47936_151636_1_pb_9511_562387_20200904_051142

TÓM TẮT: Trên cơ sở khảo cứu, đúc rút có bổ sung những thành tựu lí luận về thể loại, đặc biệt là lí

luận lỗi lạc của M. Bakhtin và thực tiễn sáng tác, bài viết bước đầu chỉ ra những đặc trưng kết cấu cơ

bản của tiểu thuyết so với các thể loại tự sự ra đời trước nó và thể loại cùng thời với nó là truyện ngắn.

Sự đúc rút này phần nào có giá trị hữu ích đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về thể loại nói

chung, tiểu thuyết nói riêng.

pdf 11 trang yennguyen 3040
Bạn đang xem tài liệu "47936_151636_1_pb_9511_562387_20200904_051142", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: 47936_151636_1_pb_9511_562387_20200904_051142

47936_151636_1_pb_9511_562387_20200904_051142
120 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
TỪ LÍ LUẬN CỦA M. BAKHTIN 
ĐI TÌM KẾT CẤU ĐẶC TRƯNG CỦA TIỂU THUYẾT
Nguyễn Thị Ninh 
Khoa Ngữ văn – Khoa học xã hội 
Email: ninhnt@dhhp.edu.vn
Ngày nhận bài: 07/10/2019
Ngày PB đánh giá:21/10/2019
Ngày duyệt đăng: 25/10/2019
TÓM TẮT: Trên cơ sở khảo cứu, đúc rút có bổ sung những thành tựu lí luận về thể loại, đặc biệt là lí 
luận lỗi lạc của M. Bakhtin và thực tiễn sáng tác, bài viết bước đầu chỉ ra những đặc trưng kết cấu cơ 
bản của tiểu thuyết so với các thể loại tự sự ra đời trước nó và thể loại cùng thời với nó là truyện ngắn. 
Sự đúc rút này phần nào có giá trị hữu ích đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập về thể loại nói 
chung, tiểu thuyết nói riêng.
Từ khóa: M. Bakhtin, kết cấu, kết cấu đặc trưng, tiểu thuyết, thể loại.
FINDING THE TYPICAL STRUCTURE OF NOVELS ACCORDING
TO M. BAKHTIN’S THEORY
ABSTRACT: On the basis of research and inference, supplemented with theoretical achievements of 
genres, especially the outstanding theory of M. Bakhtin and composing practice, the article initially 
points out the basic structural characteristics. of novels compared to the genre of narratives that 
preceded them and their contemporary genre as short stories. This finding is somewhat useful for 
research, teaching and learning about genres in general and novels in particular.
Key words: M. Bakhtin, structure, typical structure, novels, genres.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Đến nay, đã có rất nhiều công trình 
khoa học luận giải về đặc trưng nội dung 
cũng như hình thức của các thể loại văn 
học như thơ, kịch, tiểu thuyết, truyện 
ngắn nhưng chưa có công trình nào 
xây dựng hệ thống lý thuyết về đặc trưng 
kết cấu của các thể loại này. Đây là việc 
hết sức khó khăn vì kết cấu có nội hàm 
vô cùng rộng lớn. Nó vừa hữu hình, vừa 
vô hình trừu tượng, vừa có thể hình dung, 
vừa rất khó hình dung. Nó vừa tồn tại 
trên cấp độ tổng thể, vừa thẩm thấu vào 
từng yếu tố cụ thể. Tìm ra khuôn dạng có 
tính công thức bao quát cho kết cấu đặc 
trưng của tiểu thuyết lại càng là một việc 
làm bất khả dĩ vì “tiểu thuyết là thể loại 
văn chương duy nhất đang biến chuyển 
và còn chưa định hình. Nòng cốt thể loại 
của tiểu thuyết chưa hề rắn lại và chúng 
ta chưa thể dự đoán hết khả năng uyển 
chuyển của nó” [1; 21]. Điều này gây 
không ít khó khăn cho nghiên cứu, giảng 
dạy và học tập chuyên sâu về thể loại. Với 
121TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
mong muốn phần nào tháo gỡ những khó 
khăn, bài viết bước đầu chỉ ra một cách 
có hệ thống những đặc trưng kết cấu cơ 
bản của tiểu thuyết trên cơ sở khái quát 
có bổ sung thành quả lí luận của những 
người đi trước kết hợp với thực tiễn sáng 
tác xưa nay.
2. NỘI DUNG
Cùng với sự ra đời và thay thế lẫn nhau 
của nhiều dạng thức tiểu thuyết khác nhau 
trong lịch sử là sự xuất hiện của một khối 
lượng công trình khổng lồ về lí luận thể 
loại. Một trong những chủ nhân của nhiều 
công trình lí luận xuất sắc, có ảnh hưởng 
lớn trong giới học thuật và sáng tác là M. 
Bakhtin (1895 - 1975). Đến nay, hầu như 
chưa có công trình khoa học nào vượt xa 
hơn những thành tựu mà ông đã đúc kết 
về thể loại tiểu thuyết. Ông nhận thấy, với 
các thể loại văn học khác, lí luận văn học 
“hoạt động một cách tự tin và chính xác”, 
còn đối với tiểu thuyết, lí luận ấy “bộc lộ 
một sự bất lực hoàn toàn” [1; 28]. Tuy 
nhiên, trong khi xây dựng lí luận về thi 
pháp tiểu thuyết, ông vẫn “cố gắng tìm ra 
những đặc điểm cấu trúc cơ bản nhất của 
cái thể loại mềm mại nhất này, những quy 
định cả phương hướng biến đổi của chính 
bản thân nó đến toàn bộ văn học” [1; 32]. 
