Bản tin Cảnh giác dược - Số 3/2019
GIỚI THIỆU
Cả thuốc điều trị và các chất gây
nghiện sử dụng bất hợp pháp đều có
thể gây ra các phản ứng có hại trên
thần kinh, trong đó có rối loạn vận
động. Nhóm thuốc phổ biến gây rối
loạn vận động là các thuốc ức chế thụ
thể dopamin, bao gồm thuốc chống
loạn thần và thuốc chống nôn (bảng
1). Các rối loạn có thể ở mức độ nhẹ
(như run) đến các hội chứng nặng, đe
dọa tính mạng. Dựa trên thời gian
khởi phát, có thể phân loại các rối
loạn vận động thành 3 loại: Cấp tính,
bán cấp và muộn.
CÁC RỐI LOẠN CẤP TÍNH
Rối loạn vận động cấp tính có thể
xảy ra trong vài phút đến vài ngày sau
khi dùng thuốc, bao gồm chứng nằm
ngồi không yên, run, hội chứng an
thần kinh ác tính, hội chứng serotonin,
rối loạn tăng thân nhiệt kiểu Parkinson
và rối loạn trương lực cơ cấp.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản tin Cảnh giác dược - Số 3/2019
Môc lôc Chịu trách nhiệm xuất bản: GS. TS. Nguyễn Thanh Bình Chịu trách nhiệm nội dung: PGS. TS. Nguyễn Hoàng Anh Ban biên tập và trị sự: ThS. Võ Thị Thu Thủy ThS. Đặng Bích Việt DS. Lương Anh Tùng Cơ quan xuất bản: Trung tâm Quốc gia về Thông tin thuốc và Theo dõi phản ứng có hại của thuốc - Trường Đại học Dược Hà Nội. Địa chỉ: số 13-15 Lê Thánh Tông, Hoàn Kiếm, Hà Nội Điện thoại: (024) 3933 5618 - Fax: (024) 3933 5642 RèI LO¹N VËN §éNG DO THUèC 1 T¹P CHÊT NITROSAMIN: TæNG HîP MéT Sè VÊN §Ò CÇN L¦U ý Tõ TH¤NG TIN CñA C¸C THUèC BÞ THU HåI 8 TæNG KÕT HO¹T §éNG B¸O C¸O PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC (tõ th¸ng 11/2018 ®Õn th¸ng 7/2019) 11 §IÓM TIN C¶NH GI¸C DUîC 15 Bản tin được đăng tải trên trang tin trực tuyến Trung tâm DI & ADR Quốc gia No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 1 RèI LO¹N VËN §éNG DO THUèC Nguồn: Aust Prescr 2019;42:56-61 Người dịch: Võ Thị Thùy, Nguyễn Thị Thu Thủy, Lương Anh Tùng TÓM TẮT Nhiều thuốc điều trị và chất gây nghiện sử dụng bất hợp pháp có thể gây rối loạn vận động. Trong đó, phổ biến nhất là các thuốc chống loạn thần và thuốc chống nôn. Rối loạn vận động có thể khởi phát cấp tính, bán cấp hoặc hay muộn, với mức độ từ nhẹ đến nặng, thậm chí đe dọa tính mạng. Việc nhận biết sớm rối loạn vận động do thuốc đóng vai trò quan trọng giúp tiến hành kịp thời các biện pháp xử trí, bao gồm ngừng thuốc nghi ngờ, chăm sóc hỗ trợ và sử dụng thuốc điều trị trong một số trường hợp. GIỚI THIỆU Cả thuốc điều trị và các chất gây nghiện sử dụng bất hợp pháp đều có thể gây ra các phản ứng có hại trên thần kinh, trong đó có rối loạn vận động. Nhóm thuốc phổ biến gây rối loạn vận động là các thuốc ức chế thụ thể dopamin, bao gồm thuốc chống loạn thần và thuốc chống nôn (bảng 1). Các rối loạn có thể ở mức độ nhẹ (như run) đến các hội chứng nặng, đe dọa tính mạng. Dựa trên thời gian khởi phát, có thể phân loại các rối loạn vận động thành 3 loại: Cấp tính, bán cấp và muộn. CÁC RỐI LOẠN CẤP TÍNH Rối loạn vận động cấp tính có thể xảy ra trong vài phút đến vài ngày sau khi dùng thuốc, bao gồm chứng nằm ngồi không yên, run, hội chứng an thần kinh ác tính, hội chứng serotonin, rối loạn tăng thân nhiệt kiểu Parkinson và rối loạn trương lực cơ cấp. Nằm ngồi không yên Chứng nằm ngồi không yên (akathisia) là rối loạn vận động khá phổ biến, nhưng thường bị xem nhẹ. Chứng này có thể xảy ra cấp tính, bán cấp hoặc muộn, với các biểu hiện bao gồm cảm giác bồn chồn, dễ bị kích thích, căng thẳng, nhưng không nhất thiết phải thể hiện thành các dấu hiệu thực thể. Nằm ngồi không yên khác với hội chứng chân không nghỉ (restless leg syndrome) thường có mức độ nghiêm trọng hơn và các biểu hiện thường nặng hơn về đêm. Các thuốc đã được ghi nhận liên quan đến chứng nằm ngồi không yên bao gồm thuốc ức chế thụ thể dopamin, thuốc ức chế tái thu hồi chọn lọc serotonin (SSRI), thuốc chống động kinh và