần kỳ nào có thể biến người nghèo trở thành giàu có. Viện trợ, đầu tư, giáo dục, kiểm soát dân số, điều chỉnh chính sách cho vay hay xóa nợ đều không phải là liều thuốc tiên cho tăng trưởng. Nguyên nhân là do các công thức nêu trên đã không dựa trên nguyên tắc cơ bản của kinh tế học: đó là con người hành động vì động cơ. Ở phần III này, chúng ta sẽ thấy, ngay cả khi chính phủ không cản trở thị trường tự do, người nghèo cũng không có động cơ để thoát khỏi nghèo khổ. Để vượt qua những điều không may mắn và thoát nghèo, người nghèo cần nhận được các động cơ trực tiếp do chính phủ tạo nên. Đôi khi sự thiếu may mắn chứ không phải chính sách tồi tệ mới là nguyên nhân của tình trạng này. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu các chính phủ đã ngăn cản thị trường tự do và tạo ra những động cơ triệt tiêu tăng trưởng như thế nào. Một trong những hoạt động hủy hoại nền kinh tế của chính phủ là tham nhũng. Tạo ra động cơ chống tham nhũng và khuyến khích thị trường tự do thường đòi hỏi chính phủ phải có những chính sách cải cách thể chế cơ bản, những chính sách này sẽ buộc chính phủ chịu trách nhiệm trước luật pháp và trước các công dân của mình. Ngay cả khi nguyên nhân rắc rối bắt nguồn từ chính sách của chính phủ hay nạn tham nhũng thì chúng ta cũng chẳng làm được gì nhiều vì các viên chức chính phủ có động cơ để đưa ra những chính sách hủy hoại nền kinh tế. Sự bất bình đẳng và phân biệt dân tộc càng làm tăng khả năng chính phủ sử dụng các chính sách hủy hoại nền kinh tế, bởi vì khi đó chính phủ sẽ hành động vì lợi ích của một tầng lớp hay nhóm dân tộc nhất định chứ không phải vì lợi ích của cả quốc gia. Để đảm bảo tăng trưởng kinh tế, chính phủ cần có những nỗ lực có ý thức trong việc cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục và cơ sở hạ tầng. Thất bại trong tăng trưởng xảy ra khi chúng ta, thông qua chính phủ, hoặc đã “làm những gì chúng ta lẽ ra không nên làm” hoặc là “không làm những gì mà chúng ta nên làm”. Tạo ra động cơ phù hợp không phải là một công thức phát triển mới, thần kỳ, mà là một nguyên tắc được tiến hành từng bước, trong đó cần gạt bỏ hết những động cơ sai lầm gắn liền với lợi ích của một nhóm nào đó và tạo điều kiện để ngày càng nhiều cá nhân có thể tiếp cận các động cơ đúng đắn. Cũng giống như chặt bỏ những bụi gai trên con đường đi tới phát triển, nó là một quá trình đấu tranh đầy khó khăn để mở rộng thêm từng khoảng trống phong quang. Đôi khi chúng ta thấy rất khó khăn và không thể tiến lên được. Sự chồng chéo giữa các động cơ của chính phủ, nhà viện trợ và người dân khiến việc tạo ra động cơ đúng đắn trở nên khó khăn. Tất nhiên, quan điểm tăng trưởng dựa trên động cơ có thể dẫn đến những sai lầm tương tự như các công thức thần kỳ từng thất bại trước đó. Chỉ ra thất bại rất dễ, nhưng để đưa ra ý tưởng thành công thì lại không hề đơn giản. Tuy nhiên, giờ đây chúng ta có lợi thế hơn những người đi trước vì: (i) chúng ta đã có 40 năm kinh nghiệm để có thể rút ra những thành công và thất bại; (ii) khoa học kinh tế đã xây dựng thành công các công cụ phân tích, giúp đưa những hiểu biết sâu sắc hơn vào tăng trưởng. Ai có sẽ được nhận Kẻ không sẽ mất đi Kinh Thánh đã nói vậy Và đến nay vẫn thế. – Billie Holiday, “Chúa phù hộ đứa bé” Tiềm năng thu nhập tương lai là động lực mạnh mẽ khiến người ta có thể làm bất cứ việc gì. Điều gì có thể tác động mạnh đến các động cơ dành cho người nghèo? Nếu như công nghệ là yếu tố quyết định sự khác biệt về thu nhập và tăng trưởng giữa các quốc gia thì tại sao các nước nghèo lại không áp dụng các công nghệ tiên tiến? Đáp án của tất cả những câu hỏi này là: hiệu suất tăng dần. Cụ thể là: sự lan truyền tri thức, kết hợp giữa các kỹ năng và những cái bẫy đói nghèo. Câu chuyện về sự lan truyền, kết hợp và những cái bẫy khiến nhiều