Trong khi đưa ra những đặc trưng cấu trúc 
của tiểu thuyết, M. Bakhtin đã có ý phân 
biệt tiểu thuyết với tất cả các thể loại văn 
học khác (trong đó có truyện ngắn). Tuy 
nhiên, trong các công trình của mình, ông 
chủ yếu đối sánh, nhấn mạnh sự khác biệt 
về cấu trúc của tiểu thuyết so với sử thi và 
các thể loại cao thượng khác - nói chung 
là các thể loại tự sự ra đời trước nó. Sự 
khác nhau giữa đặc trưng cấu trúc của tiểu 
thuyết so với truyện ngắn - thể loại tự sự 
gần gần gũi nhất với tiểu thuyết chưa được 
M. Bakhtin minh giải cụ thể. Hơn nữa, 
những đặc trưng cấu trúc của tiểu thuyết 
mà ông đúc kết, ở mức độ nhất định, cũng 
có ở truyện ngắn. Truyện vừa hiện đại 
cũng rất gần với tiểu thuyết nhưng ranh 
giới giữa hai thể loại này nhiều khi không 
rõ ràng. Đặc trưng kết cấu của tiểu thuyết 
còn được chỉ ra qua những nhận định khái 
quát hoặc được gián tiếp làm rõ qua các 
hình thức luận giải phong phú, sinh động 
từ thực tiễn sáng tác những đặc trưng về tổ 
chức cốt truyện, xây dựng nhân vật, sáng 
tạo hình tượng, tổ chức điểm nhìn, giọng 
điệu, không - thời gian trong nhiều công 
trình khoa học. Tuy nhiên, qua đó, những 
đặc trưng kết cấu có tính khu biệt về thể 
loại vẫn còn là vấn đề mơ hồ, chưa được 
làm sáng tỏ. 
Để bước đầu chỉ ra những đặc trưng 
kết cấu cơ bản nhất của tiểu thuyết, chúng 
tôi tiến hành hai việc:
- Căn cứ chủ yếu vào lí luận của M. 
Bakhtin trong công trình Lý luận và thi 
pháp tiểu thuyết do Phạm Vĩnh Cư chọn 
dịch và giới thiệu, kết hợp thêm lí luận của 
một số học giả khác và thực tiễn sáng tác 
để chỉ ra những đặc trưng kết cấu cơ bản 
nhất của tiểu thuyết so với các thể loại tự 
sự ra đời trước nó.
- Kết hợp thành tựu lí luận văn học và 
thực tiễn sáng tác xưa nay để làm rõ hơn 
đặc trưng kết cấu của tiểu thuyết so với 
truyện ngắn. 
2.1. Kết cấu đặc trưng của tiểu thuyết so 
với các thể loại tự sự ra đời trước nó
Theo M. Bakhtin, mọi đặc trưng kết 
cấu của tiểu thuyết đều có chung điểm 
xuất phát: Tiểu thuyết là thể loại còn non 
trẻ và chưa hoàn thành, vẫn đang biến 
chuyển trong khi sử thi và một số thể loại 
khác trong văn học thành văn thời cổ đại 
122 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
và trung đại có hình thức đã hoàn bị, thậm 
chí đã già nua từ lâu. Chúng có nòng cốt 
rắn chắc với những công thức, luật lệ mang 
tính quy phạm. Chúng cao tuổi hơn chữ 
viết và đến nay vẫn ít nhiều giữ được bản 
chất “truyền khẩu”. So với các thể loại này, 
tiểu thuyết là “một sinh linh thuộc giống 
nòi khác”. Nó trẻ hơn chữ viết và được 
nảy sinh, nuôi dưỡng bởi thời đại mới 
của lịch sử loài người. Tiểu thuyết thích 
ứng với hình thức tiếp thụ im lặng. Muốn 
hiểu tiểu thuyết, người ta phải đọc và suy 
ngẫm, phải giải mã kết cấu của nó cả trong 
tổng thể lẫn từng mắt xích. Cũng không có 
tiểu thuyết nói chung với công thức luật 
lệ cố định mà chỉ có những dạng thức tiểu 
thuyết khác nhau trong quá trình lịch sử. Vì 
vậy, “Nghiên cứu các thể loại khác tựa hồ 
nghiên cứu những từ ngữ, nghiên cứu tiểu 
thuyết giống như nghiên cứu những sinh 
ngữ, mà lại sinh ngữ trẻ” [1; 22]. 
