Văn hóa thông tin Lào Cai trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)

TÓM TẮT

Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), ngành Văn hóa thông tin Lào

Cai đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ miền biên cương của tổ

quốc. Vấn đề Văn hóa thông tin Lào Cai trong kháng chiến chống Pháp đã được một số nhà nghiên

cứu, một số tác giả đề cập đến trong các bài báo, bài viết, luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ.

nhưng còn hết sức sơ lược, chưa có công trình nào cung cấp một cách đầy đủ, chi tiết. Trên cơ sở

phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thu thập và chọn lọc tài liệu từ nhiều nguồn

tài liệu khác nhau như các báo cáo của ngành, sách tham khảo, các bài báo trên tạp chí, báo

internet, các luận văn và đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan, tác giả đã phát triển, cung cấp

thêm thông tin về sự ra đời của ngành Văn hóa thông tin Lào Cai cũng như vai trò của nó trong

cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954). Từ đó góp phần đánh giá những thành tựu

mà ngành Văn hóa thông tin Lào Cai đóng góp cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đồng thời,

tổng kết thực tế rút ra kinh nghiệm cho ngành Văn hóa thông tin Lào Cai trong công tác tuyên

truyền, vận động quần chúng giai đoạn hiện nay.

pdf 10 trang yennguyen 4120
Bạn đang xem tài liệu "Văn hóa thông tin Lào Cai trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Văn hóa thông tin Lào Cai trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)

