Vấn đề hư từ trong tiếng Việt

Abstract

Empty words is a concept from both the lexical category and the grammatical category. They are

universal in all languages in the world. In Vietnamese, the researching of emty words has

made certain achievements. However, the delimitation of emty words – notion words and the split subtype of emty words has not achieved consensus among the Vietnamese study. This

article reviews the research situation and give some solutions on those issues existing in the theory

of emty words in Vietnamese

pdf 8 trang yennguyen 4300
Bạn đang xem tài liệu "Vấn đề hư từ trong tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vấn đề hư từ trong tiếng Việt

Vấn đề hư từ trong tiếng Việt
Sè 5 (199)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 
11
6. Đỗ Thị Kim Liên (2005), Giáo trình 
Ngữ dụng học, Nhà xuất bản Đại học quốc 
gia, Hà Nội. 
7. Nguyễn Văn Khang (chủ biên) (1996), 
Ứng xử ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình 
người Việt, NXB Văn hóa Thông tin. 
8. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển tiếng 
Việt, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2006. 
9. Địa chí Huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh 
Hóa, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa, Hà 
Nội, 2010. 
10. Nguyễn Thị Việt Thanh (1999), Hệ 
thống liên kết lời nói tiếng Việt, Nhà xuất 
bản Giáo dục, Hà Nội. 
 (Ban Biªn tËp nhËn bµi ngµy 28-02-2012) 
Ng«n ng÷ häc vµ viÖt ng÷ häc 
VÊn ®Ò h− tõ trong tiÕng viÖt 
EMpTY WORDS IN VIETNAMESE 
 ®ç ph−¬ng l©m 
 (ThS, Khoa Ng÷ v¨n, §¹i häc H¶I Phßng) 
Abstract 
Empty words is a concept from both the lexical category and the grammatical category. They are 
universal in all languages in the world. In Vietnamese, the researching of emty words has 
made certain achievements. However, the delimitation of emty words – notion words and the split sub-
type of emty words has not achieved consensus among the Vietnamese study. This 
article reviews the research situation and give some solutions on those issues existing in the theory 
of emty words in Vietnamese. 
Đối với các ngôn ngữ biến hình, các phạm 
trù ngữ pháp chủ yếu được biểu hiện thông 
qua hình thái của từ. Còn đối với các ngôn 
ngữ thuộc loại hình đơn lập phân tích tính 
như tiếng Việt, tiếng Hán, thì gánh nặng thể 
hiện các quan hệ ngữ pháp đặt lên hư từ. Các 
quan hệ ngữ pháp giữa từ với từ, giữa câu với 
câu; giữa kiến trúc sâu với kiến trúc mặt, đều 
được thể hiện thông qua ý nghĩa và chức 
năng của hư từ. Do vậy, nghiên cứu những 
đặc trưng ngữ pháp của tiếng Việt, thì việc 
nghiên cứ hư từ là rất quan trọng. 
Trước nay, việc nghiên cứu nhằm miêu tả 
hệ thống hư từ của tiếng Việt đã được các nhà 
Việt ngữ học quan tâm và bỏ nhiều công sức. 
Tiếng Việt thuộc loại hình ngôn ngữ đơn lập, 
phân tích tính, nên việc xác định tính chất từ 
loại không thể dựa vào các đặc điểm về mặt 
hình thái. Do vậy, phân định từ loại tiếng Việt 
là công việc khó khăn và đến nay vẫn chưa 
đạt được sự nhất trí trong giới nghiên cứu. 
Bài viết này phác thảo lại tình hình nghiên 
cứu và trình bày các tiêu chí phân định hư từ 
tiếng Việt. 
1. Phân biệt thực từ - hư từ 
1.1. Sự đối lập thực từ - hư từ 
Trong từ vựng của bất kì một ngôn ngữ 
nào cũng có sự đối lập giữa thực từ với hư từ. 
Theo cách hiểu phổ thông nhất, thực từ 
(content words/ open class words/ lexical 
words/ autosemantic words/ notion words/ 内
容词) có giá trị biểu đạt ý nghĩa từ vựng, còn 
hư từ (grammatical words/ synsemantic 
words/ structure-class words/ function words/ 
虚詞) có giá trị thể hiện các quan hệ ngữ 
pháp. 
 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 5 (199)-2012 
12 
Vấn đề đặt ra ở đây là: không phải mọi từ 
rỗng nghĩa (từ vựng) đều là từ chức năng. 
Chúng tôi muốn nhấn mạnh khái niệm “hư 
từ” trong tiếng Việt không đồng nhất với 
thuật ngữ “function word” của tiếng Anh. 
Thuật ngữ “thực từ” và “hư từ” được vay 
mượn từ tiếng Hán. Thực từ còn được gọi là 
“từ nội dung”, tức là nghĩa của từ gắn với 
một nội dung nhất định, hư từ thì ngược lại. 
Sự đối lập giữa thực từ và hư từ trước hết là 
sự đối lập có hay không có “nghĩa nội dung”. 