2.1.1. Tiểu thuyết xây dựng hình tượng ở 
tọa độ không gian, thời gian đang tiếp diễn 
 Trong khi cố gắng đưa ra những đặc 
trưng cấu trúc của tiểu thuyết, Bakhtin đã 
phân biệt tiểu thuyết với sử thi cổ đại ở 
nét tiêu biểu: sử thi thể hiện quá khứ anh 
hùng dân tộc mà cơ sở là kí ức của cộng 
đồng truyền thống, còn tiểu thuyết miêu 
tả cuộc sống “hiện tại” không ngừng biến 
đổi, sinh thành trên cơ sở kinh nghiệm 
cá nhân. Đặc điểm cấu trúc của sử thi là 
tạo ra một một khoảng cách không thể 
vượt qua giữa người kể sử thi với nhân 
vật trong sử thi gọi là “khoảng cách sử 
thi”. Đó trước hết là khoảng cách thời 
gian xa vời vợi giữa thế giới của sử thi 
và thế giới của người kể, người nghe sử 
thi. Đó còn là khoảng cách giá trị, khoảng 
cách tôn ti, trật tự. Đối tượng, nội dung 
và tọa độ xây dựng hình tượng của sử thi 
là quá khứ dân tộc anh hùng - quá khứ 
của cha ông - những người “thứ nhất” và 
“ưu tú nhất”. Quá khứ ấy thuộc đẳng cấp 
giá trị cao nhất và hoàn hảo nhất. Đó là 
quá khứ đã hoàn kết, xong xuôi và mang 
tính khép kín. Trong khi đó, cả tác giả 
lẫn độc giả của sử thi lại thuộc một thời 
đại khác, một đẳng cấp giá trị khác. Đó 
là thế giới của con cháu, của “hậu bối”, 
đang dở dang, thế giới “hạ đẳng”, đầy 
rẫy những chuyện nhem nhuốc, phù vân. 
Người kể sử thi bao giờ cũng đứng từ xa 
mà chiêm bái, thành kính hoặc tôn sùng 
đối với quá khứ anh hùng. Điểm nhìn duy 
nhất trong sử thi là điểm nhìn của cả cộng 
đồng thế hệ sau ngưỡng vọng về thế hệ 
trước. Năng lực và sức mạnh sáng tạo của 
sử thi là kí ức chứ không phải nhận thức, 
phân tích, giải thích; là kinh nghiệm của 
cộng đồng chứ không phải kinh nghiệm 
cá nhân. Người đọc không chỉ có thể tìm 
thấy những đặc trưng này ở các thể loại 
cao thượng khác của thời cổ đại và trung 
đại mà còn có thể tìm thấy ngay cả trong 
những tác phẩm hiện đại mang khuynh 
hướng sử thi. Đó cũng là nguyên nhân 
khiến kết cấu của sử thi trở nên xơ cứng, 
khép kín với khuôn hình nòng cốt rắn 
chắc, đơn điệu, khiên cưỡng, ước lệ và ít 
uyển chuyển. 
Tiểu thuyết trái lại, đã xoá bỏ “khoảng 
cách sử thi” để xây dựng hình tượng ở 
tọa độ không - thời gian đang diễn biến. 
Điều này kéo theo sự thay đổi toàn diện 
trong cấu trúc của tiểu thuyết so với sử 
thi và các thể loại cao thượng khác thời 
cổ đại, trung đại, cả những tác phẩm hiện 
đại mang khuynh hướng sử thi: Thứ nhất, 
hình tượng trong tiểu thuyết mất đi tính 
hoàn tất, bất biến trong sử thi và luôn đổi 
mới, bổ sung cùng quá trình đổi mới ngữ 
123TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
cảnh. Thứ hai, khác với sử thi, truyện kể 
cổ đại và trung đại chủ yếu sử dụng người 
kể toàn tri, một giọng với thái độ thành 
kính, tiểu thuyết cho phép người trần 
thuật dùng kinh nghiệm cá nhân để đánh 
giá hiện tượng từ nhiều chiều, nhiều điểm 
nhìn, đa chủ thể, đa giọng điệu với thái độ 
thân mật, thậm chí bỗ bã, suồng sã. Bởi lẽ, 
tiểu thuyết hấp thu và miêu tả mọi sự việc 
của cái thực tại cùng thời đang sinh thành 
và phát triển trên cùng một cấp độ giá trị 
- thời gian với bản thân mình. Đối tượng 
của tiểu thuyết là con người của hiện tại, 
con người ngang hàng, bình đẳng như 
bạn bè, hàng xóm hoặc cùng sống trong 
một thành phố, làng quê. Truyện kí cũng 
sử dụng kinh nghiệm nhưng đó là kinh 
nghiệm, cách nhìn duy nhất của người viết 
truyện ký. Thứ ba, vấn đề mở đầu và kết 
thúc, vấn đề tính trọn vẹn của tiểu thuyết 
cũng được đặt ra theo cách mới. Quá khứ 
trong sử thi hoàn tất và khép kín cả trong 
tổng thể cũng như ở từng bộ phận nên sử 
thi có thể bắt đầu hay kết thúc câu chuyện 
ở bất cứ điểm nào. Ngược lại, tiểu thuyết 
tiếp xúc gần gũi với cuộc sống đương đại 
đang tiếp diễn nên đặc biệt quan tâm đến 
kết cục sẽ ra sao? cái gì xảy ra sau đó? Nó 
có thể dẫn dắt người đọc vào thế giới kỳ 
thú của những điều chưa biết do cốt truyện 
gây ra. Bố cục của tiểu thuyết cũng vì thế 
mà đa dạng, bất tuân theo quy tắc. 
Đó là nguyên nhân, cũng là sức mạnh 
khiến kết cấu tiểu thuyết có độ mở, độ 
lỏng lớn, hết sức tự do và thường xuyên 
biến đổi. Nó mềm mại, uyển chuyển với 
khả năng biến thiên khó đoán định, khác 
với khuôn hình nòng cốt rắn chắc của sử 
thi và các thể loại cao thượng khác. Tiểu 
thuyết không để cho bất cứ dạng thức nào 
của nó được ổn định nên bất cứ hình thức 
kết cấu nào của nó cũng chỉ là những thể 
nghiệm còn dang dở. 