Văn hóa thông tin Lào Cai trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954)
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 225(07): 280 - 289 
280  Email: jst@tnu.edu.vn 
VĂN HÓA THÔNG TIN LÀO CAI TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN 
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1946 – 1954) 
Nguyễn Đức Thắng1, Vũ Mạnh Trường2* 
1Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên 
 2Trường THPT số 1 huyện Bảo Thắng, tỉnh Lào Cai 
TÓM TẮT 
Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954), ngành Văn hóa thông tin Lào 
Cai đã đóng góp một phần không nhỏ vào sự nghiệp đấu tranh bảo vệ miền biên cương của tổ 
quốc. Vấn đề Văn hóa thông tin Lào Cai trong kháng chiến chống Pháp đã được một số nhà nghiên 
cứu, một số tác giả đề cập đến trong các bài báo, bài viết, luận văn Thạc sĩ, luận án Tiến sĩ... 
nhưng còn hết sức sơ lược, chưa có công trình nào cung cấp một cách đầy đủ, chi tiết. Trên cơ sở 
phương pháp lịch sử, phương pháp logic, phương pháp thu thập và chọn lọc tài liệu từ nhiều nguồn 
tài liệu khác nhau như các báo cáo của ngành, sách tham khảo, các bài báo trên tạp chí, báo 
internet, các luận văn và đề tài nghiên cứu khoa học có liên quan, tác giả đã phát triển, cung cấp 
thêm thông tin về sự ra đời của ngành Văn hóa thông tin Lào Cai cũng như vai trò của nó trong 
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954). Từ đó góp phần đánh giá những thành tựu 
mà ngành Văn hóa thông tin Lào Cai đóng góp cho công cuộc kháng chiến, kiến quốc. Đồng thời, 
tổng kết thực tế rút ra kinh nghiệm cho ngành Văn hóa thông tin Lào Cai trong công tác tuyên 
truyền, vận động quần chúng giai đoạn hiện nay. 
Từ khóa: Văn hóa; văn hóa thông tin; tỉnh Lào Cai; đấu tranh; kháng chiến chống Pháp. 
Ngày nhận bài: 19/4/2020; Ngày hoàn thiện: 18/5/2020; Ngày đăng: 01/06/2020 
CULTURE OF LAO CAI INFORMATION IN THE WAR AGAINST THE 
FRENCH COLONIALIST (1946 - 1954) 
Nguyen Duc Thang
1, Vũ Manh Truong2* 
1TNU – University of Education 
2High School No. 1 in Bao Thang district, Lao Cai province 
ABSTRACT 
During the years of resistance war against the French colonialist (1946-1954), the culture and 
information field of Lao Cai made a significant contribution to the struggle to protect the border 
areas of the country. Lao Cai culture and information in the war against the French colonialist has 
been mentioned by some researchers and authors in articles, articles, Master's dissertations, and 
doctoral theses ... but also very primitive, no work has provided a complete, detailed. On the basis 
of historical methods, logical methods, methods of collecting and selecting documents from many 
different sources such as industry reports, reference books, journal articles, internet newspapers, 
The dissertation and related scientific research topics, the author has developed, provided more 
information about the birth of Lao Cai culture and information industry as well as its role in the 
war against the French colonialist (1946-1954). From there, contributing to assessing the 
achievements that Lao Cai Culture and Information Industry has contributed to the resistance war 
and national construction. At the same time, summarizing the reality draws experience for Lao Cai 
Culture and Information Industry in the propaganda and mass mobilization in the current period. 
Keywords: Cultural; cultural information; Lao Cai province; fight; resistance against France. 
Received: 19/4/2020; Revised: 18/5/2020; Published: 01/06/2020 
* Corresponding author. Email: truong.gdtxmk@gmail.com 
Nguyễn Đức Thắng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 280 - 289 
 Email: jst@tnu.edu.vn 281 
1. Vài nét về tỉnh Lào Cai 
Lào Cai là một vùng đất cổ, diện mạo địa hình 
được hình thành cách ngày nay 50 đến 60 triệu 
năm. Hơn một vạn năm trước, con người đã có 
mặt tại địa bàn Lào Cai. Tổ tiên người bản địa 
Lào Cai cư trú khá tập trung ở các dải đồi 
ven sông Hồng, sông Chảy, các cửa Ngòi My, 
Ngòi Nhù. Các chủ nhân văn hóa Hòa Bình ở 
Lào Cai đã biết làm nông nghiệp. 
Thời kỳ dựng nước, các vua Hùng đã chia 
nước ta thành 15 bộ, địa bàn Lào Cai thuộc bộ 
Tân Hưng [1, tr. 4]. Thời Âu Lạc thì vùng 
phía Đông và phía Nam Lào Cai thuộc bộ 
lạc Tây Vu, còn một phần đất phía Tây và 
phía Bắc Lào Cai hiện nay thuộc phạm vi của 