nhà kinh tế học phải ngạc nhiên. Tại sao một khoản đầu tư nhỏ của một doanh nhân Bangladesh có tên là Noorul Quader vào một nhà máy sản xuất áo sơ-mi lại có thể đe dọa ngành dệt may nước Mỹ? Chiếc vòng chữ O bị lỗi, nguyên nhân gây ra vụ nổ tàu vũ trụ Challenger, và sự kém phát triển của Zambia liên quan với nhau như thế nào? Sự xuất hiện các khu nhà ổ chuột ở đô thị có liên quan thế nào với tình trạng nghèo khổ ở Ethiopia? Tại sao sự lan truyền kiến thức và kết hợp kỹ năng lại đẩy người nghèo rơi vào những cái bẫy đói nghèo? Trước tiên, chúng ta hãy cùng xem xét lại các động cơ cho tăng trưởng. Tăng trưởng là quá trình trở nên giàu có hơn. Trở nên giàu có hơn là sự lựa chọn giữa tiêu dùng hiện tại và tiêu dùng tương lai. Nếu như tôi cắt giảm đáng kể tiêu dùng hiện tại và tiết kiệm phần lớn thu nhập tiền lương của tôi, thì sau một vài năm, tôi sẽ giàu có hơn bởi vì tôi sẽ vừa có tiền lương, vừa có thu nhập từ lãi trên khoản tiết kiệm của mình. Ngược lại, nếu tôi tiêu dùng toàn bộ tiền lương hiện tại, tôi sẽ mãi mãi chỉ có khoản thu nhập từ tiền lương mà thôi. Tuy nhiên, theo quan điểm cũ về tăng trưởng thì các khoản tiết kiệm trong nền kinh tế không ảnh hưởng gì tới tăng trưởng dài hạn. Tăng trưởng được quyết định bởi tốc độ tiến bộ công nghệ. Hiệu suất giảm dần có nghĩa là các khoản tiết kiệm trong nền kinh tế sẽ đẩy lãi suất xuống thấp tới mức mà tại đó nền kinh tế có mức tiết kiệm vừa đủ để theo kịp tiến bộ công nghệ. Do đó, tăng trưởng dài hạn sẽ xảy ra với tỷ lệ ngang bằng tốc độ tiến bộ công nghệ và không liên quan gì tới các động cơ tiết kiệm. Nhưng hiện tượng hiệu suất trên vốn giảm dần có thật sự xảy ra? Các lý thuyết tăng trưởng mới khẳng định là không. Tại sao lại là không khi việc có thêm máy móc cho một số lượng nhân công không đổi chắc chắn sẽ dẫn tới hiện tượng hiệu suất giảm dần do máy móc? Câu trả lời là vì con người có thể tích luỹ vốn công nghệ, hay nói cách khác tri thức về các công nghệ mới sẽ tiết kiệm được lao động. Điều này rất giống với quan điểm cho rằng tiến bộ công nghệ dẫn đến tăng trưởng trong mô hình Solow. Điểm khác biệt với mô hình Solow là việc cho phép công nghệ, cũng như tất cả những yếu tố khác làm tăng sản lượng trong điều kiện số lượng lao động bị thúc đẩy bởi động cơ không đổi. Ý tưởng cốt lõi ở đây khá đơn giản. Hiệu suất giảm dần đòi hỏi một yếu tố sản xuất phải được giữ cố định, chẳng hạn như lực lượng lao động. Nhưng các chủ doanh nghiệp tìm kiếm lợi nhuận sẽ tìm cách để vượt qua hạn chế này. Họ sẽ tìm kiếm các công nghệ mới để tiết kiệm lao động. Ảnh hưởng này của các chính sách kích thích tới tăng trưởng là điểm khác biệt đáng kể so với mô hình Solow đi theo quan điểm lỗi thời, tiến bộ công nghệ xảy ra bởi những lý do phi kinh tế luôn quyết định tăng trưởng trong dài hạn. Giờ đây, các thay đổi trong động cơ về thu nhập sẽ thường xuyên làm thay đổi tốc độ tăng trưởng kinh tế. Nhưng công nghệ còn có một số đặc điểm khác thường. Tri thức công nghệ có thể lan truyền từ người này sang người khác. Công nghệ sẽ mang lại hiệu quả tối đa khi các lao động tay nghề cao kết hợp với nhau. Và điều này dẫn đến nguy cơ, những lao động kỹ năng thấp có thể bị đẩy ra khỏi toàn bộ tiến trình và vướng vào một cái bẫy. Sự lan truyền Một ngày tháng 4 năm 1980, Công ty May Desh ở Bangladesh của Noorul Quader cho ra đời những chiếc áo sơ-mi đầu tiên. Trước khi Quader thành lập Desh, may mặc chỉ là một ngành nhỏ ở Bangladesh. Các công nhân may mặc của Bangladesh là một nhóm nhỏ lẻ, chỉ khoảng 40 người. Trong năm đầu tiên hoạt động, nhà máy của Quader sản xuất được 43.000 chiếc áo sơ-mi. Nhưng một nhà máy sản xuất số lượng sơ-mi như vậy và xuất khẩu với giá thành 1,28 đô-la mỗi chiếc, đạt tổng doanh thu 55.500 đô-la vẫn chưa thấm vào đâu nếu so với tiêu chuẩn hiện thời