2.1.2. Sự không trùng khít giữa các mặt 
khác nhau của hình tượng con người 
trong tiểu thuyết
M. Bakhtin cho rằng, “sự thay đổi định 
hướng trong thời gian và thay đổi khu vực 
xây dựng hình tượng không bộc lộ ở đâu 
sâu sắc và cơ bản bằng ở việc xây dựng 
lại hình tượng con người trong văn học” 
[1; 67]. Trong sử thi và các thể loại cao 
thượng khác, nhân vật được khắc họa theo 
nguyên tắc nguyên phiến, nhất tuyến và 
kì vĩ. Con người ấy có sự trùng khít tuyệt 
đối giữa phẩm chất và địa vị, bên trong 
và bên ngoài, lời nói và hành động. Hơn 
nữa, mọi khả năng và tiềm năng của nó 
đều được thể hiện đến cùng ở địa vị xã hội 
bề ngoài, ở số phận, thậm chí ngay ngoại 
hình của nó. Con người có địa vị như thế 
nào thì hành động như thế ấy, phù hợp với 
cương vị của mình. Suy nghĩ của nhân vật 
rất thuận chiều, đơn giản, không hề bị rơi 
vào trạng thái dằn vặt hay đấu tranh nội 
tâm. Nhân vật cũng không có quyền chủ 
động về tư tưởng và ngôn ngữ. Nó chỉ biết 
đến một thế giới quan và một thứ ngôn 
ngữ thống nhất, có sẵn, bắt buộc và không 
thể hồ nghi. Cả thế giới quan lẫn ngôn 
ngữ đều không thể trở thành những nhân 
tố cá thể hóa, phân biệt và cấu thành hình 
tượng con người. Quan niệm của nhân 
vật về mình hoàn toàn trùng hợp với quan 
niệm của những người khác về nó. Những 
đặc điểm này tạo ra vẻ đẹp vô song, tính 
thuần toàn, nguyên khối, trong suốt như 
pha lê và tính hoàn chỉnh nghệ thuật ở 
chính hình tượng con người ấy. Nhưng 
đồng thời, chúng cũng đẻ ra tính hạn hẹp, 
đơn điệu, thiếu sức trong những điều kiện 
sinh tồn mới của loài người. Đây cũng là 
124 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
những đặc điểm cấu trúc hình tượng phổ 
biến trong thần thoại và bi kịch.
Trái lại, hình tượng trong tiểu thuyết 
được xây dựng dựa trên sự vênh lệch 
giữa số phận với địa vị và tính người, bên 
ngoài và bên trong, lời nói và hành động, 
khả năng và thực tế thực hiện khả năng, 
cảm xúc và suy nghĩ. Nhân vật tiểu thuyết 
thống nhất trong bản thân nó những đối 
cực: nhân tính và phi nhân, đạo lí và thất 
đức, bản ngã và phi ngã, ý thức và vô thức, 
cao cả và tầm thường Một người có địa 
vị cao nhưng có thể hành vi lại hèn hạ, 
một người có địa vị thấp lại có thể hành 
động rất cao thượng. Chẳng hạn, Phó giáo 
chủ Nhà thờ Claude Frollo là một trí thức 
Thiên Chúa giáo có địa vị đáng kính với 
vẻ bề ngoài hào hoa phong nhã nhưng tâm 
hồn xấu xa với dục vọng đê hèn, hành 
động đáng khinh bỉ. Quasimodo có thân 
phận thấp kém với vẻ bề ngoài xấu xí, dị 
dạng nhưng đầy lòng tự trọng, tâm hồn 
cao thượng, hành động phi thường (Nhà 
thờ Đức Bà Pari - V. Huygô). Sự tự nhận 
thức của nhân vật về mình và của người 
khác về nó cũng thường không đồng nhất. 
Đây là “chất văn xuôi” tiêu biểu làm cho 
tiểu thuyết khác với truyện thơ, thơ trường 
thiên và sử thi. Nghĩa là, tiểu thuyết tái 
hiện cuộc sống với những chi tiết giống 
như thật, không thi vị hoá, lí tưởng hoá. 
Nhân vật của sử thi, bi kịch chỉ có một 
bộ mặt duy nhất gắn với số phận, địa vị 
của mình và chủ đề do số phận ấy quyết 
định. Nhân vật tiểu thuyết có thể hành 
động trong mọi thân phận, có mặt trong 
mọi tình huống mà không bao giờ có thể 
hóa thân đến cùng vào cái thân xác xã 
hội - lịch sử hiện hữu. Ở nó, bao giờ cũng 
tiềm tàng những khả năng chưa thành hiện 
thực và những đòi hỏi chưa được đáp ứng. 
Nhân vật tiểu thuyết có khả năng thích 
nghi nhanh với tiến trình cuộc sống luôn 
luôn biến đổi và thường xuyên xuất hiện 
trong những hình hài mới. Cốt truyện tiểu 
thuyết cũng vì thế không khai thác đến cạn 
kiệt con người như sử thi mà được cấu tạo 
hết sức tự do, là những cốt truyện - thử 
nghiệm đầy khiêu khích.