các bộ lạc nhỏ hơn không chịu thuần 
phục Lạc Việt. Thời Bắc thuộc nhà Đường, 
vùng đất Lào Cai thuộc châu Đan Đường 
(Cam Đường) và Chu Quý (Văn Bàn). Đến 
thời kỳ phong kiến tự chủ, Lào Cai thuộc 
châu Quy Hóa. Triều Lê thế kỷ XV, đổi lộ 
làm phủ và đổi trấn làm châu, khi đó lộ Quy 
Hóa đổi thành phủ Quang Hóa, huyện Văn 
Bàn, huyện Thủy Vĩ trở thành châu Văn Bàn, 
châu Thủy Vĩ trực thuộc phủ Quang 
Hóa, thừa tuyên Hưng Hóa [2, tr. 487-488]. 
Đến đời nhà Nguyễn, vùng đất Lào Cai chủ 
yếu thuộc đất của châu Thủy Vĩ, châu Văn 
Bàn, một phần thuộc châu Chiêu Tấn và một 
phần nhỏ thuộc châu Lục Yên thuộc phủ Quy 
Hóa, tỉnh Hưng Hóa. 
Từ khi thực dân Pháp đánh chiếm Lào Cai 
(tháng 3-1886) đến năm trước khi quyết định 
thành lập tỉnh dân sự Lào Cai, thực dân Pháp 
coi Lào Cai là một tiểu quân khu thuộc Đạo 
quan binh IV. Ngày 7-1-1899, đạo quan binh IV 
được thành lập bao gồm Tiểu quân khu Yên 
Bái và Tiểu quân khu Lào Cai. Lào Cai là đạo 
lỵ, thủ phủ của đạo quan binh IV [3]. 
Vào những năm đầu thế kỷ XX, khu phố Lão 
Nhai (Phố Cũ) đã được hình thành, tuy diện 
tích còn nhỏ hẹp nhưng khá sầm uất, có thành 
lũy bao bọc. Ngày 5-3-1903, người Pháp cho 
xây dựng chợ Lào Cai, tiếp đó là các kho bãi, 
quảng trường, bệnh viện, nhà thờ. Đến tháng 
5-1904, chính quyền Pháp cho quy hoạch lại 
và mở rộng trung tâm đô thị Lào Cai ra gấp 
15 lần trước đó, phát triển mạnh sang khu vực 
Cốc Lếu, Vĩ Kim và khu Phố Mới. Ngày 12-
7-1907, sau hơn 20 năm chiếm đóng, chia 
tách địa phận Lào Cai nhiều lần thành những 
quân khu, tiểu quân khu và đạo quan binh 
khác nhau, Toàn quyền Đông Dương Paul 
Beau ra sắc lệnh bãi bỏ Đạo quan binh IV, 
chuyển Lào Cai từ chế độ quân quản sang chế 
độ cai trị dân sự, thành lập tỉnh dân sự Lao 
Kay (Lào Cai) và bổ nhiệm Pierre Emmerich 
làm Công sứ tỉnh trưởng đầu tiên. 
Đến cuối những năm 1910, đầu những năm 
1920, trong thành phần tỉnh Lào Cai mới xuất 
hiện các đại lý Mường Khương, Pa Kha (Bắc 
Hà), Bát Xát, Phong Thổ và đặc khu Sa Pa. 
Năm 1944, thực dân Pháp tiến hành cải cách các 
đơn vị hành chính ở Lào Cai. Ngày 9-3-1944, 
Thống sứ Bắc Kỳ ban hành Nghị định bãi bỏ 
châu Thuỷ Vĩ, châu Bảo Thắng, thành lập phủ 
Thuỷ Vĩ, phủ Bảo Thắng và 3 châu Bát Xát, Sa 
Pa, Bắc Hà và khu đô thị Lào Cai. Tỉnh Lào Cai 
có 1 trung tâm đô thị, 2 phủ, 3 châu, 33 xã. 
Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, tình 
hình chính trị - xã hội ở Lào Cai diễn biến 
phức tạp. Dưới danh nghĩa quân Đồng minh, 
quân đội Tưởng Giới Thạch vào miền Bắc 
làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật. Trong 
khi chưa giành được chính quyền cách mạng 
cấp tỉnh thì nhân dân Lào Cai lại phải đối phó 
ngay với quân đội Tưởng Giới Thạch và bè lũ 
Việt Nam Quốc dân đảng phản động. Với chủ 
trương hòa để tiến của Trung ương, trung tuần 
tháng 10-1945, Xứ ủy Bắc Kỳ và Kỳ bộ Việt 
Minh Bắc Kỳ cử một đoàn cán bộ lên Lào 
Cai, với nhiệm vụ tranh thủ lúc Tưởng Giới 
Thạch chưa lập chính quyền tay sai, xúc tiến 
nhanh việc tổ chức chính quyền và các đoàn 
thể quần chúng gây dựng cơ sở cách mạng. 
Tháng 11-1946, Lào Cai được giải phóng 
khỏi ách chiếm đóng của bọn phản động 
Quốc dân đảng, hệ thống chính quyền cách 
mạng được xây dựng. Toàn bộ hệ thống châu, 
phủ bị xoá bỏ, bộ máy chính quyền ở tỉnh, 
huyện, xã được củng cố. Lào Cai có 8 đơn vị 
hành chính cấp huyện thị xã gồm thị xã Lào 
Cai và các huyện Bảo Thắng, Bắc Hà, Mường 
Khương, Bản Lầu, Bát Xát, Sa Pa, Phong 
Thổ. Lào Cai là một tỉnh thuộc khu 10 (từ 
năm 1948 là Liên khu 10). 
Tháng 10-1947, thực dân Pháp tái chiếm Lào 
Cai làm bàn đạp bao vây căn cứ địa Việt Bắc. 
Trong khu vực chiếm đóng, thực dân Pháp áp 
dụng âm mưu “chia để trị”, chia địa bàn Lào 
Cai làm 2 tỉnh. Tỉnh Phong Thổ thuộc “xứ 
Thái tự trị” bao gồm vùng đất bên hữu ngạn 
Nguyễn Đức Thắng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 280 - 289 
 Email: jst@tnu.edu.vn 282 
sông Hồng (Phong Thổ, Sa Pa, Bát Xát, Than 
Uyên...). Tỉnh Mường Khương gồm vùng đất 
bên tả ngạn sông Hồng và huyện Hoàng Su 
Phì (Hà Giang) thuộc “xứ Nùng tự trị”, gồm 
thị xã Lào Cai, các huyện Bản Lầu, Mường 
Khương, Bắc Hà và 2 xã Phong Niên, Xuân 
Quang thuộc huyện Bảo Thắng. 
Cuối năm 1950, lực lượng kháng chiến giải 
phóng Lào Cai, phá tan âm mưu “chia để trị” 
của thực dân Pháp. Địa bàn hành chính cấp 
huyện ở Lào Cai không thay đổi, nhưng địa 