cocain. Phản ứng có hại này có thể xảy ra sau khi bắt đầu sử dụng thuốc ức chế thụ thể dopamin, tăng liều hoặc chuyển sang dùng thuốc thay thế. Chứng nằm ngồi không yên thường cải thiện sau khi ngừng thuốc nghi ngờ. Các nhóm thuốc đã được sử dụng để xử trí phản ứng này bao gồm thuốc kháng cholinergic, thuốc chẹn beta, các benzodiazepin, mantadin, Trung tâm DI & ADR Quốc gia 2 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 Bảng 1: Rối loạn vận động do thuốc Rối loạn vận động Thuốc gây ra Nằm ngồi không yên Thuốc ức chế thụ thể dopamin Thuốc ức chế tái thu hồi chọn lọc serotonin (SSRI) Thuốc chống động kinh Run SSRI Lithi Thuốc chống trầm cảm ba vòng Thuốc chống động kinh (như valproat) Thuốc giãn phế quản Amiodaron Thuốc ức chế miễn dịch (tacrolimus, ciclosporin) Hội chứng serotonin (thường do quá liều hoặc dùng đồng thời nhiều thuốc kích thích serotoninergic) SSRI Thuốc ức chế tái thu hồi serotonin-noradrenalin (SNRI) Thuốc chống trầm cảm ba vòng Lithi Linezolid Opioid (pethidin, tramadol, propentadol) Thuốc chống động kinh (valproat, lamotrigin) Cỏ thánh John Loạn trương lực cơ cấp tính Thuốc ức chế thụ thể dopamin (ví dụ: thuốc chống loạn thần, metoclopramid) SSRI Opioid Methylphenidat Rivastigmin Albendazol Gabapentin Cetirizin Foscarnet Quinin Propofol Sevofluran Hội chứng an thần kinh ác tính Thuốc chống loạn thần (như haloperidol, fluphenazin, clorpromazin) Procloperazin Metoclopramid Droperidol Promethazin Tetrabenazin Lithi Hội chứng Parkinson Thuốc ức chế thụ thể dopamin (ví dụ: thuốc chống loạn thần) Thuốc chẹn kênh calci (ví dụ: flunarizin, cinnarizin) Thuốc chống động kinh (như phenytoin, valproat, levetiracetam) Thuốc chống trầm cảm (SSRI, thuốc ức chế monoamin oxidase) Lithi Hóa trị liệu (ví dụ: cytosin arabinosid, cyclophosphamid, vincristin, adriamycin, doxorubicin, paclitaxel, etoposid) Thuốc ức chế miễn dịch (ví dụ: ciclosporin, tacrolimus) Chất độc (ví dụ: 1-methyl-4-phenyl-1,2,3,6-tetrahydropyridin (MPTP), thuốc trừ sâu phospho hữu cơ, mangan, methanol, cyanid, carbon monoxid, carbon disulfit) Rối loạn vận động muộn do thuốc Thuốc chống loạn thần Thuốc chống nôn (như metoclopramid) No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 3 mirtazapin và clonidin. Tuy nhiên, tuy nhiên hiệu quả xử trí còn dao động và ít được hỗ trợ bởi các bằng chứng tin cậy. Run Run (tremor) do thuốc có thể là run tư thế, vận động hoặc cả hai. Phản ứng này thường đối xứng và xảy ra cấp tính sau khi dùng thuốc hoặc tăng liều. Một trường hợp ngoại lệ là run thứ phát do valproat, có thể xảy ra trong giai đoạn điều trị ổn định hoặc xuất hiện muộn (hiếm gặp). Nhiều thuốc có thể gây run thứ cấp, bao gồm SSRI, lithi, thuốc chống trầm cảm ba vòng, thuốc chống động kinh (đặc biệt là valproat), thuốc giãn phế quản, amiodaron và thuốc ức chế miễn dịch. Cần chẩn đoán loại trừ các nguyên nhân gây run khác như bệnh Parkinson, run vô căn hoặc cường giáp. Các biện pháp xử trí run bao gồm hiệu chỉnh liều dùng hoặc ngừng thuốc nghi ngờ (nếu có thể), hoặc chuyển sang dùng thuốc thay thế. Nếu cần tiếp tục sử dụng thuốc nghi ngờ gây run, cần tư vấn kỹ cho bệnh nhân về lợi ích và nguy cơ khi dùng thuốc; đồng thời, có thể cân nhắc dùng các thuốc điều trị run vô căn (như propanolol). Hội chứng serotonin Hội chứng serotonin (serotonine syndrome) thứ cấp xuất hiện khi sử dụng các thuốc làm tăng hoạt tính serotonin (bảng 1). Tương tự các hội chứng an thần kinh ác tính khác, hội chứng seretonin có thể xảy ra với mức độ nhẹ hoặc thậm chí đe dọa tính mạng. Các biểu hiện lâm sàng của hội chứng này bao gồm: - Thay đổi trạng thái tâm thần; - Các dấu hiệu quá kích thích thần kinh trung ương: + Rối loạn vận động, bao gồm rung giật cơ, run, nằm ngồi không yên; + Tăng phản xạ bất thường, rung giật, liệt cứng (spasticity) hoặc cứng đờ (rigidity), co giật. - Rối loạn thần kinh thực vật, bao gồm giãn đồng tử, sốt, nhịp tim nhanh. Thay đổi trạng thái tâm thần, rối loạn thần kinh thực vật, và liệt cứng hoặc cứng đờ kèm theo tăng creatin kinase là các dấu hiệu chồng lấp với hội chứng an thần kinh ác tính. Với hội chứng serotonin, quá trình khởi phát thường xảy ra rất nhanh, trong vòng vài giờ thay vì vài ngày, và các dấu hiệu quá kích thích thần kinh trung ương thường nổi bật hơn. Xử trí: Biện pháp xử trí ưu tiên bao gồm ngừng thuốc nghi ngờ và chăm sóc hỗ trợ. Trong trường hợp hội chứng serotonin xảy ra ở mức độ ít nghiêm trọng, có thể dùng cyproheptadin, nếu có đáp ứng lâm sàng thì tiếp tục sử dụng đến khi các triệu chứng thuyên giảm. Với trường hợp nặng, có thể sử dụng các thuốc như benzodiazepin, thuốc đối kháng thụ thể 5 - hydroxytryptamin 2 (như clorpromazin hoặc olanzapin). Rối loạn tăng cao thân nhiệt kiểu Parkinson Rối loạn tăng cao thân nhiệt kiểu Parkinson (Parkinsonism-hyperpyrexia disorder), còn gọi là cơn bất động, là một biến chứng hiếm gặp nhưng có thể gây tử vong của bệnh Parkinson. Các triệu chứng bao gồm diễn biến nặng lên của hội chứng Parkinson (có thể kèm theo bệnh não), tăng cao thân nhiệt, rối loạn thần kinh thực vật và tăng creatin kinase. Rối loạn này Trung tâm DI & ADR Quốc gia 4 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 thường gặp nhất ở bệnh nhân ngừng hoặc giảm liều thuốc điều trị Parkinson. Nhiễm khuẩn hoặc các rối loạn chuyển hóa khác có thể thúc đẩy khởi phát tình trạng này. Các biểu hiện lâm sàng của rối loạn này có thể chồng lấp với hội chứng an thần kinh ác tính. Cần chẩn đoán loại trừ các nguyên nhân khác như nhiễm khuẩn, các bất thường chuyển hóa, hoặc đột quỵ. Thời gian hồi phục có thể kéo dài từ vài giờ đến vài tuần sau khi xử trí. Xử trí: Biện pháp xử trí chính bao gồm sử dụng lại thuốc điều trị Parkinson. Do chứng khó nuốt thường xuất hiện trên bệnh nhân mắc hội chứng Parkinson nghiêm trọng, thuốc thường phải sử dụng qua sonde dạ dày. Có thể cân nhắc tiêm ngắt quãng hoặc truyền liên tục apomorphin trong trường hợp phản ứng ở mức độ trung bình hoặc nặng. Loạn trương lực cơ cấp tính Loạn trương lực cơ cấp tính (acute dystonic reactions) chủ yếu xảy ra ở bệnh nhân trẻ tuổi và xuất hiện sớm sau khi dùng thuốc ức chế thụ thể dopamin, trong đó có thuốc chống nôn (như metoclopramid, proclop- erazin) và thuốc chống loạn thần. Đặc trưng của rối loạn này là co cứng cơ đầu cổ cấp tính, ngoài ra có thể xuất hiện cơn vận nhãn, tình trạng co cứng thân dẫn đến tư thế ưỡn cong, rối loạn trương lực cơ chân tay. Loạn trương lực cơ thanh quản cấp tính có thể dẫn đến tắc nghẽn đường hô hấp, đe dọa tính mạng và cần cấp cứu ngay lập tức. Xử trí: Ngừng thuốc nghi ngờ, tiêm tĩnh mạch hoặc tiêm bắp thuốc kháng chol inergic (benzatropin hoặc trihexyphenidyl hydroclorid). Do thuốc dùng đường tiêm tĩnh mạch có thời gian bán thải ngắn, cần dùng thêm một đợt điều trị ngắn thuốc kháng cholinergic đường uống sau đó. Các benzodiazepin cũng có thể được sử dụng. Không tái sử dụng thuốc nghi ngờ vì nguy cơ tái phát phản ứng loạn trương lực cơ. Cần tư vấn để bệnh nhân biết về nguy cơ này. Hội chứng an thần kinh ác tính Hội chứng an thần kinh ác tính (neuroleptic malignant syndrome) là phản ứng có hại có khả năng đe dọa tính mạng, gây ra do thuốc chống loạn thần điển hình và không điển hình cũng như các thuốc kháng thụ thể dopamin khác, bao gồm tetrabenazin, lithi và thuốc chống nôn như metoclopramid. Gần đây, tiêu chuẩn chẩn đoán dựa trên đồng thuận Delphi đã được đưa ra, bao gồm: Dùng thuốc đối kháng thụ thể dopamin hoặc ngừng dùng thuốc chủ vận thụ thể dopamin trong vòng 72 giờ trước đó; Sốt (ít nhất 2 đợt sốt trên 38oC); Cứng đờ; Thay đổi trạng thái tâm thần; Tăng creatin kinase; Rối