Đối với các ngôn ngữ biến hình, có thể 
dựa vào các đặc điểm về hình thái của từ mà 
xác định tính chất từ loại. Việc phân tách, đối 
lập thực từ và hư từ vì thế rất rõ ràng. Trong 
tiếng Việt từ không biến đổi hình thái khi thể 
hiện các chức vụ cú pháp, nên việc xác định 
tính chất từ loại phải dựa vào các yếu tố như: ý 
nghĩa từ vựng và vai trò ngữ pháp mà từ đảm 
nhiệm. Do vậy, không dễ vạch được một ranh 
giới phân biệt thực từ và hư từ trong tiếng 
Việt. 
1.2. Các tiêu chí phân chia thực từ - hư từ 
trong tiếng Việt 
Nhìn vào kết quả phân định từ loại trong 
các sách ngữ pháp tiếng Việt hiện nay, có thể 
thấy sự không đồng thuận giữa các quan điểm 
nghiên cứu. Điểm khác biệt cơ bản giữa các 
tác giả là ở tiêu chí phân chia từ loại. Tựu 
trung, có thể tổng kết ba nhóm tiêu chí sau: 
- Dựa vào tiêu chí ý nghĩa là quan điểm của 
các nhà nghiên cứu theo trường phái ngữ pháp 
lô-gic truyền thống như: G. Aubaret, Trương 
Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh, 
Nguyễn Lân, v.v. Ý nghĩa của từ bao gồm ý 
nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Những từ 
biểu thị nghĩa từ vựng gọi là thực từ, những từ 
biểu thị nghĩa ngữ pháp gọi là hư từ. Như Bùi 
Đức Tịnh đã nhận xét: "mỗi loại trong các từ 
ngữ ấy đều có ý nghĩa riêng biệt, không thể lẫn 
lộn ..." và "muốn sắp một từ ngữ thuộc về loại 
nào... cần phải biết rõ ý nghĩa của nó". [21: 
274] 
Theo đó, tiêu chí duy nhất để quyết định 
một từ nào đó có phải là hư từ hay không 
chính là rỗng nghĩa từ vựng. Đối với những từ 
nhiều nghĩa, từ mờ nghĩa từ vựng, hiện tượng 
từ chuyển loại thì công việc xác định này trở 
nên khó khăn. Quan điểm này đến nay đã tỏ ra 
lạc hậu và từng bị nhiều nhà nghiên cứu phê 
phán (Nguyễn Kim Thản, 1964, 1997; Đái 
Xuân Ninh, 1978; Đinh Văn Đức, 1986). Ý 
nghĩa từ vựng là tiêu chí khu biệt dễ nhận biết 
nhất và có thể vạch ra sự đối lập rõ ràng giữa 
thực từ và hư từ. Nhưng việc đánh giá ý nghĩa 
của một từ chỉ căn cứ vào bản thân từ (như tra 
từ điển) rất dễ mang tính chủ quan, ngộ nhận. 
- Dựa vào tiêu chí ngữ pháp (chức vụ cú 
pháp và khả năng kết hợp). Phan Khôi sau khi 
tiếp thu những thành quả của trào lưu nghiên 
cứu hư từ những năm 1950 ở Trung Quốc đã 
chủ trương dựa vào chức vụ cú pháp của từ 
trong câu làm tiêu chí phân định từ loại. Ông 
cho rằng phải "tuỳ vào vị trí và chức vụ của 
từng từ mà quy nhập nó vào loại nào" [8, 188]. 
Như vậy, ông coi việc phân định từ loại như 
việc “gán nhãn” cho các thành phần của câu 
nói. Trên thực tế, đó không phải mục đích của 
việc xác định từ loại trong ngôn ngữ học. Hơn 
nữa, một chức vụ cú pháp có thể do nhiều từ 
loại đảm nhiệm và ngược lại một từ loại có thể 
đảm nhiệm nhiều chức vụ cú pháp khác nhau. 
Chẳng hạn, chủ từ có thể do đại từ hoặc danh 
từ đảm nhiệm, vị từ có thể là động từ hay tính 
từ thậm chí danh từ. Nếu chỉ dựa vào chức vụ 
cú pháp thì không thể xác định được các tiểu 
loại từ loại và việc xác định này cũng thật ít có 
giá trị thực tiễn. 
Không cực đoan chỉ dựa vào chức vụ cú 
pháp của từ trong câu, Lê Văn Lý (1968) và 
sau này là Lưu Vân Lăng (1970), Nguyễn Tài 
Cẩn (1975) bổ sung tiêu chuẩn khả năng kết 
hợp của từ trong đoản ngữ để xác định tính 
chất từ loại. Các tác giả Nguyễn Anh Quế 
(1988) và Nguyễn Hồng Cổn (2003) đã kết 
hợp cả hai hướng phân loại: dựa vào cấu trúc 
đoản ngữ và dựa vào chức năng cú pháp của 
từ. Cách làm này cũng bộc lộ nhiều mâu thuẫn 
và làm cho các nhà ngôn ngữ học bối rối trong 
khi phân chia các tiểu loại hư từ về các nhóm. 
