Bàn về vấn đề bảo tồn và khai thác nguồn lợi hải sản từ góc nhìn văn hóa

Tóm tắt Việt Nam thời kỳ đương đại là một quốc gia biển với một tỷ lệ lớn cư dân

sống nhờ vào biển. Trong đó, phải kể đến hơn hai triệu ngư dân khai thác

nguồn lợi hải sản trên Biển Đông. Song song với sự tăng trưởng kinh tế, tình

trạng suy thoái các hệ sinh thái và tài nguyên biển do khai thác quá mức,

đánh bắt hủy diệt đang trở thành vấn đề cần quan tâm không chỉ trên phương

diện kinh tế, môi trường mà còn từ góc nhìn văn hóa. Có thể nói rằng cội

nguồn của người Việt là từ nền văn minh lúa nước sông Hồng, việc tiến ra

biển đồng hành cùng quá trình mở mang bờ cõi về phía đông và phía nam.

Dù đã trải qua nhiều trăm năm tiến ra biển, người Việt vẫn mang văn hóa

nông dân trong ứng xử với biển. Người Việt nói chung và ngư dân nói riêng

vẫn có tâm lý coi biển cả là bí hiểm và hung dữ. Vì vậy, việc cúng tế trước

khi ra biển và thờ phụng một số sinh vật biển (cá voi, cá heo, rùa da) rất phổ

biến. Nhờ vậy, một số sinh vật quý hiếm, bị đe dọa tuyệt chủng được bảo tồn

trên vùng biển Việt Nam. Ngược lại, quan điểm “điền tư, ngư chung”, tư duy

“không có ngày mai”, cuộc sống di cư đã hình thành một số ứng xử tiêu

cực trong bảo tồn và khai thác tài nguyên và tạo nên tính dễ bị tổn thương

của ngư dân Việt Nam. Những khía cạnh văn hóa này cần được quan tâm

trong việc xây dựng và triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội liên

quan đến ngư dân.

pdf 5 trang yennguyen 4960
Bạn đang xem tài liệu "Bàn về vấn đề bảo tồn và khai thác nguồn lợi hải sản từ góc nhìn văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bàn về vấn đề bảo tồn và khai thác nguồn lợi hải sản từ góc nhìn văn hóa