của Bangladesh: con số 55.500 đô-la chưa bằng 1/10.000 giá trị xuất khẩu của Bangladesh năm 1980. Điều ấn tượng là những gì xảy ra sau đó, câu chuyện về sự lan truyền, những kết quả không ngờ tới và hiệu suất tăng dần. Là kết quả trực tiếp từ nhà máy Desh của Noorul Quader và doanh số 55.500 đô-la thủa ban đầu, hiện nay, giá trị các mặt hàng may mặc của Bangladesh đạt gần 2 tỷ đô-la, chiếm 54% tổng giá trị xuất khẩu của cả nước. Để hiểu rõ tại sao 55.500 đô-la của Quader lại có thể mang lại con số 2 tỷ đô-la hiện nay, chúng ta phải quay trở lại thời điểm trước khi Desh ra đời. Là một cựu quan chức chính phủ với mạng lưới quan hệ rộng trên trường quốc tế, Quader đã tìm được một đối tác cùng thành lập nhà máy sản xuất áo sơ-mi đầu tiên ở Bangladesh. Đối tác này là một nhà sản xuất sản phẩm dệt may tầm cỡ thế giới – công ty Daewoo của Hàn Quốc. Daewoo lúc bấy giờ đang tìm kiếm một cơ sở sản xuất mới nhằm tránh hạn ngạch nhập khẩu mà Mỹ và châu Âu áp dụng đối với các sản phẩm may mặc của Hàn Quốc. Hạn ngạch này không áp dụng cho Bangladesh, do đó một doanh nghiệp Bangladesh sẽ giúp Daewoo đưa sản phẩm áo sơ-mi đến các thị trường đang khép lại. Daewoo và Công ty May Desh của Quader đã ký một thỏa thuận hợp tác vào năm 1979. Điểm cốt yếu của thỏa thuận này là việc Daewoo sẽ đưa 130 công nhân của Desh sang đào tạo tại nhà máy Pusan của Daewoo tại Hàn Quốc. Để đổi lại, Desh sẽ trả các khoản phí và hoa hồng bán hàng cho Daewoo, với giá trị bằng 8% doanh số. Sự hợp tác này là một thành công lớn – hay thậm chí là một thành công trên cả tuyệt vời nếu đứng từ phía Daewoo. Các nhà quản lý và công nhân của Desh tiếp thu rất nhanh. Ngày 30 tháng 6 năm 1981, chỉ sau hơn một năm đi vào hoạt động, Quader hủy bỏ thỏa thuận hợp tác. Lúc này, số lượng sản phẩm của công ty đã tăng vọt từ 43.000 chiếc áo sơ-mi năm 1980 lên 2,3 triệu chiếc năm 1987. Mặc dù Daewoo không bị thiệt hại gì từ vụ hợp tác này nhưng những lợi ích từ sự đầu tư ban đầu vào tri thức đã lan rộng hơn dự tính của Daewoo. Nhưng ngay cả Desh cũng không thể kiểm soát nổi cơn sốt sản xuất sơ-mi đang lan truyền tới những đối tượng khác. Trong suốt thập niên 1980, trong số 130 công nhân của Desh được Daewoo đào tạo, 115 người đã rời bỏ Desh để thành lập các công ty xuất khẩu hàng may mặc của riêng họ. Họ đa dạng hóa sản xuất tới các sản phẩm găng tay, áo khoác và quần. Chính sự bùng nổ các công ty may mặc do những cựu công nhân của Desh thành lập đã giúp Bangladesh đạt được con số 2 tỷ đô-la doanh thu xuất khẩu từ hàng may mặc như ngày nay. Sự bùng nổ của ngành may mặc ở Bangladesh cũng nhanh chóng được thế giới biết đến. Các nhà sản xuất hàng may mặc ở Mỹ quá kinh ngạc và đã vận động chính phủ bảo vệ trước những người Bangladesh. Dưới sự lãnh đạo của Ronald Reagon, một người tin tưởng nhiệt thành vào tự do thương mại, chính phủ Mỹ đã áp đặt các hạn ngạch nhập khẩu hàng may mặc đối với Bangladesh. Rất bình tĩnh, Bangladesh tiến hành mở rộng thị trường sang châu Âu và vận động nới lỏng hạn ngạch thành công trên thị trường Mỹ. Mặc dù vẫn dễ bị tác động trước các chính sách thương mại thế giới nhưng hiện nay, ngành sản xuất này của Bangladesh đang ngày càng vững mạnh. Tôi không có ý định đưa câu chuyện này ra như là một bài học về việc làm cách nào để một quốc gia thành công. Tôi chỉ muốn dùng câu chuyện này để minh họa cho hiện tượng hiệu suất tăng dần. Câu chuyện về sự ra đời ngành may mặc của Bangladesh cho thấy đầu tư vào tri thức không chỉ đem lại lợi nhuận cho những nhà đầu tư ban đầu. Tri thức có tính lan truyền. Đầu tư vào tri thức Nhà kinh tế học Paul Romer khẳng định, tri thức gia tăng khi được chủ động đầu tư. Solow xem tri thức công nghệ độc lập với mức độ đầu tư. Đối với Solow, tri thức ra đời từ những yếu tố phi kinh tế, chẳng hạn như khoa học