bàn cấp xã được phát triển. Ngày 28-1-1953, 
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 134-SL 
thành lập khu Tây Bắc. Lào Cai cùng với các 
tỉnh Yên Bái, Sơn La, Lai Châu ra nhập khu 
Tây Bắc. Sau hòa bình lập lại, để củng cố 
vùng Tây Bắc thành vùng tự trị, ngày 19-4-
1955, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh số 
230-SL thành lập khu tự trị Thái - Mèo. 
Huyện Phong Thổ của Lào Cai được tách 
khỏi Lào Cai ra nhập khu tự trị Thái Mèo, sau 
này thuộc tỉnh Lai Châu. Tỉnh Lào Cai thuộc 
về liên khu Việt Bắc. 
Sau khi đất nước thống nhất, nhiệm vụ mới 
đòi hỏi phải sắp xếp, tổ chức đơn vị hành 
chính và bộ máy lãnh đạo từ Trung ương tới 
địa phương. Thực hiện Nghị quyết của Trung 
ương và Quốc hội, ngày 1-1-1976, Lào Cai 
hợp nhất với tỉnh Yên Bái, Nghĩa Lộ thành 
tỉnh Hoàng Liên Sơn. 
Thực hiện chủ trương của Đảng tại Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ VII và Nghị quyết 
của kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa VIII, ngày 
30-8-1991 Tỉnh ủy Hoàng Liên Sơn đã ra 
Nghị quyết số 12/NQ-TU về chỉ đạo việc chia 
tách tỉnh Hoàng Liên Sơn thành hai tỉnh Lào 
Cai và Yên Bái. Ngày 1-10-1991, tỉnh Lào 
Cai chính thức tái lập. Vào thời điểm này, 
tỉnh Lào Cai có diện tích tự nhiên 8.044 km2. 
Đơn vị hành chính của tỉnh gồm 8 huyện (Bảo 
Thắng, Văn Bàn, Bảo Yên, Mường Khương, 
Bắc Hà, Sa Pa, Bát Xát, Than Uyên), 2 thị xã 
(Lào Cai, Cam Đường) với 180 xã, phường, 
thị trấn, tỉnh lỵ là thị xã Lào Cai. 
Trước những yêu cầu phát triển kinh tế - xã 
hội và củng cố hệ thống chính trị, theo đề 
nghị của tỉnh Lào Cai, Trung ương đã ban 
hành Nghị định số 36/2000/NĐ-CP ngày 18-
8-2000 về việc tách huyện Bắc Hà thành 2 
huyện Bắc Hà và Si Ma Cai. Đến tháng 1-
2002 lại sáp nhập thị xã Lào Cai và thị xã 
Cam Đường thành thị xã Lào Cai. Tháng 1-
2004, Trung ương quyết định chuyển huyện 
Than Uyên về tỉnh Lai Châu. Tháng 11-2004, 
Chính phủ ra Nghị định công nhận thị xã Lào 
Cai là thành phố Lào Cai (đô thị loại III). 
Trải qua quá trình sáp nhập, chia tách, từ 
tháng 11-2004 đến nay, cơ cấu hành chính 
của Lào Cai gồm 7 huyện (Bảo Thắng, Văn 
Bàn, Bảo Yên, Mường Khương, Bắc Hà, Bát 
Xát, Si Ma Cai), thị xã Sa Pa và thành phố 
Lào Cai với 152 xã, phường, thị trấn với diện 
tích tự nhiên là 6.357 km2. 
Tỉnh Lào Cai có dân số là 674.530 người (số 
liệu năm 2016) với 25 nhóm ngành dân tộc 
cùng chung sống hoà thuận. Mật độ dân số 
bình quân 106 người/km2. Đặc điểm nổi bật là 
dân tộc thiểu số chiếm 64,09% dân số toàn 
tỉnh. Dân tộc Kinh chiếm 35,9%, dân tộc 
Mông chiếm 22,21%, Tày 15,84%, Dao 
14,05%, Giáy 4,7%, Nùng 4,4%, còn lại là 
các dân tộc đặc biệt ít người như Phù Lá, Sán 
Chay, Hà Nhì, La Chí,... Các dân tộc thiểu số 
phân bố, cư trú trên địa bàn 9/9 huyện, thị xã, 
thành phố của tỉnh [4]. Lào Cai nhiều thành 
phần dân tộc nên trở thành tỉnh có sự đa dạng 
về văn hóa. Đặc điểm này đã tạo nên sự đa 
dạng văn hóa, đa sắc thái tộc người. Tính đa 
dạng, phong phú của văn hóa Lào Cai thể 
hiện cả trong lĩnh vực văn hóa vật thể và văn 
hóa phi vật thể. Đây chính là yếu tố đặc thù 
mà ngành Văn hóa – thông tin Lào Cai ngay 
từ khi ra đời đã được thừa hưởng và qua quá 
trình hoạt động đã hình thành những đặc thù 
riêng của tỉnh Lào Cai. 
2. Văn hóa Thông tin Lào Cai trong cuộc 
kháng chiến chống thực dân Pháp (1946-1954) 
2.1. Sự ra đời của Ty Thông tin và hoạt 
động văn hóa thông tin trong cuộc đấu 
tranh giải phóng Lào Cai (1947-1950) 
Ngày 12-11-1946, lực lượng vũ trang cách 
mạng đã đánh đuổi bọn phản động Quốc dân 
Đảng, giải phóng Lào Cai lần thứ nhất. Chính 
quyền cách mạng được thành lập theo chế độ 
quân quản. Sau khi Ủy ban hành chính tỉnh 
được thành lập (4-1947), Ty Thông tin cũng 
chính thức đi vào hoạt động do đồng chí Tiến 
Hồng làm Trưởng ty, Lê Minh làm Phó trưởng 
ty. Trong hoàn cảnh khó khăn phức tạp, lực 
lượng của Ty còn hết sức mỏng, tổ chức còn sơ 
sài. Ngoài đồng chí Tiến Hồng và Lê Minh còn 
có thêm Lê Thế, Nguyễn Trọng Hợp, Mai Xuân 
San, Bùi Bình Bảo, Phạm Văn Tự, Trọng Kiệm, 
Nguyễn Đức Thắng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 280 - 289 
 Email: jst@tnu.edu.vn 283 
Ngô Nguyên Dị, Nguyễn Đức Hợp, Nguyễn 
Văn Thuấn, Vũ Bích. Ngày 28-10-1947, giặc 
Pháp tái chiếm Lào Cai. Bọn thổ ty tham gia 
chính quyền các cấp của ta trở mặt hợp tác với 
Pháp đánh lại ta. Bộ đội và dân quân du kích đã 