loạn thần kinh thực vật (bao gồm tăng chuyển hóa: Nhịp tim nhanh, nhịp thở nhanh); Loại trừ nguyên nhân khác. Ngoài tăng creatin kinase, xét nghiệm cũng cho thấy tăng bạch cầu, rối loạn điện giải, suy thận, xét nghiệm chức năng gan bất thường và rối loạn đông máu. Hội chứng cũng có thể xảy ra ở mức độ nhẹ hơn và không có các biểu hiện lâm sàng trên. No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 5 Cần có các bác sĩ chuyên khoa đánh giá để chẩn đoán phân biệt (như hội chứng serotonin) và chẩn đoán xác định. Ví dụ, hội chứng serotonin thường khởi phát cấp tính hơn hội chứng an thần kinh ác tính. Trong hội chứng an thần kinh ác tính, bệnh nhân thường bị cứng đờ; còn rung giật cơ, tăng phản xạ bất thường kèm giật rung, và giãn đồng tử thường gặp hơn ở hội chứng serotonin. Xử trí: Bệnh nhân cần nhập viện điều trị ngay nếu nghi ngờ gặp hội chứng an thần kinh ác tính. Biện pháp xử trí bao gồm gồm ngừng ngay thuốc nghi ngờ, chăm sóc hỗ trợ (có thể chăm sóc tích cực trong trường hợp nặng), dùng thuốc tác dụng trên hệ dopaminergic như bromocriptin. Có thể tiêm dưới da apomorphin. Có thể sử dụng benzodi- azepin để giảm tình trạng tiêu cơ vân và cải thiện tình trạng cứng đờ. Hội chứng thường đạt trạng thái ổn định sau đó cải thiện trong vòng 2-3 tuần sau khi khởi phát. Do đó, cần tiếp tục sử dụng bromocriptin trong vài tuần để chắc chắn hội chứng đã hồi phục. Cần tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên khoa tâm thần khi xem xét tái sử dụng thuốc chống loạn thần cho bệnh nhân. CÁC RỐI LOẠN BÁN CẤP TÍNH Rối loạn bán cấp tính do thuốc có thể xảy ra trong vài ngày đến vài tuần sau khi sử dụng thuốc. Một số hội chứng được liệt kê ở bảng 1 có thể xảy ra bán cấp tính. Các rối loạn này thường có đáp ứng khi ngừng thuốc nghi ngờ. Hội chứng Parkinson Hội chứng Parkinson do thuốc (parkinsonism) đặc trưng bởi vận động chậm, cứng đờ và rối loạn tư thế. Thuốc là nguyên nhân phổ biến thứ 2 gây ra hội chứng Parkinson sau bệnh Parkinson tự phát. Một số thuốc liên quan đến hội chứng Parkinson được liệt kê trong bảng 1. Khác với bệnh Parkinson tự phát, hội chứng Parkinson do thuốc thường có biểu hiện cứng đờ mất vận động có tính chất đối xứng, khởi phát sau khi sử dụng thuốc vài ngày, vài tuần hoặc vài tháng. Hội chứng này đáp ứng kém với thuốc điều trị Parkinson điển hình (như levodopa, thuốc chủ vận thụ thể dopamin và thuốc kháng cholinergic). Việc ngừng thuốc nghi ngờ thường giúp các triệu chứng hồi phục hoàn toàn. Một số độc chất cũng có thể gây ra hội chứng Parkinson, bao gồm 1 - m e t h y l - 4 - p h e n y l - 1 , 2 , 3 , 6 - tetrahydropyridin (MPTP), thuốc trừ sâu phospho hữu cơ, mangan, methanol, cyanid, carbon monoxid, carbon disulfit. Khác với thuốc, các độc tố thường phá hủy cấu trúc hạch nền không hồi phục, có thể quan sát được trên kết quả chụp cộng hưởng từ (MRI). Rối loạn vận động do levodopa Levodopa là nguyên nhân phổ biến g â y r ố i l o ạ n v ậ n đ ộ n g (levodopa-induced dyskinesia) ở bệnh nhân Parkinson. Cơ chế của rối loạn này nhiều khả năng do tương quan giữa giảm số lượng thụ thể dopamin và đáp ứng của cơ thể đối với levodopa, hơn là chỉ do quá liều levodopa. Các yếu tố nguy cơ của rối loạn vận động bao gồm khởi phát bệnh Parkinson khi còn trẻ, dùng levodopa liều cao, cân nặng thấp, tình trạng bệnh nặng. Khai thác chi tiết tiền sử giúp xác định thời điểm khởi phát và khoảng thời gian xảy ra rối loạn vận động, từ đó làm căn cứ để Trung tâm DI & ADR Quốc gia 6 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 hiệu chỉnh liều levodopa. Tùy thuộc thời gian xảy ra rối loạn vận động, thường có thể giảm liều dùng levodopa mà vẫn đảm bảo hiệu quả điều trị. Với rối loạn vận động nhẹ, không gây khó chịu cho bệnh nhân và không ảnh hưởng đến các chức năng của cơ thể, có thể không cần hiệu chỉnh liều levodopa. Có thể sử dụng amantadin để kiểm soát rối loạn vận động do levodopa. Với bệnh nhân ở giai đoạn sau của bệnh, cần chuyển bệnh nhân đến bác sĩ chuyên khoa để xem xét việc điều trị bằng các thiết bị hỗ trợ. RỐI LOẠN VẬN ĐỘNG MUỘN Rối loạn vận động muộn (tardive d ... 