cơ bản. Nhưng nếu như tri thức tạo ra được lợi ích kinh tế to lớn, thì người ta sẽ đáp lại động cơ này bằng cách tích luỹ tri thức. Đầu tư vào tri thức hiện diện ở mọi khía cạnh trong ví dụ về Công ty Desh. Tại sao vai trò của Daewoo lại có giá trị như vậy? Tại sao Bangladesh lại không tự mình sản xuất áo sơ-mi trước khi Daewoo giúp đỡ? Câu trả lời là Daewoo biết cách làm thế nào để sản xuất áo sơ-mi và bán chúng trên thị trường thế giới. Kể từ khi hãng Daewoo được thành lập năm 1967, các nhà quản trị và công nhân của hãng đã tạo ra những tri thức mới về sản xuất hàng may mặc. Những tri thức đó sau này trở nên giá trị đối với nhiều người khác, như Noorul Quader, và sẽ được truyền lại cho các công nhân công ty Desh. Các công nhân Desh bắt đầu tham gia khóa học cắt, may, hoàn thiện và vận hành máy ở nhà máy của Daewoo tại Pusan, Hàn Quốc, từ ngày 1 tháng 4 tới 30 tháng 11 năm 1979. Sự đầu tư của Daewoo vào năm 1967 đã tạo ra những tri thức có thể được bán lại cho Desh vào năm 1979. Tạo ra tri thức không có nghĩa là tạo ra các công nghệ hoàn toàn mới. Một số khía cạnh trong công nghệ sản xuất hàng may mặc có thể có tuổi đời vài thế kỷ. Các ý tưởng công nghệ phù hợp có thể đã xuất hiện đâu đó ở nơi này nơi khác, nhưng chỉ có những người áp dụng chúng mới có thể thật sự học và dạy lại những tri thức này cho người khác. Trở lại trường hợp Bangladesh, tri thức tiếp tục được đầu tư khi Daewoo và Desh tùy biến các phương pháp của Daewoo theo điều kiện địa phương. Một trở ngại cần vượt qua là hệ thống thương mại nặng tính bảo hộ của Bangladesh. Các nhà sản xuất sẽ khó lòng cạnh tranh tốt trên thị trường thế giới nếu họ phải trả một mức giá cao hơn nhiều lần giá thế giới cho các sản phẩm sợi do thuế quan và hạn ngạch của chính phủ. Để giải quyết tình hình, chính phủ Bangladesh đã thực hiện một giải pháp có tên là hệ thống hàng lưu kho có ràng buộc đặc biệt cho nguyên liệu nhập khẩu miễn thuế đối với những nhà xuất khẩu như Desh. Hiểu rất tường tận hệ thống lưu kho có ràng buộc đặc biệt này, Daewoo đã vừa hướng dẫn Desh sử dụng, vừa cố vấn cho chính phủ Bangladesh quản lý hệ thống một cách hiệu quả. Daewoo và Desh cũng hướng dẫn các ngân hàng địa phương của Bangladesh mở thư tín dụng giáp lưng (back-to-back import letters of credit). Họ tìm kiếm sự ủng hộ của chính phủ thông qua hình thức này trong điều kiện ngoại hối bị kiểm soát chặt chẽ. Công ty Tài chính Empire Capital Group Inc. Ở California đã đưa ra cách giải thích đơn giản sau đây về hình thức thư tín dụng nhập khẩu giáp lưng: “Chúng tôi sẽ mở thư tín dụng giáp lưng khi bên trung gian mong muốn tách riêng bên sản xuất và bên mua vì lý do cạnh tranh nhưng đồng thời vẫn bảo đảm thanh toán cho các bên liên quan. Hình thức này hoạt động hết sức đơn giản. Thư tín dụng đến (incoming L/C) được mở cho người cho vay được chỉ định là người thụ hưởng. Đây là hình thức thanh toán chính và thường là duy nhất đối với hoạt động nhập khẩu. Người cho vay mở một thư tín dụng đi (outgoing L/C), tức thư tín dụng thứ hai cho người thụ hưởng do các bạn chỉ định. Các điều khoản và điều kiện thanh toán trong thư tín dụng đi thường giống như trong thư tín dụng đến. Tuy nhiên, việc sử dụng thư tín dụng giáp lưng cho phép tồn tại “sự khác biệt trong các điều kiện” và giảm thiểu rủi ro hoạt động. Ví dụ, thư tín dụng chính nêu ra việc thanh toán cho các hàng nội thất đã được lắp ráp. Nhưng hiệu quả về chi phí đòi hỏi phải chèn các sản phẩm này để vừa với công-ten-nơ chở hàng. Giải pháp trong trường hợp này là sử dụng thư tín dụng giáp lưng. Theo quy định chung, người cho vay sẽ không chấp nhận bất kỳ mức độ rủi ro nào trong hoạt động. “ Chúng ta có thể thấy tại sao ... – những nhà kinh tế học, những người làm việc tại những nước nghèo cũng cần phải bỏ thói kiêu ngạo trong