Sè 5 (199)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 
13
Ví dụ, đại từ cùng nhóm với danh từ do có 
cùng khả năng làm chủ từ, nhưng đại từ lại 
khác danh từ ở chỗ rỗng nghĩa từ vựng. 
- Kết hợp tiêu chí ý nghĩa và tiêu chí ngữ 
pháp: Sự cực đoan trong việc lựa chọn tiêu 
chí: hoặc ý nghĩa hoặc vai trò ngữ pháp của từ 
trong khi phân loại đều để lại những nhóm từ 
trung gian, không có được sự đối lập rõ ràng 
về tính chất hư/thực. Vì vậy, nhiều nhà nghiên 
cứu đã kết hợp cả hai tiêu chí trên để phân 
định từ loại tiếng Việt. Theo hướng này có các 
tác giả: Ủy ban Khoa học xã hội (1983), Đinh 
Văn Đức (1986), Hoàng Văn Thung (1991, 
1998), Lê Biên (1999), Diệp Quang Ban 
(2004), Hoàng Trọng Phiến (2008), v.v. 
2. Phân nhóm các tiểu loại hư từ 
2.1. Việc phân chia các nhóm thực từ, hư từ 
thành các tiểu loại là cần thiết. Nhưng việc 
phân chia tiểu loại hư từ lại phức tạp hơn 
nhiều so với việc phân chia các tiểu loại thực 
từ. Trong nhóm thực từ, người ta dễ dàng vạch 
được sự đối lập giữa các tiểu loại cơ bản bằng 
ý nghĩa từ vựng: danh từ, động từ, tính từ và 
chỉ cần áp dụng tiêu chuẩn chức vụ cú pháp 
trong trường hợp từ chuyển loại. Đối với hư 
từ, sự đối lập giữa các tiểu loại chính là sự đối 
lập về đặc điểm ngữ pháp. Mà muốn biết rõ 
đặc điểm ngữ pháp của từ, phải đặt chúng vào 
trong tổ chức mà chúng luôn có mặt, đó là 
đoản ngữ và mệnh đề. 
2.2. Các quan điểm phân chia tiểu loại hư 
từ tiếng Việt trong những năm gần đây 
(1) Nguyễn Tài Cẩn [7,341] dựa vào đoản 
ngữ để phân định từ loại, chia từ tiếng Việt 
thành 3 nhóm chính: thực từ, hư từ và thán từ. 
Trong đó thán từ đối lập với tất cả khối từ còn 
lại do “không có một mối liên quan nào đối 
với tổ chức của đoản ngữ”. Hư từ là những từ 
loại chỉ có khả năng làm thành tố phụ đoản 
ngữ: phó từ hoặc kết hợp với đoản ngữ: quan 
hệ từ, trợ từ. [3, 341] 
(2) Sách Ngữ pháp tiếng Việt của Uỷ ban 
Khoa học xã hội đối lập đặc điểm có “nghĩa 
thực” - “nghĩa hư” và “có thể dùng làm phần 
đề và phần thuyết trong một nòng cốt câu” để 
chia từ tiếng Việt thành bốn nhóm, trong đó 
hư từ chỉ bao gồm hai tiểu loại: phụ từ và kết 
từ. [24, 68-71] 
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 
3 
Nhóm 4 
Thực từ 
(danh từ, 
động từ, tính 
từ) 
Hư từ 
(phụ từ, 
kết từ) 
Đại từ Trợ từ, 
cảm từ 
(3) Đinh Văn Đức [3] căn cứ vào tập hợp 
các tiêu chuẩn: ý nghĩa, khả năng kết hợp và 
chức vụ cú pháp của từ, chia từ tiếng Việt 
thành “ba tập hợp cơ bản”: thực từ, hư từ, tình 
thái từ. Trong đó, hư từ bao gồm hư từ từ pháp 
(làm thành tố phụ trong đoản ngữ, theo cách 
gọi của tác giả là từ phụ, tương đương với phó 
từ) và hư từ cú pháp (quan hệ từ). 
Tuy vậy, tác giả cũng không triệt để thừa 
nhận tư cách thực từ của đại từ, mà xếp nó ở vị 
trí trung gian giữa thực từ và hư từ [6, 172]. 
Tác giả tách tình thái từ (gồm trợ từ và tiểu từ 
tình thái) ra khỏi hư từ do “có một đặc trưng 
riêng về bản chất ngữ pháp. Tình thái từ không 
có ý nghĩa từ vựng và cũng không có ý nghĩa 
ngữ pháp.” Các tình thái từ nằm ngoài cấu trúc 
đoản ngữ và cũng không có khả năng làm 
thành phần câu. Đồng thời thán từ được tác 
giả coi là một bộ phận nằm trong tiểu từ tình 
thái, tức cũng là tình thái từ. 