tổ chức chống trả quyết liệt nhưng lực lượng ít 
nên phải rút dần khỏi Lào Cai cùng với bộ máy 
chính quyền và số đồng bào trung kiên theo 
cách mạng về đóng tại huyện Lục Yên (Yên 
Bái). Một số cán bộ của tỉnh được điều về 
Trung ương, một số khác lên thay thế. Đồng chí 
Tiến Hồng và Lê Minh cũng được về xuôi. Liên 
khu 10 bổ sung đồng chí Nguyễn Đức Hợp lên 
làm Trưởng ty nhận nhiệm vụ trong khi Ty 
Thông tin đang trên đường hành quân rút về 
Lục Yên. Ngay sau đó, đồng chí Lê Thế được 
điều lên làm Phó trưởng ty. Ty Thông tin thành 
lập Đội Tuyên truyền văn nghệ phục vụ vùng 
địch hậu, đội gồm nhiều học sinh, thanh thiếu 
niên có năng khiếu văn nghệ. Ngay những ngày 
đầu chuẩn bị kháng chiến, Ty Thông tin đã in 
và phát hành hàng vạn bản tin, tờ truyền đơn, 
tranh cổ động cung cấp cho các huyện, thị xã. 
Đội tuyên Truyền văn nghệ có sự tham gia của 
các nhạc sĩ Văn Cao, Lương Ngọc Trác, nhà thơ 
Hoàng Cầmphục vụ ở cửa khẩu và một số 
điểm dân kháng chiến. Nhiều đội viên tham gia 
xây dựng lực lượng, làm vườn không nhà trống, 
hăng hái đi dân công. Nhiều đội viên văn nghệ 
đã trực tiếp tham gia chiến đấu cùng bộ đội ở 
mặt trận Bình Lư, Xuân Giao, tham gia hoạt 
động ở vùng căn cứ địa Cam Đường. Công tác 
thông tin, tuyên truyền lúc này chiếm vị trí hàng 
đầu với khẩu hiệu của Hồ Chủ tịch tại Hội nghị 
văn hóa toàn quốc lần thứ II họp vào tháng 7-
1948 và Hội nghị cán bộ văn hóa lần thứ I vào 
tháng 2-1949: Kháng chiến hóa văn hóa, văn 
hóa hóa kháng chiến, người nghệ sĩ phải tắm 
mình trong dòng sông chảy xiết của cuộc kháng 
chiến, tham gia tích cực vào cuộc kháng chiến, 
cũng phải biết xung phong trong chiến đấu 
chống quân thù, dám hy sinh trong cuộc kháng 
chiến gian lao và anh dũng của dân tộc [5]. 
Đi đôi với công tác xây dựng lực lượng vũ 
trang, tỉnh Lào cai đã tăng cường công tác 
thông tin, tuyên truyền vận động nhân dân các 
dân tộc. Đảng bộ tỉnh đã thành lập được các 
phòng thông tin tại các nơi tập trung đông dân 
như thị xã Lào Cai, Phố Lu, Bắc Hà, Sa Pa, 
Mường Khương. Ở Bảo Thắng đã ra được 
bản tin phổ cập đến các xã, thôn. Đảng bộ đã 
tổ chức được các đội tuyên truyền xung 
phong gồm 26 người đi sâu xuống cơ sở, 
dùng hình thức m ... úng đắn. Với phương châm quân sự với 
chính trị song song, chính trị là căn bản, quân 
sự là áp lực, chú trọng cải thiện đời sống nhân 
dân, đã kết hợp sức mạnh vũ lực của bộ đội 
chính quy với đấu tranh chính trị mềm dẻo tạo 
thành sức mạnh tổng hợp giải quyết triệt để 
vấn đề phỉ. Có được thắng lợi đó, một phần 
quan trọng là do ta đã làm tốt công tác thông 
tin tuyên truyền, phát động được tư tưởng quần 
chúng từ chỗ chịu ảnh hưởng của địch đến chỗ 
tin tưởng cách mạng, quyết tâm đấu tranh 
chống địch. 
2.3. Văn hóa thông tin Lào Cai trong lao 
động sản xuất, xây dựng đời sống mới và 
phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ 1954 
Để triệt để thực hiện chính sách ngu dân, thực 
dân Pháp và hệ thống chính quyền tay sai đã 
ra sức khuyến khích, tuyên truyền những tệ 
nạn xã hội phản văn hóa như mại dâm, cờ 
bạc, rượu cồn, thuốc phiện, bói toánhòng ru 
ngủ đồng bào, ru ngủ lòng yêu nước của nhân 
dân ta tại Lào Cai. Diện tích trồng cây thuốc 
phiện ở Lào Cai tăng nhanh chóng. Năm 
1932, Lào Cai trồng 27,54 ha thuốc phiện, 
năm 1938 trồng 86 ha thuốc phiện, nhưng đến 
năm 1941 tăng vọt lên 2.755 ha. Năm 1932, 
sản lượng thuốc phiện được sơ chế là 1.650 
tấn [11]. Thông qua hệ thống thông tin, tuyên 
truyền, sách báo phản động của kẻ thù len lỏi 
trong nhân dân. Vì vậy, việc đấu tranh chống 
lại chính sách ngu dân của thực dân và tay sai 
ở Lào Cai diễn ra khó khăn và phức tạp. 
Đối với những vùng có thổ ty lớn nắm giữ, 
công tác tuyên truyền vận động nhân dân gặp 
nhiều khó khăn do các thổ ty câu kết với 
Pháp, có thái độ chống đối chính quyền, ngăn 
cản cán bộ ta hoạt động. Khi đi tuyên truyền, 
phải báo trước cho thổ ty biết cán bộ định đi 
đâu, thổ ty cho “dân quân” đi hộ tống, thực 
chất là giám sát hoạt động. Mặc dù gặp phải 
sự chống đối ngấm ngầm nhưng cán bộ tuyên 
truyền đã nhanh chóng đi sâu vào quần 
chúng, tổ chức được các đoàn thể, động viên 
Nguyễn Đức Thắng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 280 - 289 
 Email: jst@tnu.edu.vn 287 
nhân dân hưởng ứng và đẩy mạnh phong trào 
cách mạng ở địa phương, tham gia bình dân 