Bàn về vấn đề bảo tồn và khai thác nguồn lợi hải sản từ góc nhìn văn hóa
103 
Tuyển Tập Nghiên Cứu Biển, 2015, tập 21, số 1: 103-107 
TRAO ĐỔI – COMMUNICATION 
BÀN VỀ VẤN ĐỀ BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC NGUỒN LỢI HẢI SẢN 
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA 
Võ Sĩ Tuấn 
Viện Hải dương học, Viện Hàn lâm Khoa học & Công nghệ Việt Nam 
Tóm tắt Việt Nam thời kỳ đương đại là một quốc gia biển với một tỷ lệ lớn cư dân 
sống nhờ vào biển. Trong đó, phải kể đến hơn hai triệu ngư dân khai thác 
nguồn lợi hải sản trên Biển Đông. Song song với sự tăng trưởng kinh tế, tình 
trạng suy thoái các hệ sinh thái và tài nguyên biển do khai thác quá mức, 
đánh bắt hủy diệt đang trở thành vấn đề cần quan tâm không chỉ trên phương 
diện kinh tế, môi trường mà còn từ góc nhìn văn hóa. Có thể nói rằng cội 
nguồn của người Việt là từ nền văn minh lúa nước sông Hồng, việc tiến ra 
biển đồng hành cùng quá trình mở mang bờ cõi về phía đông và phía nam. 
Dù đã trải qua nhiều trăm năm tiến ra biển, người Việt vẫn mang văn hóa 
nông dân trong ứng xử với biển. Người Việt nói chung và ngư dân nói riêng 
vẫn có tâm lý coi biển cả là bí hiểm và hung dữ. Vì vậy, việc cúng tế trước 
khi ra biển và thờ phụng một số sinh vật biển (cá voi, cá heo, rùa da) rất phổ 
biến. Nhờ vậy, một số sinh vật quý hiếm, bị đe dọa tuyệt chủng được bảo tồn 
trên vùng biển Việt Nam. Ngược lại, quan điểm “điền tư, ngư chung”, tư duy 
“không có ngày mai”, cuộc sống di cư đã hình thành một số ứng xử tiêu 
cực trong bảo tồn và khai thác tài nguyên và tạo nên tính dễ bị tổn thương 
của ngư dân Việt Nam. Những khía cạnh văn hóa này cần được quan tâm 
trong việc xây dựng và triển khai các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội liên 
quan đến ngư dân. 
CHAT ON CONSERVATION AND EXPLOITATION OF MARINE LIVING 
RESOURCES FROM THE CULTURAL SIGHT 
Vo Si Tuan 
Institute of Oceanography, Vietnam Academy of Science & Technology 
Abstract Vietnam in the recent period is a marine nation with a large number of 
population depending on marine resources, including 2 millions of fishermen 
who exploit living resources in the Bien Dong. In parallel with economic 
development of the country, the degradation of marine ecosystems and living 
resources due to over-catching and unreasonable fishing have become more 
serious; and should be considered in economic, environmental and cultural 
aspects. Having said that Vietnamese originated from the rice field 
civilization of Red river and proceeded to the sea on the way of expansion 
eastward and southward. Spending hundreds years of marine exploitation 
Vietnamese has still behaved toward the sea as farmers' style. They are 
frightened in facing to the sea which is considered as a furious and 
mysterious force. It is observed popularly sacrifices before sailing to the sea 
104 
and worship to a number of sea animals such as whale, dolphin and marine 
turtle. These behaviors support to conservation of a lot of endangered 
species in Vietnamese waters. In contrast, the approach namely "private land 
but shared waters", thinking as short-sighted view and life style of migrating 
people seem to create a number of negative behaviors in resource 
exploitation and then make fishermen more vulnerable. It is critical to 
consider these cultural aspects in the planning and performance of 
programmes for socio-economic development related to fishermen in 
Vietnam. 
I. MỞ ĐẦU 
Biển Đông có ý nghĩa lớn đối với Việt Nam 
trên nhiều phương diện, trong đó khai thác 
hải sản mang lại sản lượng khoảng 1 triệu 
tấn/năm, là nguồn cung cấp protein bảo 
đảm an ninh thực phẩm cho người dân 
trong nước và đóng góp lớn cho xuất khẩu 
của quốc gia. Nghề khai thác hải sản không 
chỉ mang lại giá trị kinh tế mà còn giải 
quyết việc làm cho cư dân ở các vùng ven 