Nhân vật trong sử thi, bi kịch, truyện 
trung đại thường là nhân vật hành động, nêu 
gương đạo đức. Nhân vật trong tiểu thuyết 
cũng hành động nhưng không theo chuẩn 
mực chung của xã hội mà theo kinh nghiệm 
riêng của cá nhân mình nên thường xuyên 
va vấp, suy tư, “nếm trải”. Trong kịch cũng 
có những “nhân vật nếm trả ... nh 
một nhân tố hết sức cơ bản của phong 
cách văn xuôi và được gia công nghệ thuật 
một cách đặc thù. Nhà tiểu thuyết không 
chỉ tách mình khỏi ngôn ngữ của tác phẩm 
mình mà còn luôn có xu hướng lưỡng hóa 
bản thân để trao đổi, đối thoại. Các ngôn 
ngữ khác nhau bao gồm những ngôn ngữ 
xã hội khác nhau hoặc những tiếng nói cá 
nhân khác nhau được du nhập và tổ chức 
lại một cách nghệ thuật bằng những hình 
thức phong phú khác nhau trong những 
dạng thức tiểu thuyết khác nhau. 
Tiểu thuyết cũng là thể loại có khả 
năng tổng hợp nhiều nhất khả năng nghệ 
thuật của các thể loại văn học và du nhập 
vào kết cấu của mình cả các thể loại ngoài 
văn học. Sự định hướng mới về thời gian, 
khu vực tiếp xúc với đời sống đương đại 
và ngôn ngữ có tính đa thanh, phức điệu 
không chỉ tạo cho nội dung của tiểu thuyết 
một chiều sâu không đáy mà còn tạo ra 
một quan hệ đặc biệt giữa tiểu thuyết với 
các thể loại nghệ thuật hoặc phi nghệ 
thuật. Hơn nữa, những thể loại được du 
nhập vào tiểu thuyết vẫn thường giữ được 
tính co giãn về kết cấu và đem vào tiểu 
thuyết ngôn ngữ của mình làm phân hóa 
sự thống nhất ngôn ngữ tiểu thuyết và 
tạo chiều sâu mới cho tính phức âm trong 
ngôn ngữ tiểu thuyết. Ngay ở giai đoạn 
phát sinh, hình thành, tiểu thuyết đã dựa 
vào nhiều hình thái phi nghệ thuật trong 
sinh hoạt cá nhân và xã hội, đặc biệt là các 
thể văn chính luận, hùng biện. Ở các thời 
đại phát triển sau này, tiểu thuyết sử dụng 
rộng rãi và lắp ghép vào trong nó các hình 
thức thư từ, nhật kí, lời tự thú Nhóm 
thể loại này đóng vai trò kết cấu tối quan 
trọng trong tiểu thuyết và đôi khi trực tiếp 
quyết định cả cấu trúc chỉnh thể của tiểu 
thuyết, tạo ra những dạng thức tiểu thuyết 
đặc biệt. Chúng không chỉ có thể được 
đưa vào tiểu thuyết như một bộ phận cấu 
trúc quan trọng, mà còn có thể quy định 
cả hình thức tiểu thuyết như một chỉnh thể 
(tiểu thuyết tự bạch, tiểu thuyết nhật ký, 
tiểu thuyết bằng thư, thậm chí đưa thơ vào 
tiểu thuyết như một dấu hiệu cấu thành 
thể loại). Chẳng hạn tiểu thuyết sử thi - 
tâm lí của L. Tolstoi (Chiến tranh và Hòa 
bình), tiểu thuyết - kịch của M. Proust (Đi 
tìm thời gian đã mất), tiểu thuyết thế sự - 
trữ tình của M. Gorki (Thời thơ ấu, Kiếm 
sống), tiểu thuyết huyền thoại của G. 
Márquez Mới đây ở Việt Nam là các tác 
phẩm Chuyện của thiên tài (Nguyễn Thế 
Hoàng Linh), Pari 11/8 (Thuận) 
Trên đây là những đặc trưng kết cấu 
cơ bản khiến cho hình thức của tiểu thuyết 
khác biệt hoàn toàn về nguyên tắc không 
chỉ so với các thể loại thơ ca, sử thi, bi 
kịch  - nói chung là các thể loại tự sự 
ra đời trước nó trong quá trình dần dần 
chuyển hóa thành tiểu thuyết, mà cả các 
thể loại đang tồn tại cùng thời với nó. 
Điểm nổi bật nhất của kết cấu tiểu thuyết 
so với các thể loại này là tính năng động, 
mềm mại và uyển chuyển. Về mặt nào đó, 
127TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
ngoại trừ sử thi, bi kịch là hai thể loại đã 
“cốt hóa” từ lâu với bộ khung kết cấu bất 
di bất dịch, còn các thể loại khác ở thời 
hiện đại vẫn đang hình thành và chưa 
xong xuôi, tuy nhiên, ở tiểu thuyết, các 
khả năng tổng hợp và năng động lớn hơn. 
Những đặc điểm kết cấu này là hệ quả của 
tư duy tiểu thuyết xem thế giới như những 
gì đang trôi chảy không ngừng, phức tạp 
và đầy rẫy những điều phi lí, đối lập với tư 
duy một chiều của sử thi cố gắng sắp xếp 
những cái bề bộn, phức tạp của cuộc sống 
thành những cái tất yếu, gọn gàng, ổn 
định, dễ hiểu và hợp quy luật. Tất nhiên, 
những đặc điểm này được biểu hiện một 
cách khác nhau trong từng biến tướng thể 
loại khác nhau.