học vụ, vệ sinh phòng bệnh, giữ gìn trật tự an 
ninh, xây dựng đời sống mới, tổ chức “bù gạo 
kháng chiến”, góp “quỹ nuôi quân”, mua 
công phiếu kháng chiến... 
Về mặt phổ biến khoa học kỹ thuật và cải tạo 
phong tục tập quán xấu, ngành văn hóa bằng 
các phương tiện của mình như đèn chiếu, triển 
lãm, sách báo, các hội múa, thao diễn kỹ thuật, 
thi cấy thi cày đã liên tục phổ cập kỹ thuật 
canh tác mới trong nông nghiệp và một phần 
trong công nghiệp. Đã tiến hành bước đầu việc 
cải tạo phong tục tập quán có kế hoạch ở hai 
huyện Bảo Thắng và Bát Xát rồi mở rộng ra 
các huyện khác. Phong trào làm xe cút kít ở xã 
Quang Kim (Bát Xát) đã lan ra Bản Qua, về cơ 
bản đã giải phóng đôi vai. Phong trào làm phân 
xanh phổ biến rộng rãi ở Bản Lầu (Mường 
Khương), phong trào cải tiến nông cụ ở Bắc 
Hà và các phong trào chăn nuôi, canh tác theo 
kỹ thuật mới xuất hiện ở nhiều nơi. 
Sau đợt thí điểm ở Nậm Lúc và Hợp Thành, 
ngành văn hóa đã cung cấp một tập tài liệu về 
phương pháp và kinh nghiệm cải tạo phong 
tục tập quán ở cơ sở, từ đó đã mở rộng ra một 
số nơi. Bát Xát đã tổ chức đám cưới dân tộc 
theo đời sống mới, Bắc Hà mở rộng được hợp 
tác đoàn kết giữa các gia đình trong việc bán 
lợn, mổ lợn thịt ăn tết. Những hủ tục có hại 
cho sản xuất và đời sống tiếp tục được giảm 
bớt hoặc loại bỏ. Nạn nghiện hút thuốc phiện 
căn bản đã được giải quyết. Một số nơi hiện 
tượng nghiện hút có quay lại ở một số người 
nhưng đã được tích cực giải quyết. Nếp sống 
mới tiến bộ và văn minh, con người mới ngày 
càng phát triển tốt đẹp trong nhân dân các dân 
tộc chứng tỏ đồng bào các dân tộc miền núi 
luôn sẵn lòng tin theo Đảng, vất bỏ cái cũ, lạc 
hậu, tiếp thu cái mới, tiến bộ. 
Đồng thời với công tác tiễu phỉ, vận động lao 
động sản xuất và xây dựng đời sống văn hóa 
mới, ngành Văn hóa thông tin Lào Cai đã 
phát động quần chúng cách mạng đi dân công 
phục vụ bộ đội, đi dân công phục vụ cho 
chiến dịch Điện Biên Phủ. 
Các hình thức tuyên truyền văn nghệ như kẻ 
khẩu hiệu trên áo, trên mũ, trên súng, tổ chức 
văn nghệ trong các giờ nghỉ làm cho khí thế đi 
dân công lên rất cao. Trong hoàn cảnh Lào Cai 
còn rất nhiều khó khăn nhưng năm 1952 đã 
đóng góp trên 20 vạn ngày công làm đường, 
8.871 công người và 10.930 công ngựa phục 
vụ tiễu phỉ ở Lào Cai; 89.215 công người, 
259.311 công ngựa thồ, 2.700 công thuyền, 
511 xe trâu kéo, 615 xe đạp thồ, sữa chữa 38 
km đường Lào Cai đi Sa Pa với 16 cây cầu để 
phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ. Sau thắng 
lợi, Bác Hồ đã gửi thư khen ngợi bộ đội, dân 
công, thanh niên xung phong và đồng bào Tây 
Bắc trong đó có nhân dân Lào Cai “...Bác và 
Chính phủ thân ái gửi lời khen ngợi cán bộ, 
chiến sĩ, dân công, thanh niên xung phong và 
đồng bào địa phương đã làm tròn nhiệm vụ 
một cách vẻ vang” [12, tr. 466]. 
2.4. Bài học về đẩy mạnh công tác tuyên 
truyền, vận động quần chúng trong giai 
đoạn hiện nay 
Những kết quả đạt được của ngành Văn hóa 
thông tin Lào Cai trong cuộc kháng chiến 
chống thực dân Pháp không những góp phần 
làm nên lịch sử vẻ vang của tỉnh nhà mà còn 
để lại những bài học kinh nghiệm, những cách 
làm hay trong công tác tuyên truyền, vận động 
quần chúng của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, 
đặc biệt là vai trò của người đứng đầu ngành 
Văn hóa thông tin trong công tác tuyên 
truyền, vận động quần chúng. Những năm 
kháng chiến chống Pháp, thế hệ những người 
lãnh đạo Ngành đã nhanh chóng, kịp thời nắm 
bắt những chủ trương, chỉ đạo từ cấp trên, 
vượt qua mọi gian khó, hiểm huy để vào tận 
vùng hậu địch, vùng chiến sự để trực tiếp 
tuyên truyền, động viên bộ đội, động viên bà 
con nhân dân. Vì vậy, trong giai đoạn hiện 
nay, các cán bộ của ngành văn hóa thông tin 
từ tỉnh đến thôn, bản phải thường xuyên quán 
triệt đầy đủ quan điểm, đường lối, chủ trương, 
chính sách của Đảng và Nhà nước. Công tác 
tuyên truyền, vận động cần huy động sức 
mạnh toàn dân, đoàn kết, tập hợp mọi lực 
lượng, mọi thành phần dưới ngọn cờ của 
Đảng và Chính phủ. 
Hai là, phát huy vai trò của cán bộ cơ sở. Với 
tư cách là người đại diện cho cả hệ thống 
chính trị, trực tiếp làm việc với người dân nên 
năng lực của đội ngũ này sẽ quyết định sự 
thành bại của công tác vận động và tuyên 
truyền quần chúng. Do phải công tác trên địa 
bàn còn nhiều khó khăn, trở ngại về địa hình, 
điều kiện vật chất và tinh thần nên đòi hỏi 