(4) Nguyễn Anh Quế (1988) trong cuốn Hư 
từ trong tiếng Việt hiện đại khẳng định rằng 
hư từ cũng có ý nghĩa từ vựng. Tác giả phân 
tích: đối với tiếng Việt, “tuyệt đại bộ phận hư 
từ lại vốn bắt nguồn từ thực từ, vì vậy nếu chỉ 
nói rằng hư từ là những từ không có ý nghĩa từ 
vựng chân thực thì sẽ không phản ánh được gì 
diện mạo chung của hư từ tiếng Việt.” “Nói 
chung các hư từ đều có một nghĩa từ vựng 
nhất định như các thực từ.” [16, 41] Chính vì 
quan niệm như vậy mà tác giả không quan tâm 
đến ý nghĩa từ vựng mà chỉ chú ý đến ý nghĩa 
ngữ pháp khi phân loại hư từ. Tác giả đề nghị 
một cách phân định hư từ gồm hai bước: 
“bước 1, dựa vào tổ chức đoản ngữ và bước 2, 
dựa vào chức năng cú pháp.” [16, 51] Những 
từ loại không có khả năng làm trung tâm đoản 
 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 5 (199)-2012 
14 
ngữ được coi là hư từ, nhưng nếu chúng có 
khả năng làm thành phần câu (chức năng cú 
pháp) thì lại có thể coi chúng là thực từ, như 
trường hợp số từ, đại từ. Hư từ được tác giả 
chia thành ba nhóm: 
+ Nhóm hư từ làm thành tố 
phụ trong đoản ngữ: phó từ 
+ Nhóm hư từ nằm trong 
đoản ngữ, nhưng không làm 
thành tố phụ: giới từ, 
 liên từ và “các hư từ đặc 
biệt” (như: là, thì, kẻo 
huống, phương chi, vả). 
+ Nhóm hư từ nằm ngoài 
đoản ngữ (hư từ phụ trợ): 
trợ từ, phụ từ (gồm: ngữ 
khí từ và cảm thán từ) 
(5) Hoàng Văn Thung (1991, 1998) kết 
hợp cả hai hướng phân loại: dựa vào cấu trúc 
đoản ngữ và dựa vào chức năng cú pháp của 
từ, chia từ tiếng Việt thành hai nhóm: thực từ 
và hư từ. Trong đó hư từ gồm các tiểu loại: 
phụ từ (gồm: định từ phụ cho danh từ và phó 
từ phụ cho vị từ), kết từ, tiểu từ (gồm: trợ từ 
và tình thái từ). 
(6) Lê Biên (1999) “áp dụng một tập hợp 
tiêu chí về nghĩa – ngữ pháp để phân chia từ 
loại tiếng Việt” [2, 12] cũng đã đối lập thực 
từ với hư từ. Với sự kế thừa sâu sắc cách 
phân loại của Đinh Văn Đức, tác giả cũng 
chia vốn từ tiếng Việt thành ba mảng lớn: 
thực từ, hư từ và tình thái từ, điểm khác biệt 
là tác giả xếp số từ, đại từ vào nhóm thực từ. 
- Thực từ gồm: danh từ, động từ, tính từ, 
số từ, đại từ; 
- Hư từ gồm: phụ từ (phụ cho thể từ và vị 
từ), quan hệ từ; 
- Tình thái từ: gồm trợ từ, tiểu từ và thán 
từ. [15, 169-176] 
(7) Nguyễn Hồng Cổn (2003) căn cứ vào 
chức vụ cú pháp và khả năng kết hợp của từ 
đã phân chia từ tiếng Việt thành ba nhóm [5, 
43]: 
- Nhóm thứ nhất có khả năng làm trung 
tâm đối tố (danh từ, đại từ) hoặc trung tâm vị 
tố (động từ, tính từ); 
- Nhóm thứ hai làm thành tố phụ của đối 
tố (lượng từ, số từ, định từ, chỉ từ) hoặc thành 
tố phụ của vị tố (tiền phó từ, hậu phó từ); 
- Nhóm thứ ba là các từ liên kết (liên từ, 
giới từ) và từ tình thái (trợ từ, tiểu từ, thán 
từ). 
Để phân chia các tiểu loại, tác giả đối lập 
khả năng “làm trung tâm của đối tố và vị tố 
trong cấu trúc của mệnh đề” và khả năng 
“làm thành tố phụ” cho đối tố và vị tố. Tuy 
tác giả không đối lập thực từ với hư từ trong 
khi phân loại lớp từ, nhưng có thể thấy, theo 
quan niệm của ông, hư từ chính là nhóm thứ 
hai và thứ ba gộp lại. 