76- 1. 3. FDA (2019), “FDA updates table of interim limits for nitrosamine impurities in ARBs”, accessed on 8/10/2019. 4. EMA (2019), “Sartan medicines: companies to review manufacturing processes to avoid presence of nitrosamine impurities”, accessed on 08/10/2019. 5. Cục Quản lý Dược, Công văn số 16813/ QLD-CL về việc về việc phát hiện thuốc chứa Ranitidine có chứa tạp chất NDMA vượt giới hạn cho phép, 16814/QLD-CL về việc về việc thu hồi thuốc chứa Ranitidine có chứa tạp chất NDMA vượt giới hạn cho phép, ngày 02/10/2019. 6. FDA (2019), “FDA announces voluntary recall of Sandoz ranitidine capsules following detection of an impurity”, dated 24/9/2019. 7. Health Canada (2019), “Health Canada requests that companies stop distributing ranitidine drugs in Canada while it assesses NDMA; additional products being recalled”, dated 26/9/2019. 8. EMA (2018), “EMA reviewing medicines containing valsartan from Zhejiang Huahai following detection of an impurity: some valsartan medicines being recalled across the EU”, dated 05/07/2018. 9. HSA (2019), “HSA Stops Supply of Eight Brands of Ranitidine Products in Singapore”, accessed on 08/10/2019. 10. TGA (2019), “Ranitidin -Update- c o n t a m i n a t i o n w i t h N-ni t rosod imethy lamine” , dated 22/10/2019. TæNG KÕT HO¹T §éNG B¸O C¸O PH¶N øNG Cã H¹I CñA THUèC (tõ th¸ng 11/2018 ®Õn th¸ng 7/2019) Trần Ngân Hà Trong 9 tháng (từ tháng 11/2018 đến hết tháng 7/2019), Trung tâm DI & ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí Minh đã tiếp nhận 9375 báo cáo ADR (tăng 5,4% so với cùng kỳ năm 2018). Trong đó, 8337 báo cáo ADR được gửi từ các cơ sở khám, chữa bệnh và 1087 báo cáo ADR xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm (trong đó có 49 báo cáo trùng với báo cáo từ các cơ sở khám, chữa bệnh). Số lượng báo cáo ADR luỹ tiến theo tháng được thể hiện trong hình 1. Số lượng báo cáo ADR tương đối đồng đều giữa các tháng, trong đó số lượng báo cáo thấp nhất vào tháng 2 (713 báo cáo) và nhiều nhất vào tháng 4 (1257 báo cáo). Báo cáo ADR từ các cơ sở khám, chữa bệnh 759 cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của 63 tỉnh, thành phố trong cả nước đã gửi báo cáo ADR. Phần lớn báo cáo được gửi từ các đơn vị ở vùng Đồng bằng sông Hồng; Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung; và Đông Nam Bộ, từ các bệnh viện tuyến tỉnh, bệnh viện đa khoa và bệnh viện thuộc khối công lập (hình 2). Trong đó, thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có số lượng báo cáo cao nhất (tương ứng 18,0% và 17,5% tổng số báo cáo nhận được của cả nước). Thành phố Đà Nẵng là địa phương có công tác báo cáo ADR hiệu quả nhất với số báo cáo/1 triệu dân cao nhất trong cả nước (456,2 báo cáo/1 triệu dân) (hình 3). Các đơn vị có số lượng báo cáo ADR cao tập trung tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch và Bệnh viện Phổi Trung ương là hai đơn vị có số báo cáo ADR nhiều nhất trong cả nước, cùng chiếm 2,6% tổng số báo cáo ADR từ các đơn vị khám, chữa bệnh (bảng 1). Trung tâm DI & ADR Quốc gia 12 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 S ố l ư ợ n g b á o c á o A D R Tháng Hình 1: Số lượng báo cáo ADR từ tháng 11/2018 đến tháng 7/2019 Hình 2: Phân loại báo cáo ADR theo vị trí địa lý, tuyến và loại hình đơn vị No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 13 Cán bộ y tế tham gia gửi báo cáo chủ yếu là dược sĩ (46,3%), bác sĩ - y sĩ (23,9%) và tiếp theo là điều dưỡng và nữ hộ sinh (21,9%) (hình 4). S