biển, bao gồm 2 triệu ngư dân và nhiều 
thành phần kèm theo như dịch vụ, chế 
biến Sự hiện hiện của ngư dân trên biển 
góp phần khẳng định chủ quyền quốc gia 
trong tình hình tranh chấp phức tạp trên 
Biển Đông hiện nay. 
 Tuy nhiên, cũng phải nhận thức rằng tài 
nguyên và môi trường trên Biển Đông đang 
trong tình trạng suy thoái, trong đó suy 
thoái hệ sinh thái là vấn đề môi trường ưu 
tiên nhất, đặc biệt đối với rừng ngập mặn và 
rạn san hô và khai thác thủy sản quá mức 
được xếp hạng là vấn đề môi trường ưu tiên 
tiếp theo, nhất là đối với khai thác hải sản 
(theo báo cáo Đánh giá Chẩn đoán xuyên 
Biên giới, Talaue-McManus, 2000). Trước 
tình trạng suy thoái tài nguyên, Việt Nam 
cùng các quốc gia trong khu vực đã có 
nhiều nỗ lực trong sự nghiệp bảo tồn thiên 
nhiên, quản lý khai thác bền vững. Tuy 
nhiên, hiệu quả chưa đạt như mong muốn 
và nhiều chính sách quản lý chưa thực sự đi 
vào cuộc sống, do vậy, tình trạng suy thoái 
được dự báo sẽ vẫn tiếp tục diễn ra. Một 
trong những vấn đề được coi là nguyên 
nhân là các nhà quản lý ít quan tâm đến các 
vấn đề văn hóa xã hội trong việc thực thi 
các giải pháp quản lý. Một số khía cạnh liên 
quan đến vấn đề đó được thảo luận trong 
bài viết này. 
II. VIỆT NAM VÀ BIỂN ĐÔNG 
Biển Việt Nam là một thành tố quan trọng 
của Biển Đông không chỉ về diện tích vùng 
đặc quyền kinh tế (gần 30% tổng diện tích) 
mà còn cả về phương diện sinh thái và 
nguồn lợi (Bảng 1). Lưu ý rằng ngoài ý 
nghĩa về sinh thái học, các hệ sinh thái như 
rừng ngập mặn, rạn san hô, thảm cỏ biển 
còn là nơi sinh sản và ương giống của nhiều 
thủy sinh vật. Đây chính là nơi cung cấp 
nguồn giống bổ sung cho trữ lượng của các 
loài khai thác. Điều cần chú ý là các vùng 
ương nuôi giống ở vùng biển ven bờ không 
chỉ tạo nên trữ lượng cho ngư trường gần 
bờ của từng quốc gia mà có thể cho các ngư 
trường xa bờ và của các quốc gia khác. Suy 
thoái rừng ngập mặn ở Việt Nam có thể ảnh 
hưởng đến sản lượng đánh bắt ở các vùng 
biển Thái Lan hoặc Malaysia và ngược lại. 
Sự suy thoái của các rạn san hô, thảm cỏ 
biển còn có thể ảnh hưởng đến du lịch biển 
và làm mất nơi sống theo từng giai đoạn 
của các loài di cư như rùa biển, dugong. 
 Có thể thấy rằng Việt Nam đương đại là 
một quốc gia biển và Biển Đông đóng vai 
trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển 
hướng tới mục tiêu dân giàu nước mạnh. 
Mặt khác, cũng phải nhận thức rằng nếu 
Việt Nam không quản lý hiệu quả tài 
nguyên và môi trường biển thì hậu quả 
không chỉ Việt Nam gánh chịu mà còn ảnh 
hưởng đến các quốc gia khác. Tương tự suy 
thoái tài nguyên môi trường biển của các 
nước lận cận cũng sẽ gây tác động tiêu cực 
cho nước ta (Võ Sĩ Tuấn, 2008). 
105 
Bảng 1. Vai trò Biển Đông đối với Việt Nam 
Table 1. Role of the Bien Dong to Vietnam 
Thông số so sánh Biển Đông Việt Nam Tỷ lệ (%) 
Diện tích vùng biển (triệu km2)* 3,5 1,0 <30 
Các con sông lớn chảy vào Biển Đông* 19 3 <15 
Dân số ở đới bờ (triệu người)* 200 50 25 
Sản lượng thủy sản đánh bắt (triệu tấn)* 5 1 20 
Diện tích rừng ngập mặn (ngàn ha)** 1.798,4 156,6 <10 
Diện tích rạn san hô (không tính vùng biển khơi; 
ngàn ha)** 
750 110 15 
Diện tích thảm cỏ biển (ngàn ha)** 80,3 14,4 <20 
Số khu bảo tồn biển và ven biển* 120 22 >20 
Chú thích: Các dẫn liệu được tham khảo từ UNEP (2005)*; UNEP/GEF/SCS (2007)** 
III. VĂN HÓA VIỆT VÀ VẤN ĐỀ BẢO 
TỒN KHAI THÁC HỢP LÝ TÀI 
NGUYÊN HẢI SẢN 
Lực lượng ngư dân bám biển hiện nay của 
Việt Nam chủ yếu là người Kinh, vì vậy, 
nhìn nhận về văn hóa liên quan khai thác tài 
nguyên biển được định hướng theo cội 
nguồn dân tộc Việt. Mạo muội nói rằng cội 
nguồn của người Việt là từ nền văn minh 
lúa nước sông Hồng với đặc trưng là sản 
xuất nông nghiệp với mảnh đất thửa ruộng 
do tự gia đình quản lý và khai thác. Việc 
tiến ra biển của người Việt đồng hành cùng 