(8) Diệp Quang Ban (2004) chủ yếu kế 
thừa kết quả phân loại các lớp từ truyền 
thống. Tuy vậy, ông có quan điểm xếp đại từ 
vào nhóm trung gian giữa thực từ và hư từ; 
tách định từ thành hai nhóm: mạo từ và chỉ 
định từ (nằm trong đại từ). Kết quả phân loại 
của ông như sau: 
- Thực từ: danh từ (và loại từ), số từ, tính 
từ, động từ, đại từ (bao gồm cả chỉ định từ là 
một nhóm nằm trong định từ); 
- Hư từ: mạo từ (tương đương với định từ 
theo cách gọi thông thường), phó từ, quan hệ 
từ, tiểu từ tình thái (gồm: ngữ thái từ và trợ 
từ), thán từ; 
- Nhóm trung gian: đại từ (bao gồm cả chỉ 
định từ là một nhóm nằm trong định từ) [1, 
473] 
(9) Đào Thanh Lan [15] trong đề tài 
“Khảo sát đặc điểm hư từ có nguồn gốc tiếng 
Hán trong tiếng Việt hiện đại” cho rằng: “Hư 
từ là từ không biểu hiện ý nghĩa từ vựng” và 
phân thành hai loại: “loại chuyên biểu hiện ý 
nghĩa ngữ pháp thường gọi là hư từ và loại 
chuyên biểu hiện ý nghĩa tình thái được gọi 
chung là tình thái từ”. Hư từ chia thành hai 
lớp: 
- Phụ từ: bổ sung ý nghĩa phụ cho thực từ, 
gồm: định từ (phụ cho danh từ) và phó từ 
(phụ cho vị từ) 
- Kết từ/ quan hệ từ: vừa kết nối các thực 
từ vừa biển hiện quan hệ giữa các thực từ, 
Hư từ từ 
pháp 
Hư từ cú 
pháp 
Sè 5 (199)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 
15
gồm: liên từ (biểu hiện quan hệ liên hợp) và 
giới từ (biểu hiện quan hệ chính phụ) [9, 10] 
(10) Hoàng Trọng Phiến [9,5] trong Từ 
điển giải thích hư từ tiếng Việt cũng có cùng 
quan niệm với đa số các nhà ngữ pháp học về 
hư từ: “Hư từ lấy việc biểu hiện ý nghĩa ngữ 
pháp làm chính, không độc lập làm thành 
phần câu, không làm trung tâm cụm từ, ngữ 
đoạn” [14, 5]. Tác giả chia hư từ thành 10 
tiểu loại, bao gồm: đại từ, động từ tình thái, 
giới từ, liên từ, ngữ khí từ, phó từ, quán ngữ, 
thán từ, trợ từ, tiểu từ. 
Để tiện đối chiếu, so sánh, bảng dưới đây tổng kết các quan điểm phân chia hư từ tiếng 
Việt. 
Tác giả Tiêu chí phân loại 
Số lượng 
tiểu loại 
hư từ 
Hư từ Từ loại trung gian 
Nguyễn Tài Cẩn - đoản ngữ 3 
- phó từ 
- quan hệ từ 
- trợ từ 
thán từ 
Ủy ban KHXH - ý nghĩa khái quát 
- chức vụ cú pháp 2 
- phụ từ 
- kết từ 
- đại từ 
- trợ từ, cảm từ 
Đinh Văn Đức 
- ý nghĩa khái quát 
- khả năng kết hợp 
- chức vụ cú pháp 
2 - từ phụ 
- quan hệ từ 
tình thái từ (tiểu từ, 
trợ từ, thán từ) 
Nguyễn Anh Quế - tổ chức đoản ngữ 
- chức năng cú pháp 6 
- phó từ 
- giới từ, liên từ, 
- trợ từ, phụ từ (ngữ khí 
từ, cảm thán từ) 
Hoàng Văn 
Thung 
- tổ chức đoản ngữ 
- chức năng cú pháp 5 
- phụ từ (định từ, phó từ) 
- kết từ 
- tiểu từ (trợ từ, tình thái 
từ) 
thán từ 
Lê Biên 
- ý nghĩa khái quát 
- khả năng kết hợp 
- chức vụ cú pháp 
2 - phụ từ 
- quan hệ từ 
tình thái từ (trợ từ, 
tiểu từ, thán từ) 
Nguyễn Hồng 
Cổn 
- khả năng kết hợp 
- chức vụ cú pháp 10 
- lượng từ, số từ, định từ, 
chỉ từ, phó từ 
- liên từ, giới từ 
- từ tình thái (trợ từ, tiểu 
từ, thán từ) 
Diệp Quang Ban 
- ý nghĩa khái quát 
- khả năng kết hợp 
- chức vụ cú pháp 
6 
- mạo từ 
- phó từ 
- quan hệ từ 
- tiểu từ tình thái (ngữ 
thái từ, trợ từ) 
- thán từ 
đại từ (trong đó có chỉ 
định từ) 
Đào Thanh Lan 
- ý nghĩa khái quát 
- khả năng kết hợp 
- chức vụ cú pháp 
4 
- phụ từ (định từ, phó từ) 
- kết từ (liên từ, giới từ) tình thái từ 
Hoàng Trọng 
Phiến 
- ý nghĩa khái quát 
- khả năng kết hợp 
- chức vụ cú pháp 
10 
đại từ, động từ tình thái, 
phó từ, quan hệ từ, tiểu 
từ, trợ từ, thán từ, tiểu từ, 
ngữ khí từ, quán ngữ 
3. Về một số vấn đề còn tồn tại trong 
việc phân loại hư từ tiếng Việt 
Nhìn vào bảng kết quả phân loại trên đây, 
chúng ta thấy sự không nhất quán giữa các 
 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 5 (199)-2012 
16 
tác giả thể hiện ở hai điểm: tiêu chí phân loại 
và việc phân loại đại từ, số từ, tình thái từ, 
thán từ vào thực từ hay hư từ. 