2.2. Kết cấu đặc trưng của tiểu thuyết so 
với truyện ngắn
Xét về nguồn cội, cả tiểu thuyết và 
truyện ngắn đều thuộc cùng một loại hình 
văn học là truyện. Trải qua nhiều giai đoạn 
lịch sử khác nhau với những tên gọi khác 
nhau và phạm vi nội hàm khác nhau, khái 
niệm tiểu thuyết hiện đại được sử dụng 
như ngày nay mới ra đời. Ở Trung Quốc, 
đến cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX mới có 
khái niệm tiểu thuyết hiện đại, gọi là tiểu 
thuyết trường thiên, tiểu thuyết trung thiên, 
tiểu thuyết đoản thiên. Sau đó chúng được 
truyền vào Việt Nam và được dịch: đoản 
thiên tiểu thuyết là truyện ngắn, trường 
thiên tiểu thuyết là truyện dài, trung thiên 
tiểu thuyết là truyện vừa. Ở phương Tây, 
người Anh dùng từ “story” chỉ truyện 
ngắn, “novel” chỉ các tiểu thuyết mới lạ, 
tân kì, tiểu thuyết trường thiên. Người 
Pháp gọi tiểu thuyết là “roman”, nhấn 
mạnh tính chất li kì. Người Mĩ gọi tiểu 
thuyết là “fiction”, nhấn mạnh tới tính chất 
tưởng tượng, hư cấu của câu chuyện. Ở 
Việt Nam, đến đầu thế kỉ XX người ta mới 
sử dụng thuật ngữ “tiểu thuyết” như Trung 
Quốc nhưng đồng thời vẫn sử dụng thuật 
ngữ truyện. Truyện dài, truyện vừa, truyện 
ngắn hoàn toàn đồng nghĩa với các thuật 
ngữ trường thiên tiểu thuyết, trung thiên 
tiểu thuyết, đoản thiên tiểu thuyết. Tuy 
vậy, thuật ngữ “truyện” có cội nguồn sử 
học và phát triển từ thời trung đại. Thuật 
ngữ “tiểu thuyết” tuy mượn từ Trung Quốc 
nhưng mang nội hàm hiện đại của thể loại 
văn học châu Âu. Trong tiếng Việt hiện 
đại, người ta dùng thuật ngữ “tiểu thuyết” 
để chỉ tác phẩm truyện có qui mô lớn, 
còn quy mô nhỏ và vừa vẫn gọi là truyện. 
Truyện ngắn được hiểu “là hình thức tự sự 
cỡ nhỏ, chủ yếu phát triển trong khoảng 
150 năm gần đây” [4; 315]. Lịch sử của 
truyện ngắn cũng trải qua nhiều giai đoạn. 
Truyện ngắn trung đại rất gần với truyện 
vừa, khác hẳn truyện ngắn hiện đại.
 Ở đây, chúng tôi đối sánh đặc trưng 
kết cấu của tiểu thuyết so với truyện ngắn 
hiểu theo khái niệm hiện đại về chúng.
Như trên đã phân tích, mọi đặc trưng 
kết cấu của tiểu thuyết đều bắt nguồn từ 
khu vực tiếp xúc tối đa của nó với đời sống 
đương đại đang tiếp diễn. Nhưng truyện 
ngắn gần với tiểu thuyết hơn cả cũng bởi 
nội dung phản ánh cuộc sống đương đại. 
Truyện ngắn cũng là một thể loại năng 
động và có tính thời sự. Gắn với cái “hôm 
nay” thường xuyên biến đổi, truyện ngắn 
cũng ít bị ràng buộc bởi những quy tắc, 
luật lệ đã định hình. Khuôn khổ của truyện 
ngắn vẫn thường xuyên vỡ ra để xác lập 
sự tồn tại mới. Nội dung của truyện ngắn 
có thể rất khác nhau: đời tư, thế sự, hay 
sử thi nhưng cái độc đáo của nó là ngắn. 
Tuy vậy, truyện ngắn không phải là tiểu 
thuyết ngắn hay một “truyện dài” thu nhỏ. 
128 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
Truyện ngắn có hình thức và cách cấu tạo 
đặc biệt riêng khác hẳn với tiểu thuyết. 
Chúng là hai thể loại khác nhau, có kết cấu 
khác nhau. Tuy nhiên, để giải quyết triệt để 
vấn đề này phải có một công trình dài hơi 
chuyên biệt. Chúng tôi chỉ nhấn mạnh đến 
vài điểm khái quát nhất nhằm làm rõ hơn 
đặc trưng kết cấu của tiểu thuyết. Hơn nữa, 
đó chỉ là những điểm cơ bản, thường thấy 
trong tiểu thuyết và truyện ngắn nói chung 
trên cái nhìn đại cục, chưa tính đến những 
trường hợp ngoại lệ. Cũng có thể nói, đó là 
những điểm thường thấy trong mô thức tự 
sự truyền thống và các sáng tác thời kỳ tiền 
hiện đại. Ngày nay, sự phát triển của hai 
thể loại này đã và đang tiến đến sự xâm lấn 
lãnh thổ của nhau, sự phân biệt chúng trở 
nên khó khăn hơn, nhất là về phương diện 
kết cấu. Sau đây là những điểm cơ bản:
1) Cùng hướng đến phản ánh cuộc sống 
đương đại nhưng với khuôn khổ rộng lớn, 
tiểu thuyết có thể tổ chức kết cấu đơn tuyến 
hay đa tuyến (như Chiến tranh và Hòa bình 
của L. Tolstoi), đơn giản hay phức tạp, 
nhiều nhân vật, nhiều sự kiện (như Giông 
tố của Vũ Trọng Phụng) Trong vòng 
mấy chục trang hay vài nghìn từ trở xuống, 
truyện ngắn chủ yếu xây dựng kết cấu xoay 
quanh một sự kiện, một tình huống được 
coi là cơ bản nhất (như sự kiện anh phu xe 
- ngựa người bắt được món khách “hời” là 
ả gái điếm - người ngựa vào đêm 30 Tết 
trong Ngựa người, người ngựa của Nguyễn 
Công Hoan). Nhiệm vụ cốt yếu của người 
viết truyện ngắn là phải tính toán, tổ chức 
các yếu tố làm sao để sức gợi từ kết cấu 
tác phẩm toát lên một cách độc đáo nhất, đi 
vào lòng người nhất. 