ố l ư ợ n g b á o c á o A D R /1 t ri ệu d â n * Dân số tính theo số liệu sơ bộ của Tổng cục Thống kê năm 2018 Hình 3: 10 tỉnh/thành phố gửi báo cáo ADR nhiều nhất Bảng 1: Danh sách 10 cơ sở khám, chữa bệnh gửi báo cáo ADR nhiều nhất STT Đơn vị gửi báo cáo Tỉnh/ thành phố Số báo cáo Tỷ lệ % (n=8337) 1 Bệnh viện Phạm Ngọc Thạch TP. Hồ Chí Minh 214 2,6 2 Bệnh viện Phổi Trung ương Hà Nội 213 2,6 3 Bệnh viện Bạch Mai Hà Nội 206 2,5 4 Bệnh viện Lao và Bệnh Phổi Nghệ An Nghệ An 174 2,1 5 Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City Hà Nội 156 1,9 6 Bệnh viện Việt Nam - Thụy Điển Uông Bí Quảng Ninh 149 1,8 7 Bệnh viện Quốc tế Vinh Nghệ An 143 1,7 8 Bệnh viện Đa khoa Đà Nẵng Đà Nẵng 135 1,6 9 Bệnh viện Từ Dũ TP. Hồ Chí Minh 129 1,5 10 Bệnh viện Phụ Sản MêKông TP. Hồ Chí Minh 121 1,5 Hình 4: Nhân viên y tế gửi báo cáo ADR Trung tâm DI & ADR Quốc gia 14 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 Trong số 8337 báo cáo, có 42 báo cáo về chất lượng thuốc và 01 báo cáo loại khác. Vì vậy, thông tin về thuốc nghi ngờ được thống kê trên 8295 báo cáo. Tổng số thuốc nghi ngờ được báo cáo là 10179 thuốc (tương ứng tỷ lệ 1,22 thuốc/1 báo cáo). Phản ứng có hại xảy ra chủ yếu khi sử dụng thuốc theo đường tiêm/truyền tĩnh mạch (48,6%). Các thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo thuộc 3 nhóm chính: kháng sinh (cefotaxim, ceftriaxon, ciprofloxacin, ceftazidim, ampicilin/ chất ức chế betalactamase, vancomycin và levofloxacin), các thuốc điều trị lao (r i fampic in/ isoniazid/pyrazinamid và ethambutol), và thuốc giảm đau, chống viêm (diclofenac). Cefotaxim vẫn là thuốc nghi ngờ gây ra ADR được báo cáo nhiều nhất với tỷ lệ 8,9% (bảng 2). STT Hoạt chất Số lượng Tỷ lệ % (n=8295) 1 Cefotaxim 737 8,9 2 Diclofenac 547 6,6 3 Ceftriaxon 497 6,0 4 Ciprofloxacin 438 5,3 5 Rifampicin/isoniazid/pyrazinamid 392 4,7 6 Ethambutol 365 4,4 7 Ceftazidim 275 3,3 8 Ampicilin/chất ức chế men betalactamase 272 3,3 9 Vancomycin 234 2,8 10 Levofloxacin 212 2,6 Bảng 2: Danh sách 10 thuốc nghi ngờ gây ADR được báo cáo nhiều nhất Báo cáo ADR từ các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm Trong giai đoạn từ tháng 11/2018 đến tháng 7/2019, 32 đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã gửi báo cáo ADR và 38 đơn vị sản xuất và kinh doanh dược phẩm đã gửi báo cáo tổng hợp định kỳ về Trung tâm DI & ADR Quốc gia và Trung tâm DI & ADR khu vực TP. Hồ Chí Minh. Tổng số báo cáo ADR xảy ra tại Việt Nam đã được các đơn vị sản xuất, kinh doanh dược phẩm ghi nhận là 1087 báo cáo, trong đó có 496 báo cáo nghiêm trọng (chiếm 45,6%). Các chế phẩm đang được lưu hành trên thị trường được báo cáo nhiều nhất bao gồm erlotinib (11,8%), sorafenib (8,2%), dung dịch thẩm phân màng bụng (6,3%) và imatinib (5,1%). Báo cáo SAE từ các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng Từ tháng 11/2018 đến hết tháng 7/2019, Trung tâm DI & ADR Quốc gia đã nhận được 1426 báo cáo biến cố bất lợi nghiêm trọng (SAE) trong 70 nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng được gửi đến từ 47 tổ chức nhận thử tại Việt Nam. Kết luận Như vậy, số lượng báo cáo ADR trong khoảng thời gian 9 tháng (từ tháng 11/2018 đến tháng 7/2019) vẫn có xu hướng tăng so với cùng kỳ năm 2018, tuy nhiên cơ cấu báo cáo ADR vẫn tương tự so với giai đoạn trước đó. Cụ thể, số lượng báo cáo không đồng đều giữa các địa phương, khu vực và các tuyến bệnh viện; dược sĩ là đối tượng chính tham gia báo cáo ADR. Bên cạnh việc báo cáo ADR của các thuốc được sử dụng nhiều (thuốc kháng sinh, thuốc điều trị lao, thuốc giảm đau, chống viêm) và các phản ứng có hại thông thường (dị ứng ngoài da, phản ứng phản vệ/sốc phản vệ), cán bộ y tế cần tập trung báo cáo phản ứng có hại của các thuốc mới được sử dụng tại đơn vị, phản ứng có hại