quá khứ của mình. Vấn đề biến một nước nghèo trở thành một nước giàu khó hơn nhiều so với suy nghĩ của chúng ta. Chúng ta có thể dễ dàng mô tả những vấn đề còn tồn tại trong các nước nghèo hơn là cung cấp những giải pháp thực tế để xóa đói giảm nghèo cho họ. Những lời khuyên mà tôi đưa ra ở đây không phải là thần dược – chúng đòi hỏi các bệnh nhân sự nỗ lực và tiền bạc để thực hiện. Không có gì đáng buồn hơn khi tất cả cùng từ bỏ công cuộc tìm kiếm chung. Khi nhớ lại chuyến tham quan đến trường phổ thông dành cho nữ sinh tại Pakistan tại một vùng quê tuyệt đẹp với những cánh đồng lúa mạch chín vàng và những con kênh mang nguồn nước quý giá, tôi nghĩ đến những nữ sinh tung hoa chúc mừng đang không có sách học và hy vọng tương lai sẽ tốt đẹp hơn đối với họ. Hi vọng công cuộc tìm kiếm tăng trưởng cho 50 năm tới sẽ thành công hơn 50 năm vừa qua, và hi vọng sẽ ngày càng nhiều những nước nghèo trở nên thịnh vượng. Nhóm dịch giả nghiên cứu sinh tại Mỹ • Đặng Hoàng Hải Anh (University of Minnesota) • Đỗ Quốc Anh (Harvard University) • Lê Tuấn Anh (New York University, Stern School of Business) • Phạm Tuấn Anh (Princeton University, Woodrow Wilson School of Public Policy) • Lại Việt Anh (Boston University) • Nguyễn Đức Dũng (Northeastern University) • Bùi Vi Dương (Harvard University, School of Design) • Tô Văn Hòa (Suffolk University) • Vũ Hoàng Linh (University of Minnesota) • Đỗ Lê Thu Ngọc (Harvard University, Kennedy School of Government) • Bùi Minh Phương (University of Toulouse I) • Nguyễn Quang Thắng (University of Texas at Austin) • Dương Xuân Trường (University of Minnesota, Carlson School of Management) ÁC MỘNG ĐẠI KHỦNG HOẢNG 1929 Cuộc đại khủng hoảng 1929 xuất phát từ nước Mỹ đã làm sụp đổ cả thị trường, kéo theo 12 năm khủng hoảng trên phạm vi toàn thế giới và chỉ kết thúc khi Chiến tranh Thế giới thứ hai bắt đầu nổ ra. Nó được đánh giá là “thảm họa tài chính” lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ. Và giờ đây, toàn thế giới lại đang phải đối mặt với một cuộc khủng hoảng mới mà nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ có nguy cơ bùng phát thành một cuộc đại khủng hoảng. Do đó, lúc này, những bài học và kinh nghiệm rút ra từ cuộc đại khủng hoảng 1929 trở nên cần thiết hơn bao giờ hết. Cuốn sách Ác mộng đại khủng hoảng 1929 được xuất bản lần đầu tiên năm 1955 và tái bản liên tiếp trong hơn 50 năm qua, đã chứng tỏ giá trị và tính thời sự của nó. Tác giả đi sâu nghiên cứu quá trình từ khi thị trường còn “lạc quan vô bờ bến” cho tới khi “ảo ảnh tan vỡ”, cuộc khủng hoảng dần hình thành và cuối cùng nổ ra, để lại những hậu quả chưa từng có. Nhưng không chỉ có vậy, John còn đưa ra những kiến giải để giải thích căn nguyên dẫn tới cuộc đại khủng hoảng. Từ đó, độc giả có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý báu cho cuộc khủng hoảng đương thời. Đây thật sự là cuốn sách cần thiết cho các nhà nghiên cứu, đầu tư, doanh nhân và cả những người đang quan tâm đến thời cuộc. THẾ GIỚI HẬU MỸ Có vẻ như các công dân trên toàn thế giới đã quen sống trong một thế giới đã được định hình và thống trị bởi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Thế nhưng đã bao giờ bạn tự hỏi, đến khi nào nước Mỹ không còn là “số một”? Và thế giới thời kỳ hậu Mỹ sẽ mang dáng dấp ra sao? Sự chuyển giao quyền lực trên phạm vi toàn cầu sẽ diễn biến như thế nào? Tất cả những câu trả lời đều nằm trong cuốn sách: Thế giới hậu Mỹ. Trong cuốn sách mới nhất của mình, tác giả Fareed Zakaria đã nhận định “Nước Mỹ vẫn là siêu cường quốc tế, thế nhưng vị trí độc tôn này đang bị lung lay bởi sự trỗi dậy của các quốc gia phương Đông như Ấn Độ, Trung Quốc”. Zakaria biện luận rằng, hiện giờ chúng ta đang ở giữa cuộc chuyển giao quyền lực thứ ba trong vòng 500 năm trở lại đây: Lần đầu là sự trỗi dậy của phương Tây với cuộc cách mạng khoa học công nghệ, lần thứ hai là sự trỗi dậy của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ vào thế kỷ XX, và lần thứ ba này ông gọi đó là “sự trỗi dậy của phần còn lại”, với sự lớn mạnh không ngờ của Trung Quốc và Ấn Độ. Thế giới hậu Mỹ đã đặt ra một vấn đề lớn: vị trí của nước Mỹ trong bối cảnh toàn cầu đang thay đổi nhanh chóng, và phác họa được bức tranh toàn cảnh về sự kết thúc của “thế kỷ Mỹ” đầu tiên và sự khai mở của một thế giới mới, trong đó “phần còn lại trỗi dậy, phương Tây dần lụi tàn”. 