3.1. Về tiêu chí phân loại 
Tiêu chí phân loại quyết định kết quả phân 
loại. Tuy nhiên, như đã thấy, có một số tác 
giả có cùng tiêu chí phân loại mà kết quả 
phân loại vẫn khác nhau. Đó là do việc vận 
dụng hệ tiêu chí theo trình tự chưa hợp lí 
hoặc quá cứng nhắc. Chúng tôi thống nhất 
với đa số tác giả trong việc áp dụng một hệ 
tiêu chí bao gồm: ý nghĩa khái quát, tổ chức 
đoản ngữ (vai trò của từ trong đoản ngữ), 
chức vụ cú pháp (vai trò của từ trong câu). 
Trong đó mỗi tiêu chí có một tác dụng khu 
biệt và không loại trừ nhau. Quy trình phân 
loại cần được tiến hành theo trình tự 3 bước: 
Bước 1: căn cứ vào ý nghĩa khái quát để 
có thể vạch được sự đối lập giữa thực từ với 
hư từ. Rỗng nghĩa từ vựng là đặc điểm tiên 
quyết xếp một từ vào hư từ. Hệ quả của việc 
“không có nghĩa từ vựng” chính là việc “có 
nghĩa ngữ pháp”. Đó là hai ý quan hệ mật 
thiết với nhau và biện chứng trong khái niệm 
hư từ. 
Các bước tiếp theo là căn cứ vào đặc điểm 
ngữ pháp của từ để chia hư từ thành các tiểu 
loại. 
Bước 2: căn cứ vào tổ chức đoản ngữ để 
có thể tiếp tục vạch ra sự đối lập giữa khả 
năng làm trung tâm đoản ngữ: thực từ (trừ đại 
từ) và khả năng làm thành phần phụ đoản 
ngữ: phó từ. Phó từ chia thành hai loại: phó 
danh từ (phụ cho đoản ngữ danh từ) và phó 
thuật từ (phụ cho đoản ngữ động từ, đoản 
ngữ tính từ). 
Bước 3: căn cứ vào chức vụ cú pháp để 
xác định tính chất từ loại của những hư từ 
nằm ngoài kết cấu đoản ngữ. Những thực từ 
đã làm trung tâm đoản ngữ bao giờ cũng giữ 
một chức vụ cú pháp nhất định (chủ ngữ, vị 
ngữ, bổ ngữ, v.v.). Ở bước 3, có thể khái quát 
hai nhóm từ loại không đảm nhiệm vai trò 
thành phần câu: 
- trợ từ: là thành phần gia thêm vào câu, 
mang lại sắc thái ngữ nghĩa hoặc ý nghĩa tình 
thái cho câu, là thành phần có thể lược bỏ. 
- quan hệ từ: là thành phần có chức năng 
liên kết. 
3.2. Về việc đánh giá tính chất hư thực của 
một số từ loại 
Trước hết, đối với thán từ, chúng tôi cho 
rằng đây là một từ loại đặc biệt, có thể độc 
lập tạo thành phát ngôn, đứng biệt lập với các 
thành phần của câu nói. Có nhiều tác giả băn 
khoăn về ý nghĩa từ vựng của thán từ. Nhưng 
theo chúng tôi, sự phân biệt sắc thái ngữ 
nghĩa giữa các thán từ cho chúng ta thấy ý 
nghĩa từ vựng của chúng. Chẳng hạn, một lời 
than vãn (ối giời ơi) khác với một tiếng kêu 
sung sướng (ôi chao, ha ha, ái chà, v.v.); 
khác với một sự biểu lộ thái độ (khiếp, gớm, 
v.v.). Thán từ có ý nghĩa từ vựng nên nó phải 
là thực từ. 
Về trường hợp tình thái từ, chúng tôi 
không đồng tình với quan điểm: “tình thái từ 
không có ý nghĩa từ vựng và cũng không có ý 
nghĩa ngữ pháp” [6, 172]. Không có cái gọi là 
“từ không mang nghĩa” mà lại hình thành một 
kiểu từ loại. Nghĩa của tình thái từ (nhiều tác 
giả gọi là trợ từ) là “nhấn mạnh vào ý nghĩa 
của một bộ phận nào đó trong phát ngôn” 
hoặc “thêm vào cho nội dung chính của phát 
ngôn một hoặc một số ý nghĩa tình thái nhất 
định” [26, 11]. 