mới chưa được ghi nhận và các phản ứng có hại cần xét nghiệm cận lâm sàng hoặc thăm dò chức năng chuyên biệt. Trung tâm DI & ADR Quốc gia xin trân trọng cảm ơn sự hợp tác của các đơn vị và cán bộ y tế đã tham gia báo cáo ADR và mong muốn tiếp tục nhận được sự phối hợp để triển khai hiệu quả hoạt động giám sát ADR. No.3 - 2019| Bulletin of Pharmacovigilance| 15 §IÓM TIN C¶NH GI¸C DUîC Nguyễn Thị Tuyến, Lương Anh Tùng Các biện pháp mới dự phòng nguy cơ tử vong do sai sót về liều dùng methotrexat trong điều trị các bệnh lý viêm: Khuyến cáo từ EMA Ngày 23/8/2019, Cơ quan Quản lý Dược phẩm châu Âu (EMA) khuyến cáo áp dụng các biện pháp mới để dự phòng sai sót nghiêm trọng, có thể gây tử vong, liên quan đến liều dùng methotrexat trong điều trị các bệnh lý viêm như viêm khớp dạng thấp, vảy nến và bệnh Crohn. Các khuyến cáo được ra dựa trên kết quả rà soát các báo cáo về việc bệnh nhân sử dụng methotrexat không đúng cách, mặc dù đã thực hiện các biện pháp dự phòng sai sót trước đó. Đối với bệnh lý viêm, methotrexat cần được sử dụng 1 lần/tuần. Việc sử dụng thuốc thường xuyên hơn có thể dẫn đến các biến cố bất lợi nghiêm trọng. Cuộc rà soát của EMA cho thấy sai sót về số lần dùng thuốc có thể xảy ra trong tất cả các giai đoạn từ khi kê đơn đến khi bệnh nhân sử dụng thuốc. Các biện pháp dự phòng sai sót mới bao gồm giới hạn các cán bộ y tế được phép kê đơn methotrexat, bổ sung cảnh báo nổi bật hơn trên nhãn thuốc và cung cấp tài liệu giáo dục cho bệnh nhân và nhân viên y tế. Ngoài ra, để hỗ trợ bệnh nhân dùng thuốc 1 lần/tuần, các viên thuốc sẽ được đóng dạng vỉ thay vì đóng vào lọ. Các biện pháp này đã được đồng thuận sau khi tham khảo ý kiến một số đại diện cán bộ y tế và bệnh nhân. Khuyến cáo dành cho cán bộ y tế: Methotrexat điều trị các tình trạng viêm thường chỉ sử dụng 1 lần/tuần. Các phản ứng có hại nghiêm trọng, bao gồm tử vong, đã xảy ra khi sử dụng thuốc này thường xuyên hơn. Methotrexat chỉ nên được kê đơn bởi bác sĩ có chuyên môn và kinh nghiệm về việc sử dụng thuốc này. Cán bộ y tế kê đơn hoặc cấp phát methotrexat để điều trị viêm nên: Đọc kỹ tài liệu giáo dục về việc sử dụng methotrexat đường uống; Đảm bảo tuân thủ Hướng dẫn sử dụng thuốc cập nhật nhất của methotrexat khi điều trị các bệnh lý viêm; Hướng dẫn rõ ràng cho người bệnh dùng liều 1 lần/tuần; Kiểm tra cẩn thận để đảm bảo bệnh nhân (hoặc người chăm sóc) đã hiểu được thuốc này cần được dùng 1 lần/tuần, và kiểm tra lại điều này mỗi lần kê đơn thuốc mới hoặc khi cấp phát thuốc; Tư vấn cho bệnh nhân (hoặc người chăm sóc) về các dấu hiệu quá liều methotrexat và hướng dẫn họ tìm kiếm hỗ trợ y tế khẩn cấp trong trường hợp nghi ngờ quá liều. Thuốc chống đông đường uống tác động trực tiếp và nguy cơ biến cố huyết khối tái phát: Cảnh báo từ TGA Ngày 26/8/2019, Cơ quan Quản lý các Sản phẩm Điều trị Úc (TGA) đã đưa ra cảnh báo về các thuốc chống đông đường uống tác động trực tiếp (DOAC) và nguy cơ các biến cố huyết khối tái phát. Cán bộ y tế được khuyến cáo rằng Tờ hướng dẫn sử dụng của các thuốc chống đông đường uống tác động trực tiếp lưu hành tại Úc sẽ được cập nhật thông tin mới về gia tăng nguy cơ biến cố huyết khối tái phát ở bệnh nhân mắc hội chứng antiphospholipid (APS). Các thuốc DOAC lưu hành tại Úc bao gồm apixaban (tên thương mại Eliquis), dabigatran etexilat (Pradaxa) và rivaroxaban (Xarelto). Theo kết quả rà soát của EMA, việc sử dụng các thuốc DOAC ở bệnh nhân mắc hội chứng antiphospholipid có thể liên quan đến gia tăng tỷ lệ biến cố huyết khối tái phát so Trung tâm DI & ADR Quốc gia 16 | Bản tin Cảnh giác dược | Số 3 -2019 với việc điều trị bằng thuốc kháng vitamin K. Mức độ bằng chứng tăng nguy cơ này khác nhau giữa các thuốc, nhưng không có đủ bằng chứng cho thấy bất kỳ DOAC nào cũng an toàn cho bệnh nhân mắc hội chứng