1. Trò chuyện (small talk): được hiểu là cách thức bắt đầu câu chuyện với một người lạ (trong giao tiếp hằng ngày, trong công việc) và duy trì cuộc trò chuyện đó, trước khi chính thức đi vào những vấn đề cốt yếu của câu chuyện (big talk). Khái niệm ‘small talk’ là do tác giả sáng tạo ra, phân định rạch ròi việc bắt chuyện làm quen khi mới gặp gỡ là‘small talk’, còn khi trao đổi công việc mang tính trang trọng, nghiêm túc hơn là‘big talk’. Chúng tôi tạm dịch small talk là trò chuyện, làm quen, bắt chuyện; còn big talk là đối thoại. 2. Cleveland là người thành lập một trong những hãng quản lý thể thao đầu tiên ở Mỹ 1. Calvin Coolidge (1872 - 1933) Tổng thống thứ 30 của Hoa Kỳ nhiệm kỳ 1923 - 1929. 1. Phim Triệu phú ổ chuột kể câu chuyện một chàng trai trẻ xuất thân từ một khu ổ chuột và bỗng nhiên trở thành triệu phú sau khi tham gia trò chơi Ai là triệu phú? và trả lời được tất cả các câu hỏi.. (1) Một trò chơi gồm từ hai đến bốn người, trong đó mục tiêu của trò chơi là bắt quả tang những người chơi gian lận nếu họ đang chơi sai lá bài. 1. Dagwood Bumstead: Một nhân vật chính trong truyện tranh dài kỳ Blondie, được xuất bản lần đầu năm 1933. Dagwood nổi tiếng là người thường xuyên gặp vấn đề rắc rối với mọi thứ. 1. Người Cro-Magnon sống cách đây 40-50 nghìn năm, vào cuối thời kỳ đồ đá. 2. Kế hoạch Ponzi: Một hoạt động đầu tư lừa đảo hứa hẹn mang lại lợi nhuận cao với ít rủi ro. Nó được đặt theo tên của Charles Ponzi - một kế toán tại Boston, người đầu tiên đưa ra mô hình lừa gạt này năm 1919. Từ một kẻ vô danh và rỗng túi, hắn trở nên nổi tiếng và giàu có toàn nước Mỹ. 3. Kiwanis Club: Một tổ chức tình nguyện hải ngoại của Mỹ, mục đích là tạo dựng sự hợp tác lẫn nhau giữa mọi người trên thế giới. 1. Một nhân vật hoạt hình của hãng phim hoạt hình Hanan-Barbera. 2. Dick Tracy, James Bond: Các nhân vật trong phim hành động “Điệp viên 007” của Mỹ. 3. Dan Rather: Người dẫn chương trình nổi tiếng phụ trách bản tin tối trên kênh CBS của Mỹ. 4. Gamma, theta, delta là các hệ số của quyền chọn. 1. Bệnh liên quan tới tuyến giáp. 2. WASP: chỉ người thuộc tầng lớp thượng lưu, viết tắt của White Anglo- Saxon Protestant (tín đồ Tin Lành người Mỹ da trắng gốc Anh). 1. Chính sách giảm thuế cho phép các tổ chức tiết kiệm bán các khoản vay thế chấp của mình và dùng tiền mặt để xoay vòng với lợi tức cao hơn, thông thường bằng cách mua các khoản vay rẻ từ các tổ chức tiết kiệm khác đang đổ ra. Đơn giản, các tổ chức tiết kiệm trao đổi các danh mục khoản vay. Họ bị lỗ nặng trong việc bán tháo này (bán các khoản vay với giá 65 xu - so với giá 1 đô-la mà họ cho vay lúc đầu). 2. Thành ngữ này được nhiều người biết đến đặc biệt từ năm 1929, khi Đảng Cộng hòa tuyên bố rằng mỗi công dân Hoa Kỳ sẽ có “a chicken in every pot” (đủ cơm ăn áo mặc cho tất cả mọi người) nếu Herbert Hoover đắc cử trong cuộc chạy đua vào chiếc ghế tổng thống năm đó. * Việc bán khống cổ phiếu của Salomon quả thực là một vụ đầu cơ; giá cổ phiếu hầu như giảm theo một đường thẳng từ 59 xuống 32 đô-la trước khi sụp đổ vào tháng 10 năm 1987, mặc dầu phỏng đoán của các công ty môi giới khác – đáng chú ý là First Boston và Drexel Burnham, cho rằng cổ phần Salomon là một vụ đầu tư rất ngon ăn. Sau khi sụp đổ, nó đã hạ xuống còn 16 đô-la (TG). + Một trong những lời ca ngợi về thành công tài chính của Alexander có thể tìm thấy trong cốt truyện Bonfire of the Vanities (Lửa phù hoa) của Tom Wolfe. Wolfe mô tả nhân vật chính Sherman McCoy bị mắc vào tình trạng khó xử với các trái phiếu chính phủ được bảo hiểm bằng vàng của Pháp – gọi là trái phiếu Giscard. Chính Alexander là người phát hiện trái phiếu này bị định giá sai và anh đã kiếm được hàng triệu đô-la từ việc khai thác sự định giá sai đó (TG). 