Nguyễn Đức Thắng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 280 - 289 
 Email: jst@tnu.edu.vn 288 
mỗi cán bộ tuyên truyền luôn phát huy tinh 
thần vượt khó, vượt khổ, thường xuyên bám 
sát cơ sở. Không những vậy, với đặc thù là 
tỉnh miền núi – nơi tập trung của nhiều đồng 
bào dân tộc thiểu số thì việc biết tiếng dân tộc 
(ở mức độ giao tiếp được) trở nên hết sức cần 
thiết đối với mỗi cán bộ văn hóa. Bởi có như 
thế, chúng ta mới có thể dễ dàng thâm nhập 
được vào đời sống của người dân nơi đây, từ 
đó nắm bắt được tâm tư, nguyện vọng của họ 
một cách đầy đủ. Muốn thế, việc tích cực 
tham gia các lớp đào tạo, bồi dưỡng trình độ 
chuyên môn, nghiệp vụ, nắm chắc các chủ 
trương, đường lối, chính sách mới của Đảng 
và Nhà nước về công tác dân tộc miền núi là 
điều hết sức cần thiết đối với mỗi cán bộ văn 
hóa. Bên cạnh đó, cần thường xuyên giao lưu, 
trao đổi chuyên môn với bạn bè đồng nghiệp, 
đúc kết kinh nghiệm thực tiễn, tích cực cập 
nhật các kiến thức mới. 
Ba là, cần linh hoạt sử dụng các hình thức, 
biện pháp tiến hành công tác tuyên truyền. 
Lào Cai là địa bàn sinh sống của cộng đồng 
25 dân tộc anh em, trong đó đồng bào dân tộc 
thiểu số chiếm trên 66,2%, cư trú chủ yếu ở 
vùng đồi núi, điều kiện kinh tế - xã hội còn 
nhiều khó khăn. Vì vậy, trong công tác tuyên 
truyền, vận động, người cán bộ cần phải sử 
dụng linh hoạt các hình thức, phù hợp với đặc 
trưng từng vùng, từng miền. Đối với nhân dân 
ở vùng thấp như thành phố Lào Cai, huyện 
Bảo Thắng, có thể sử dụng hình thức như 
tuyên truyền trực tiếp hoặc thông qua hội họp, 
qua sóng truyền thanh, truyền hình, qua các 
dụng cụ trực quan như panô, áp phích, băng 
rôn, khẩu hiệu... Đối với đồng bào ở vùng cao 
điều kiện kinh tế - xã hội, giao thông đi lại 
còn khó khăn như Sa Pa, Bắc Hà, Si Ma Cai, 
Mường Khương... cần phải sử dụng linh hoạt 
các hình thức khác cho phù hợp. Bên cạnh 
những phương pháp, hình thức như vùng 
thấp, do điều kiện đặc thù nên có thể tuyên 
truyền thông qua những người có uy tín trong 
đồng bào các dân tộc thiểu số (già làng, 
trưởng bản...), hoặc thông qua hệ thống phát 
thanh – truyền hình bằng tiếng dân tộc, xuất 
bản sách báo bằng tiếng dân tộc... Đối với 
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, lấy được 
niềm tin rất quan trọng nên lời nói phải gắn 
với việc làm, chủ trương phải gắn với việc 
giải thích, hướng dẫn cụ thể. Mỗi đối tượng 
tiếp cận, phương thức tuyên truyền phải thích 
hợp, ngắn gọn, rõ ràng, dễ hiểu, dễ nhớ, dễ 
làm theo, đặc biệt là đối với địa bàn vùng cao 
có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số H’mông, 
Dao, Tày, Nùng... sinh sống như Bắc Hà, Si 
Ma Cai, Mường Khương, Văn Bàn, Sa Pa. 
Trong bối cảnh Việt Nam cũng như các nước 
trên thế giới đang phải gồng mình chống lại 
dịch bệnh viêm đường hô hấp cấp do vi rút 
corona (2019-nCoV) gây ra, những bài học 
kinh nghiệm mà ngành Văn hóa thông tin Lào 
Cai thực hiện trong thời kỳ kháng chiến 
chống thực dân Pháp vẫn có ý nghĩa vô cùng 
quan trọng đối với công tác vận động quần 
chúng của ngành Văn hóa thông tin nói riêng, 
tỉnh Lào Cai nói chung. 
3. Kết luận 
Ngành Văn hóa thông tin Lào Cai ra đời cùng 
với sự thành lập chính quyền cánh mạng của 
tỉnh Lào Cai, ngay từ khi mới ra đời đã bắt 
tay ngay vào sự nghiệp kháng chiến chống 
thực dân Pháp. Mặc dù thời kỳ này tổ chức và 
bộ máy còn nhỏ bé nhưng với nhiệt tình cách 
mạng, tinh thần chịu đựng gian khổ và khí thế 
hăng say công tác, những thế hệ đầu tiên của 
ngành đã có đóng góp quan trọng, to lớn vào 
công cuộc kháng chiến kiến quốc, không chỉ 
ở địa phương mà còn cho chiến thắng vĩ đại 
Điện Biên Phủ. Vai trò đó được thể hiện rõ 
nét qua các vấn đề lớn như sau: 
Thứ nhất, đóng góp vào công tác tuyên truyền 
đường lối của Đảng, Chính phủ. Mỗi ngành 
Văn hóa – thông tin của từng tỉnh là “cánh tay 
nối dài”, là đại diện cho tiếng nói của Đảng, 
Chính phủ ở địa phương. Ngành Văn hóa – 
thông tin có vai trò càng quan trọng hơn đối 
với các tỉnh ở biên giới hải đảo. Với Lào Cai, 
ngành Văn hóa – thông tin đã thể hiện vai trò 
hết sức tích cực trong việc đem tiếng nói của 
Đảng, Chính phủ đến với đồng bào các dân 
tộc thiểu số, góp phần quan trọng vào công 
cuộc đấu tranh giải phóng tỉnh, công cuộc tiễu 
phỉ, xây dựng quê hương, ủng hộ cuộc kháng 
chiến chống Pháp của dân tộc ta. 