Đại từ làm bối rối nhiều nhà nghiên cứu 
nhất bởi mâu thuẫn khó giải quyết: xét về 
nghĩa từ vựng thì nó rỗng nghĩa, nhưng xét về 
ngữ pháp thì nó có thể làm trung tâm đoản 
ngữ và giữ chức vụ cú pháp (ví dụ: chủ từ). 
Vấn đề ở đây chính là việc áp dụng các tiêu 
chí phân loại. Xếp đại từ vào thực từ tức là 
chỉ chú trọng đến chức năng ngữ pháp hiện 
hữu của từ, lấy tiêu chí thứ yếu để loại bỏ tiêu 
chí chính yếu. Như trên đã nói, đặc điểm rỗng 
nghĩa từ vựng quy định đặc điểm có ý nghĩa 
ngữ pháp. Đại từ dù có làm trung tâm của 
đoản ngữ hay làm chủ ngữ của câu vẫn chỉ là 
Sè 5 (199)-2012 ng«n ng÷ & ®êi sèng 
17
một hư từ, một từ chức năng. Chức năng của 
đại từ là thay thế cho danh từ. Đại từ chỉ là 
một tập hợp hữu hạn những từ có khả năng 
thay thế, một tập hợp đóng, hạn chế về khả 
năng phát triển số lượng. Đó cũng là một 
trong những đặc trưng quan trọng của hư từ. 
3.3. Kết quả phân chia tiểu loại hư từ 
Trên cơ sở kế thừa và sàng lọc những 
thành tựu của các nhà nghiên cứu đi trước, 
chúng tôi áp dụng hệ tiêu chí và trình tự phân 
chia tiểu loại hư từ theo 3 bước (như đã nêu ở 
trên). Kết quả hư từ được chia thành bốn 
nhóm: 
- Nhóm 1: Những từ làm thành phần trung 
tâm đoản ngữ nhưng rỗng nghĩa từ vựng: đại 
từ 
- Nhóm 2: Những từ làm thành phần phụ 
đoản ngữ: phó từ, bao gồm phó danh từ 
(những, các, này, kia, đấy, v.v.) và phó thuật 
từ (đã, sẽ, đang, rất, lắm, không, chẳng, v.v.) 
- Nhóm 3: Những từ làm thành phần phụ 
cho cả câu: trợ từ (ngay, cả, chính, đích, à, ư, 
nhỉ, nhé, đi, mà, v.v.) 
- Nhóm 4: Những từ không làm thành 
phần phụ đoản ngữ, cũng không làm thành 
phần phụ của câu. Đó là những từ có chức 
năng liên kết, gọi là quan hệ từ, trong đó liên 
kết đẳng lập là liên từ, liên kết phụ thuộc là 
giới từ. 
SƠ ĐỒ PHÂN CHIA TIỂU LOẠI HƯ TỪ 
TIẾNG VIỆT 
Tài liệu tham khảo 
1. Diệp Quang Ban (2008), Ngữ pháp tiếng 
Việt, NXB. Giáo dục. 
2. Lê Biên (1999), Từ loại tiếng Việt hiện 
đại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
3. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp 
tiếng Việt, tiếng, từ ghép, đoản ngữ, NXB. Đại 
học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội. 
4. Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê 
(1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Huế: 
Đại học Huế. 
5. Nguyễn Hồng Cổn (2003), “Về vấn đề 
phân định từ loại trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, 
số 2-2003, tr. 36-46 
6. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng 
Việt (từ loại), Nxb. Đại học và THCN. 
7. Bùi Mạnh Hùng (2000), Về một số đặc 
trưng ngữ nghĩa - ngữ pháp của “những” và 
“các”, Ngôn ngữ, số 3-2000, tr 16 – 26. 
8. Phan Khôi (1955), Việt ngữ nghiên cứu, 
NXB Văn nghệ. 
9. Đào Thanh Lan (2007), Khảo sát đặc 
điểm hư từ có nguồn gốc tiếng Hán trong tiếng 
Việt hiện đại, Đề tài nghiên cứu cấp Đại học 
Quốc gia. 
10. Lưu Vân Lăng (1988), Về nguyên tắc 
phân định từ loại tiếng Việt, “tiếng Việt và các 
ngôn ngữ Đông Nam Á”, NXB. KHXH, Hà Nội. 
11. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ của 
tiếng Việt hiện đại, Nxb. KHXH, Hà Nội. 
12. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp 
Việt Nam, Bộ Giáo dục, Trung tâm học liệu xuất 
bản. 
13. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của 
từ tiếng Việt, Nxb. KHXH Hà Nội. 
14. Hoàng Trọng Phiến (2008), Từ điển giải 
thích hư từ tiếng Việt, Nxb. Tri thức, H. 