1. Tác phẩm binh pháp On War của Carl Von Clausewitz (1780-1831), nhà lý luận quân sự người Phổ, rất nổi tiếng trong giới quân sự phương Tây. * Wasserstein là cố vấn của Perelman, làm việc cho đối thủ cạnh tranh của chúng tôi, First Boston. Ngạc nhiên là ở chỗ, thỏa thuân này lại hấp dẫn đến nỗi anh ta phải nghỉ việc ở First Boston để quản lý Salomon nếu Perelman giành chiến thắng. Rõ ràng là Bruce không được hạnh phúc lắm ở First Boston. Anh ta từ chức vào tháng Giêng năm sau đó để mở công ty riêng, Wasserstein, Perella & Co. Ở đó, tôi có cơ hội để phỏng vấn và hỏi trực tiếp Wasserstein về tin đồn này. Anh ta là loại người mạnh mẽ, không bao giờ nhìn xuống giày và ấp úng trả lời. Nhưng lần này, khi nghe câu hỏi, anh sụp mắt xuống và hạ giọng: “Tôi không biết tin đồn này bắt đầu như thế nào, nó có thể là sự thật hay không? Tôi đang ở Nhật Bản khi việc đặt giá được thông báo.” Hmmm (TG). ** Quyền kiểm soát lại rơi vào tay Gutfreund vào năm 1984 nhờ sự hậu thuẫn của Salomon trong khi Philbro gần như sụp đổ, ông ta thuyết phục hội đồng quản trị sa thải David Tendler, CEO của Philbro. Sau đó, Gutfreund leo từ chức CEO của chi nhánh Salomon Brothers lên chức CEO của công ty mẹ Philbor Salomon – đổi tên lại thành Salomon Inc (TG). * Kẻ ngồi lê đôi mách không bao giờ bị phát hiện. Tôi được biết rằng cho đến tháng 10 năm 1988, cuộc truy tìm vẫn còn đang diễn ra (TG). ** Đó chắc chắn là sự thật. Vào cuối năm, không nhà quản lý nào từ chức. Tom Strauss được trả 2,24 triệu đô-la. Bill Voute được 2,16 triệu đô-la và có lẽ ngạc nhiên nhất là Dale Horowitz, người đứng đầu một ban bị giải thể, chịu trách nhiệm về sự dính líu của chúng tôi tại Columbia Circle, được trả 1,6 triệu đôla. Tuy nhiên, Gutfreund đã thôi không được nhận khoản tiền thưởng của ông ta, chỉ vẻn vẹn 300.000 đô-la tiền lương và 800.000 đô-la đền bù trả chậm. Thay vào tiền thưởng, Gutfreund được nhận 300.000 cổ phiếu quyền chọn mà vào thời gian đó trị giá hơn 3 triệu đô-la (TG). 1. Mỉa mai thay, sau này tôi biết rằng Southland thành công, vì nó đã hồi phục. Nhưng mối hoài nghi của tôi về kỹ năng trái phiếu thứ cấp của Salomon Brothers không thay đổi. Khoảng giữa năm 1988, hai giao dịch LBO đầu tiên trị giá hàng tỷ đô-la, lớn nhất tại Mỹ và được Phố Wall đỡ đầu đã bị phá sản. Chuỗi cửa hàng dược phẩm Revco, được mua lại bởi ban quản trị bằng trái phiếu thứ cấp, đã nộp đơn phá sản (TG). *** Việc này không đem lại hiệu quả. Như John Gutfreund giải thích cho các cổ đông trong báo cáo thường niên vào năm 1987: “Bằng cách thực hiện đúng cam kết của chúng tôi với khách hàng và tiếp tục việc nắm cổ phần công ty BP, khi sụp đổ xảy ra Salomon Brothers đã chịu khoản lỗ 79 triệu đô-la trước thuế (TG).” 1. Sam Bowie: Một vận động viên bóng rổ của Liên đoàn Bóng rổ Mỹ, người có lẽ nổi tiếng nhất về chuyện được NBA xếp trên Michael Jordan trong Bảng xếp hạng năm 1984. 