2) Cùng có khả năng chuyển tải các vấn 
đề của thời đại một cách nhanh nhạy, tinh 
tế, nhưng ở tiểu thuyết, hiện thực thường 
được mở ra qua chiều rộng của không gian 
cũng như chiều dài của thời gian. Một tác 
phẩm tiểu thuyết có thể bao quát hiện thực 
trong nhiều khoảng không gian và thời gian 
khác nhau (như Tây du ký của Ngô Thừa 
Ân) nên kết cấu của nó thường phức tạp. 
Ngược lại, truyện ngắn chỉ thể hiện cuộc 
đời và số phận con người qua những lát cắt 
ngắn ngủi. Không gian trong truyện ngắn 
thường chỉ thu hẹp trong một quán rượu, 
một làng quê, một khu vườn, một gia đình 
nào đó (như không gian phố huyện nghèo 
trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam). Thời 
gian trong truyện ngắn thường là khoảng 
thời gian tiêu biểu nhất được nhà văn lựa 
chọn, kéo căng và thể hiện (như năm ngày 
cuối cùng trong cuộc đời Chí Phèo trong 
tác phẩm Chí Phèo của Nam Cao). Trong 
không gian và thời gian rộng lớn, một tác 
phẩm tiểu thuyết có thể cùng lúc giải quyết 
trọn vẹn nhiều vấn đề, nhưng với giới hạn 
về dung lượng, truyện ngắn không thể đặt ra 
và giải quyết cùng lúc nhiều vấn đề. Người 
viết truyện ngắn thường chỉ chọn một vấn 
đề và tổ chức kết cấu làm sao để vấn đề ấy 
được hiện lên một cách nổi bật nhất, sâu 
sắc nhất (như bi kịch của người trí thức có 
ước mơ cao xa nhưng bị cuộc sống áo cơm 
ghì sát đất trong Đời thừa của Nam Cao). 
Vì vậy, kết cấu của truyện ngắn thường có 
độ nén và độ tinh xảo cao, nhỏ gọn mà có 
sức chứa lớn. Xét riêng từng trường hợp thì 
không phải lúc nào cũng có sự khác biệt 
này. Nhất là trong sáng tác hiện đại, hậu 
hiện đại, nhiều tiểu thuyết đã đi xa khỏi 
điểm nhận dạng này như một minh chứng 
cho khả năng biến thiên không ngừng của 
thể loại. Chẳng hạn trong tác phẩm Lâu đài 
của F. Kafka, không gian chỉ bó hẹp từ mấy 
quán rượu trong làng đến tòa lâu đài, thời 
gian cũng chỉ có mấy ngày. Trong tác phẩm 
Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, 
129TẠP CHÍ KHOA HỌC, Số 39, tháng 3 năm 2020
không gian chỉ quanh quẩn trong một xóm 
Soi với bãi Nghiền Sàng gần bờ sông Linh 
Nham, thời gian chỉ dồn trong 12 tiếng 
Ngược lại, một số truyện ngắn như Số phận 
một con người của M. Cholokhov, Phiên 
chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Bước 
qua lời nguyền của Tạ Duy Anh không 
tái hiện cuộc sống qua những khoảnh khắc 
mà suốt cả chiều dài của đời người, kiếp 
người, “không nấp “trong khe hẹp nhìn ra” 
mà là những cái nhìn trực diện và toàn cục” 
[3; 27]. Dù vậy, xét trên tổng thể thì độ 
“rộng” của tiểu thuyết vẫn lớn hơn.
3) Điểm nữa là kết cấu của tiểu thuyết 
và truyện ngắn đều có tính linh hoạt. Đây 
cùng là hai thể loại rất năng động, tự do 
trong xây dựng hình tượng, trong bố cục, 
trong lựa chọn cách mở đầu và kết thúc 
tác phẩm, cả hai cùng có tính đa thanh 
trong giọng điệu và ngôn ngữ. Tuy nhiên, 
những đặc điểm này ở tiểu thuyết được thể 
hiện một cách ưu trội hơn, nổi bật hơn. 