15. Nguyễn Phú Phong (2002), Những vấn 
đề ngữ pháp tiếng Việt. Loại từ và chỉ thị 
từ, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội. 
16. Nguyễn Anh Quế (1988), Hư từ trong 
tiếng Việt hiện đại, NXB. Khoa học xã hội. 
17. Stankievich N., Về sự diễn biến của 
những hư từ chỉ nguyên nhân, Ngôn ngữ, số 4-
1985, tr. 58-59). 
18. Đỗ Thanh (1998), Từ điển từ công cụ 
tiếng Việt, NXB. Giáo dục. 
19. Nguyễn Kim Thản (1963, 1997), Nghiên 
cứu về ngữ pháp tiếng Việt, NXB. Giáo dục, Hà 
Nội. 
20. Nguyễn Minh Thuyết (1995), Các tiền 
phó từ chỉ thời, thể trong tiếng Việt, Ngôn ngữ, 
số 2 - 1995. 
21. Bùi Đức Tịnh (1952), Văn phạm Việt 
HƯ TỪ 
PHÓ TỪ 
(phó danh 
từ + 
phó thuật 
từ) 
TRỢ TỪ 
QUAN 
HỆ TỪ 
(liên từ + 
giới từ) 
Bước 1 
Bước 2 
Bước 3 
 ng«n ng÷ & ®êi sèng sè 5 (199)-2012 
18 
Nam, Sài Gòn: P.Văn Tươi, 1952. 
22. Nguyễn Văn Tu (1978), Từ và vốn từ 
tiếng Việt hiện đại, NXB. ĐH&THCN. 
23. Lê Đình Tư & Vũ Ngọc Cân 
(2009), Nhập môn ngôn ngữ học, Mục “Từ loại”, 
Hà Nội. 
24. Uỷ ban khoa học xã hội (1983), Ngữ 
pháp tiếng Việt, NXB. KHXH, Hà Nội. 
25. Viện Ngôn ngữ học (2010), Từ điển tiếng 
Việt, NXB. Từ điển Bách khoa. 
26. Phạm Hùng Việt (2003), Trợ từ trong 
tiếng Việt hiện đại, NXB. KHXH. 
(Ban Biªn tËp nhËn bµi ngµy 23-02-2012) 
Ngo¹i ng÷ víi b¶n ng÷ 
C©u hái phi chÝnh danh 
trong héi tho¹i tiÕng anh 
NON-GENUINE QUESTIONS IN ENGLISH DIALOGUES 
 T« minh thanh 
(TS, §HKHXH & NV, §HQG Tp Hå ChÝ Minh) 
Abstract 
The article presents non-genuine questions in the English language – those that are in the 
form of questions, covering both Yes/No questions and Wh- questions, but their illocutionary 
force is not interrogative but directive, expressive, commissive or representative. This is a 
delicate matter which requires language learners’efforts to identify in a certain context 
simplified minimally to a dialogue. This is also an intermediate step non-native learners of 
English need to take before they can manage to use English non-genuine questions naturally to 
communicate, especially with English speakers. 
Chào dưới hình thức câu hỏi là một nghi 
thức xã hội được chấp nhận rộng rãi trong 
nhiều cộng đồng, trong đó có người Việt và 
người bản ngữ Anh. Rất phổ biến ở miền 
Nam Việt Nam là cách hỏi để chào trong cuộc 
hội thoại sau đây: 
 (1) Nam: Anh đi đâu đó? 
Quân: À, đi công chuyện. 
Nam không được gặng hỏi thêm điều gì 
nữa vì thế chỉ cần đủ cho nghi thức chào hỏi 
vừa phải, giữa hai người không thân cũng 
không sơ. 
Câu chào trong tiếng Anh ở dạng thức của 
câu hỏi thường bắt đầu bằng How (như thế 
nào, ra sao), dù trong ngôn cảnh trang trọng 
của (2) hay thân mật của (3): 
(2) Mr. Clark: How do you do? 
(Ông Clark: Xin chào bà.) 
Mrs. Wilson: How do you do? 
(Bà Wilson: Dạ, xin chào ông.) 
(3) Nancy: How are you? 
(Nancy: Anh khỏe không?) 
John: I’m fine, thanks. And you? 
(John: Tôi khỏe, cám ơn. Còn cô?) 
Bài viết này trình bày những câu hỏi phi 
chính danh trong tiếng Anh - những câu ở 
hình thức của câu hỏi nhưng không yêu cầu 
một câu trả lời thông báo về một sự tình hay 
về một tham tố nào đó của một sự tình được 
tiền giả định là hiện thực” [Cao Xuân Hạo, 
1991: 212], chủ yếu là những câu có giá trị 
ngôn trung như cầu khiến (directive) hay biểu 
cảm (expressive). Đây là chỗ tinh tế, đòi hỏi 
nỗ lực lớn để nhận biết trong ngôn cảnh cụ thể 

File đính kèm:

  • pdfvan_de_hu_tu_trong_tieng_viet.pdf