2. Abraham Lincoln là chính trị gia Đảng Cộng hòa. Stephen Douglas là chính trị gia Đảng Dân chủ. Trong cuộc chạy đua vào Nhà Trắng năm 1960, Lincoln đã chiến thắng Douglas, trở thành tổng thống thứ 16 của Mỹ. 1. Chiến tranh Yom Kippur hay còn gọi là Chiến tranh Ả Rập- Israel 1973 là cuộc chiến nổ ra từ ngày 6 đến 26/10/1973 khi liên minh các quốc gia Ả Rập do Ai Cập và Syria dẫn đầu chống lại Israel. Cuộc chiến bắt đầu khi quân Ai Cập và Syria bất ngờ đồng loạt tấn công Israel trong ngày lễ Yom Kippur, ngày lễ Sám hối của người Do Thái. 1. Alexis de Tocqueville (1805-1859): nhà tư tưởng chính trị, học giả người Pháp, nổi tiếng nhất với tác phẩm Nền dân trị Mỹ. Trong tác phẩm này, ông khẳng định rằng nền dân trị là hình thức xã hội duy nhất có thể trong thời hiện đại. Ở Mỹ, từ lâu, tác phẩm này của ông, bên cạnh bản Tuyên ngôn độc lậpvà Hiến pháp Mỹ, được tôn thờ như một thứ tôn giáo và tiên tri chính trị. 2. Branko Milanovic: nhà kinh tế học, nhân viên WB, chuyên nghiên cứu về bất bình đẳng thu nhập và toàn cầu hóa. 1. Richard Nixon (1913-1994): Sau này trở thành Tổng thống thứ 37 của Mỹ, nhiệm kỳ 1969 -1974. 2. Alabama: cách nói hài hước của tác giả, Alabama là một tiểu bang của Mỹ. 3. Hồ Volta: xây dựng trên sông Volta, là đập nhân tạo lớn nhất thế giới, dài khoảng 400km. 4. Mô hình Harrod-Domar: Mô hình lý giải tăng trưởng kinh tế là do lượng vốn đưa vào sản xuất tăng lên. 5. Hội Quốc liên (League of Nation): tổ chức tiền thân của Liên hợp quốc sau này. 1. Jubilee 2000: Một phong trào quốc tế diễn ra vào năm 2000 tại hơn 40 nước, kêu gọi xóa nợ cho các nước thế giới thứ 3. 1. Đường 128 (Route 128): Là một phần con đường vành đai bao quanh thành phố Boston, bang Massachuset, Mỹ. Do sự phát triển của công nghiệp công nghệ cao quanh khu vực đường 128, con đường này được coi là biểu tượng của cộng đồng công nghệ cao của Boston. 1. Jason – dũng sĩ trong thần thoại Hy Lạp, người đã dẫn đoàn chiến binh Argo vượt biển đi tìm bộ lông cừu vàng để dâng lên các vị thần bảo hộ con người. 1. “Bearing up” là cách nói tiếng Anh của người Anh, còn tiếng Mỹ tương ứng là “I’m managing’ hoặc “I’m getting by”. 1. Câu 7 còn có thể dùng các câu khác để biểu đạt ý tương tự: Do I claim parcels here? Do I get my parcels here? Is this where I get my parcels? Are parcels claimed here? Is this the window for claiming parcels? 1. Khi nói chuyện điện thoại bằng tiếng Anh thì không dùng đại từ I và You để chỉ mình và người đối thoại, mà phải dùng đại từ nhân xưng ngôi thứ ba là It hoặc đại từ chỉ thị This, That. Ví dụ khi nói: Tôi là thì dùng It’s hoặc This is ..; khi hỏi người đối thoại là ai thì dùng Who’s that? hoặc Who’s it? 2. Khi biểu thị việc gọi điện thoại, người Mỹ thường dùng “call”, còn người Anh thì dùng “ring”. Trong hoạt động buôn bán, khi nhận điện thoại thì trước tiên thường nói cho người đối thoại biết số của công ty. Khi gọi điện thoại riêng, thông thường chỉ cần nói số điện thoại của mình. Tên viết tắt của tập đoàn máy tính INTegrated Electronics, do Gordon Moore và Robert Noyce thành lập năm 1968. Ban đầu chỉ là một công ty sản xuất thiết bị điện tử, nhưng nhờ sự phát triển vũ bão của công nghệ máy tính mà ngày nay Intel nằm trong số 50 công ty lớn nhất thế giới với doanh thu hàng năm hơn 35 tỷ đô la. (*) Wallace Earle Stegner (1909 –1993): Nhà sử học, nhà văn và nhà môi trường học nổi tiếng người Mỹ. Table of Contents Thách thức Truy tìm PHẦN I TẠI SAO TĂNG TRƯỞNG LẠI QUAN TRỌNG? CHƯƠNG 1 Để giúp người nghèo PHẦN II THẤT BẠI CỦA THẦN DƯỢC CHƯƠNG 2 Viện trợ cho đầu tư CHƯƠNG 3 Điều ngạc nhiên của Solow: Đầu tư không phải là chìa khóa cho tăng trưởng CHƯƠNG 4 Giáo dục nhằm mục đích gì? CHƯƠNG 5 Trợ giá bao cao su? CHƯƠNG 6 Những khoản vay thì có, nhưng tăng trưởng thì không CHƯƠNG 7 Xóa nợ PHẦN III CON NGƯỜI HÀNH ĐỘNG VÌ ĐỘNG CƠ CHƯƠNG 8 Câu chuyện về hiệu suất tăng dần: Sự lan truyền, kết hợp và những cái bẫy CHƯƠNG 9 Bỏ cũ tạo mới: quyền năng của công nghệ CHƯƠNG 10 Dưới ngôi sao xấu CHƯƠNG 11 Các chính phủ cũng có thể bóp chết tăng trưởng CHƯƠNG 12 Tham nhũng và phát triển CHƯƠNG 13 Phân cực xã hội CHƯƠNG 14 Kết luận: Cái nhìn từ Lahore
File đính kèm:
- truy_tim_can_nguyen_tang_truong_phan_2.pdf