Mặt khác, trong mô thức tự sự truyền 
thống, tính đa phức, đa tầng trong tiểu 
thuyết thường được thể hiện qua những 
mối quan hệ phong phú, phức tạp giữa 
nhiều nhân vật, nhiều biến cố. Còn truyện 
ngắn thường chỉ thể hiện cuộc sống qua 
một nhân vật chính và tổ chức kết cấu tác 
phẩm từ các mối quan hệ qui tụ vào nhân 
vật này. Tiểu thuyết thường tập trung khai 
thác những kiểu loại nhân vật có thể cho 
phép nhà văn tái hiện khá toàn diện số 
phận một cá nhân với những thăng trầm, 
hạnh phúc, khổ đau. Còn truyện ngắn 
thường hướng chú ý đến những vấn đề 
nhạy cảm của cuộc sống qua những kiểu 
nhân vật chỉ xuất hiện với tư cách là nhân 
vật phụ trong tiểu thuyết như anh kéo xe, 
ả gái điếm, kẻ lang thang Những nhân 
vật ấy thường là hiện thân cho một trạng 
thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc 
trạng thái tồn tại của con người. Chúng 
cũng ít khi được khắc họa nhiều mặt, đầy 
đặn như trong tiểu thuyết. Vì vậy, nếu 
nhân vật của tiểu thuyết thường là một thế 
giới thì nhân vật truyện ngắn là một mảnh 
nhỏ của thế giới. Cũng vì vậy, cốt truyện 
của truyện ngắn thường đơn giản hơn tiểu 
thuyết. Tuy vậy, đây không chỉ là giới hạn 
mà còn là ưu thế của truyện ngắn. Nếu 
xét trên phương diện thể loại (bao gồm 
nhiều tác phẩm) thì truyện ngắn không 
hề thua kém tiểu thuyết trong khả năng 
phản ánh hiện thực, trong xây dựng hình 
tượng con người đa bình diện, trong kết 
cấu năng động và uyển chuyển nhưng 
so sánh từng tác phẩm thì những khả năng 
ấy ở tiểu thuyết lớn hơn, tiểu thuyết biến 
thiên mạnh hơn. Theo tác giả Trần Đình 
Sử, “kết cấu trong tiểu thuyết chủ yếu là 
tổ chức điểm nhìn và trật tự sự kiện để đưa 
người đọc đi vào thế giới nghệ thuật của 
nhà văn, là xác lập quan hệ giữa người kể 
chuyện với nhân vật và với người đọc 
Khác với truyện kể cổ đại và trung đại chủ 
yếu sử dụng người kể toàn tri, một giọng, 
tiểu thuyết hiện đại đã sử dụng điểm nhìn 
đa dạng và linh hoạt” [4; 309]. Còn 
kết cấu của truyện ngắn “thường là một 
sự tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần 
thuật thường là chấm phá. Yếu tố có ý 
nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn 
là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn 
mang ẩn ý, tạo cho tác phẩm những chiều 
sâu chưa nói hết” [4; 317].
Ngoài ra, do khuôn khổ của mình, 
truyện ngắn cũng ít có khả năng đưa vào 
trong kết cấu tác phẩm những yếu tố ngoài 
cốt truyện như lời nói đầu và cuối của tác 
giả, các đoạn trữ tình ngoại đề, những 
đoạn phụ đề, những bức tranh phong 
130 TRƯỜNG ĐẠI HỌC HẢI PHÒNG
cảnh Còn ở tiểu thuyết, những yếu tố 
đó là vô cùng phong phú. 
Những đặc trưng kết cấu trên làm cho 
hình thức của tiểu thuyết đạt đến trình độ 
phát triển cao nhất trong các thể loại văn 
học tự sự.
3. KẾT LUẬN
Là thể loại văn chương duy nhất đang 
biến chuyển và còn chưa định hình, tiểu 
thuyết không bao giờ dừng lại ở những 
khuôn khổ có sẵn. Đến nay, tiểu thuyết vẫn 
“đương là một hiện tượng động, khó nắm 
bắt và hiện đại mới mẻ” [2]. Nó luôn phát 
triển, kiếm tìm và gắn liền với sự phá vỡ 
chính mình để vươn tới khả năng tự biểu 
hiện, phản ánh dường như vô tận. Tìm ra 
bộ khung kết cấu bất di bất dịch cho tiểu 
thuyết là điều không thể. Hiểu được lí 
luận uyên bác của M. Bakhtin cũng không 
mấy dễ dàng. Những đặc trưng kết cấu mà 
bài viết chỉ ra được đúc rút có bổ sung từ 
những thành quả lí luận về thể loại, chủ 
yếu và trước hết là lí luận của M. Bakhtin, 
kết hợp thêm những kiến giải sinh động 
từ nhiều công trình khoa học và thực tiễn 
sáng tác. Thiết nghĩ, việc làm này cũng 
chỉ là một hạt cát nhỏ góp thêm vào chặng 
đường dài dặc chưa từng có dấu hiệu hứa 
hẹn về điểm dừng. Nó vẫn đòi hỏi nhiều 
công phu, tâm lực, trí lực và bút lực từ các 
nhà khoa học.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi 
pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư dịch và 
giới thiệu, Bộ Văn hóa thông tin và Thể 
thao trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội.
2. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới 
nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện 
đại, NXB Giáo dục, Hà Nội.
3. Nhiều tác giả (1999), Nghệ thuật 
truyện ngắn và ký, Tạ Duy Anh chủ biên, 
NXB Thanh niên, Hà Nội.
4. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), 
Lí luận văn học, Tập 2, NXB Đại học Sư 
phạm, Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdf47936_151636_1_pb_9511_562387.pdf