Thứ hai, động viên nhân dân các dân tộc ở 
Lào Cai tin tưởng theo Đảng, theo cách mạng, 
hết lòng lao động, chiến đấu, xây dựng và bảo 
vệ quê hương, đất nước. Cuộc vận động của 
Đảng, Chính phủ xây dựng hậu phương 
kháng chiến đối với các tỉnh biên giới như 
Lào Cai vô cùng gian nan và thử thách. Để 
đối phó với những hoạt động tuyên truyền, 
Nguyễn Đức Thắng và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 280 - 289 
 Email: jst@tnu.edu.vn 289 
xuyên tạc chính sách của Đảng, Chính phủ ta 
thì ngành Văn hóa – thông tin đã thể hiện rõ 
bản lĩnh, quyết tâm và vai trò to lớn trong 
công tác dân vận. Nhiều tấm gương sáng đã 
xuất hiện và có ảnh hưởng sâu rộng trong 
quần chúng động viên nhân dân hết lòng tin, 
yêu, lao động, chiến đấu, xây dựng và bảo vệ 
quê hương, đất nước. 
Thứ ba, tuyên truyền, vận động nhân dân tích 
cực trong lao động sản xuất, lập hũ gạo nuôi 
quân, ủng hộ bộ đội; bài trừ tệ nạn nghiện hút, 
bỏ cây thuốc phiện, các hủ tục lạc hậu, góp 
phần xây dựng đời sống văn hóa mới văn 
minh, tiến bộ. Tuyên truyền cho đồng bào các 
dân tộc thiểu số tin tưởng vào chính sách của 
Đảng, Chính phủ đã khó nhưng nói sao cho 
họ tin tưởng từ bỏ những hủ tục đã lâu đời 
còn khó hơn. Cuộc chiến chống lại những hủ 
tục, bài trừ thuốc phiện, xây dựng đời sống 
văn hóa mới nhờ các cán bộ “ba cùng” sâu sát 
với dân, am hiểu ngôn ngữ, phong tục tập 
quán đã thu được thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, 
cuộc chiến ấy mới chỉ thắng lợi theo giai đoạn 
mà còn phải đấu tranh lâu dài tới ngày nay. 
Những thành tích đó đã góp phần tô thắm 
thêm truyền thống yêu nước, ý chí kiên cường 
của nhân dân các dân tộc Lào Cai. Nguyên 
nhân dẫn đến thành công, thắng lợi của ngành 
Văn hóa thông tin Lào Cai những năm 1946 - 
1954 là: Quan điểm, đường lối chỉ đạo đúng 
đắn của Đảng trong từng quyết định là kim 
chỉ nam cho hoạt động của ngành; sự vận 
dụng sáng tạo của cấp ủy Đảng, của các đồng 
chí lãnh đạo Văn hóa thông tin Lào Cai qua 
các thời kỳ; sự dũng cảm, hết lòng trong công 
tác trên địa bàn miền núi đầy khó khăn, tài 
năng và tâm huyết của các cán bộ ngành Văn 
hóa thông tin Lào Cai góp phần vào thắng lợi 
chung của tỉnh. Những bài học kinh nghiệm 
tốt vẫn được vận dụng cho ngành Văn hóa 
thông tin Lào Cai trong giai đoạn hiện nay với 
những cơ hội và thách thức mới. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. National History of the Nguyen Dynasty, Kham 
Dinh Viet Su Thong Giam Cuong Muc- Tien 
Bien, Book I, translation of History Institute. 
Education Publishing House, Hanoi, 1998. 
[2]. National History of the Nguyen Dynasty, Kham 
Dinh Viet Su Thong Giam Cuong Muc- Chinh 
Bien, Book XX, translation of History Institute. 
Education Publishing House, Hanoi, 1998. 
[3]. D. D. Nguyen, “Mining activities in Lao Cai 
under the reign of King Gia Long and Minh 
Menh,” TNU - Journal of Science and 
Technology, vol. 167, no. 03, pp. 3-8, 2017. 
[4]. Ethnic and Mountainous Photo Newspaper, 
“Lao Cai a few overview,” April 03, 2017. 
 [Online]. Available: https://dantocmiennui.vn 
/xa-hoi/lao-cai-vai-net-tong-quan/171849.html. 
 [Accessed March 10, 2020]. 
[5]. T. L. T. Nguyen, “Ho Chi Minh Thought 
about the culture of serving people,” TNU - 
Journal of Science and Technology, vol. 163, 
no. 03/1, pp. 223-228, 2017. 
[6]. Lao Cai Provincial Party Executive 
Committee, Lao Cai Provincial Party History 
(1947 - 2007). National Political Publishing 
House, Hanoi, 2010. 
[7]. Lao Cai Administrative Resistance Committee, 
Report on the three-year achievements in 1947-
1949 of the Lao Cai Provincial Resistance and 
Administration Committee, 1950. 
[8]. Ho Chi Minh - Complete volume, volume 7. 
National Political Publishing House - Truth, 2011. 
[9]. Lao Cai Provincial Administration Committee, 
1954 Report, No. 27 / BC-LC, National 
Archives Center Document III, 1954. 
[10]. Military Command of Lao Cai Province, 
Summary of criminal work in Lao Cai 
province 1950-1970. People's Army 
Publishing House, Hanoi, 1999. 
[11]. Government Archives Department, Report of 
Lao Cai Ambassador 1932, 1938, 1941, symbols 
RCT 57052, RST 74420 and 74423, 1941. 
[12]. Ho Chi Minh - Complete volume, volume 8. 
National Political Publishing House - Truth, 2011. 

File đính kèm:

  • pdfvan_hoa_thong_tin_lao_cai_trong_cuoc_khang_chien_chong_thuc.pdf