antiphospholipid, đặc biệt ở bệnh nhân có nguy cơ cao như dương tính với cả 3 loại kháng thể lupus anticoagulant, anticardiolipin và anti-beta2-glycoprotein I. TGA đã rà soát vấn đề an toàn trên và đang làm việc với nhà cung cấp để cập nhật tờ Hướng dẫn sử dụng của apixaban, dabigatran etexilat và rivaroxaban về nguy cơ trên. Thay đổi tên của các thuốc chứa liposom để ngăn ngừa sai sót trong sử dụng thuốc: Khuyến cáo từ EMA Ngày 31/7/2019, EMA thông báo tất cả các cơ sở đăng ký thuốc chứa hệ mang thuốc liposom được yêu cầu nộp hồ sơ thay đổi tên cho các thuốc này để ngăn ngừa sai sót liên quan đến việc sử dụng thuốc. Khuyến cáo này do CHMP và Nhóm điều phối thuốc sử dụng trên người được phê duyệt theo quy trình không tập trung và thừa nhận lẫn nhau (CMDh) đưa ra trong cuộc họp vào tháng 7/2019. Mục đích của việc thay đổi tên nhằm phân biệt rõ chế phẩm có hệ mang thuốc liposom hay không. Nguyên nhân do hai công thức này có thể có đặc tính phân phối và giải phóng thuốc khác nhau, và sai sót khi nhầm lẫn hai dạng bào chế trong sử dụng thuốc có thể gây tác hại nghiêm trọng cho bệnh nhân. Cho đến nay, chưa có thống nhất trong việc đặt tên các thuốc có công thức bào chế chứa hệ mang thuốc liposom hoặc liposome PEG hóa (pegylated liposomal). Khi tên các thuốc chứa liposom được thay đổi, bệnh nhân và cán bộ y tế có thể phân biệt rõ hơn các dạng thuốc này so với dạng thuốc quy ước không chứa liposom. Đây là vấn đề đặc biệt quan trọng khi bệnh viện sử dụng công cụ kê đơn và cấp phát thuốc điện tử, các dạng thuốc này có thể bị nhầm với dạng thuốc không chứa liposom. Sau khi ghi nhận một số báo cáo về sai sót trong sử dụng thuốc, bao gồm cả trường hợp tử vong, và có sự tư vấn của Ủy ban Đánh giá Nguy cơ Cảnh giác dược (PRAC), CHMP và CMDh đồng thuận đưa ra quy định để giảm thiểu nguy cơ nhầm lẫn các thuốc này như sau: - Trong Tóm tắt đặc tính sản phẩm, thuật ngữ “liposomal” hoặc “pegylated liposomal” cần được bổ sung sau tên thuốc và trước nồng độ. - Trong trường hợp thuốc được phê duyệt với tên “danh pháp quốc tế (INN) + tên công ty/nhãn hiệu”, “liposomal” hoặc “pegylated liposomal” được bổ sung giữa INN và tên công ty/nhãn hiệu trong Tóm tắt đặc tính sản phẩm. - Thuật ngữ “hệ phân tán” theo quy ước của EDQM, hiện đã bao gồm khái niệm liposom, nên được dùng thống nhất trong thông tin sản phẩm. Chỉ sử dụng chất ly giải vi khuẩn đông khô (bacterial lysate) để dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp tái phát: Khuyến cáo từ EMA Ngày 28/6/2019, EMA khuyến cáo các thuốc chứa bacterial lysate, được cấp phép điều trị một số bệnh lý hô hấp, chỉ nên được sử dụng để dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp tái phát ngoại trừ viêm phổi. Khuyến cáo này được đưa ra sau một cuộc rà soát các thuốc chứa bacterial lysate. Kết quả rà soát cho thấy không có đủ bằng chứng chứng minh các thuốc này có hiệu quả trong điều trị nhiễm khuẩn hô hấp hoặc dự phòng viêm phổi, do đó không nên sử dụng cho các mục đích này. Trong cuộc rà soát này, Ủy ban các Sản phẩm thuốc Sử dụng cho người (CHMP) đã cân nhắc kết quả của các nghiên cứu lâm sàng, dữ liệu về báo cáo phản ứng có hại của thuốc, và khuyến cáo từ một nhóm chuyên gia về các bệnh nhiễm trùng. Mặc dù dữ liệu còn hạn chế, cuộc rà soát này đã chỉ ra một số bằng chứng về hiệu quả của thuốc trong dự phòng nhiễm khuẩn hô hấp tái phát và dữ liệu an toàn phù hợp với y văn. Do đó, CHMP khuyến cáo có thể tiếp tục sử dụng các thuốc này để dự phòng, tuy nhiên các công ty phải cung cấp thêm dữ liệu về an toàn và hiệu quả từ các nghiên cứu lâm sàng mới vào năm 2026. Hướng dẫn sử dụng của các thuốc này cũng sẽ được cập nhật về chỉ định mới này và cảnh báo không sử dụng thuốc này để dự phòng viêm phổi.
File đính kèm:
- ban_tin_canh_giac_duoc_so_32019.pdf