quá trình mở mang bờ cõi về phía đông và 
phía nam trong nhiều trăm năm qua, mà 
Nguyễn Công Trứ (1778–1858) có thể được 
coi là một trong những người tiên phong. 
Ông đã có sáng kiến chiêu mộ dân nghèo, 
quai đê lấn biển, lập ấp, khai sinh các huyện 
Kim Sơn (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay), 
Tiền Hải (thuộc tỉnh Thái Bình ngày nay). 
 Dù đã trải qua nhiều trăm năm tiến ra 
biển, người Việt nói chung và ngư dân nói 
riêng vẫn có tâm lý coi biển cả là bí hiểm 
và hung dữ. Đi biển được coi là việc mạo 
hiểm và đầy rủi ro, vì vậy, việc cúng tế 
trước khi ra biển và thờ phụng một số sinh 
vật biển (cá voi, cá heo, rùa da) rất phổ biến 
ở hầu hết làng xã ngư dân dọc theo chiều 
dài đất nước. Hầu hết các loài thuộc những 
nhóm sinh vật này là sinh vật quý hiếm, bị 
đe dọa tuyệt chủng trên phạm vi khu vực và 
toàn cầu như được chỉ ra trong Sách Đỏ của 
Tổ chức Bảo tồn thiên nhiên Quốc tế và 
Việt Nam. Gần như tuyệt đối là ngư dân 
không khai thác các nhóm sinh vật nói trên, 
nếu chúng bị đánh bắt không chủ đích ngư 
dân sẽ phóng thích trở lại biển. Khi cá voi 
hay cá heo bị thương dạt vào bờ, ngư dân tự 
giác cứu hộ và đưa về biển. Trong trường 
hợp gặp các cá thể đã chết, ngư dân cùng 
nhau chôn cất và lập lăng miếu để thờ. Hiện 
nay, các lăng Ông tồn tại ở rất nhiều địa 
phương, nhiều nhất là ở Khánh Hòa với 60 
lăng, sau đó có thể kể đến Bình Thuận (26 
lăng), Kiên Giang (14 lăng), Bà Rịa – Vũng 
Tàu (11 lăng) và rải rác ở nhiểu tỉnh miền 
Nam (Nguyễn Thanh Lợi, 2014). Bảo tàng 
Hải dương học đang lưu trữ bộ xương cá 
voi lưng gù lớn nhất Việt Nam và nhiều tư 
liệu liên quan đến phong tục này của người 
Việt (Võ Sĩ Tuấn và cs., 2014). 
 Phong tục trên đây không tồn tại ở một 
số quốc gia có truyền thống về biển như 
Nhật Bản, nước đã khai thác cá voi từ thế 
kỷ 12 và phát triển thành ngành công 
nghiệp săn cá voi từ 1890 với ngư trường ở 
cả vùng biển Nhật Bản và quốc tế 
(
apan#Pelagic_whaling). Văn hóa ứng xử 
của người Việt đối với các sinh vật bị đe 
dọa tuyệt chủng đã đóng góp quan trọng 
cho việc bảo tồn các loài này ở vùng biển 
Việt Nam và được các tổ chức bảo tồn thiên 
nhiên quốc tế đánh giá cao. Đây là điều mà 
các cơ quan nhà nước và tổ chức bảo tồn 
cần quảng bá rộng rãi và khuyến khích ngư 
106 
dân tham gia vào các chương trình chính 
thống về bảo tồn và sử dụng hợp lý các sinh 
vật bị đe dọa tuyệt chủng cho mục tiêu phát 
triển, nhất là trong du lịch biển. 
 Ngược lại, văn hóa nông dân mang lại 
nhiều tác động tiêu cực trong ứng xử với 
biển và gây nhiều bất cập trong bảo tồn 
thiên nhiên, khai thác hợp lý nguồn lợi hải 
sản. Mọi người đều biết người Việt có quan 
điểm “điền tư, ngư chung” với cách hiểu là 
đất đai luôn có chủ quản lý nhưng ngư 
trường là của chung, của tất cả mọi người. 
Điều này dẫn đến hệ lụy là không cá nhân 
hay nhóm người nào có trách nhiệm quản lý 
mặt nước và việc khai thác tài nguyên trong 
thủy vực là quyền của bất cứ ai. Do vậy, đối 
với nguồn lợi hải sản, nhiều ngư dân có suy 
nghĩ rằng nguồn lợi biển là của chung, 
không phải của mình thì không cần giữ gìn, 
mình không khai thác thì người khác khai 
thác mất. Vì vậy, ngư dân tranh thủ khai 
thác nguồn lợi bằng mọi cách, kể cả sử 
dụng hình thức khai thác hủy diệt như đánh 
chất nổ, dùng chất độc gây mê và khai thác 
mọi đối tượng, gồm cả con non chưa trưởng 
thành. Nguy hiểm hơn, một số ít còn có 
kiểu ứng xử “ăn không được thì đạp đổ”, 
dẫn đến phá phách thành quả lao động của 
người khác, vụ việc cướp ngao ở một số 
vùng nuôi trên biển là một ví dụ. Cuộc sống 
di cư ở vùng đất mới và đánh bắt ở những 
vùng biển xa nơi sinh sống cũng làm cho 
ngư dân ít trách nhiệm hơn trong khai thác 
tài nguyên. Thực trạng này không dễ khắc 
phục trong ngày một ngày hai mà đòi hỏi 
các cơ quan quản lý phải có chiến lược lâu 
dài để nâng cao tính cộng đồng, sự hợp tác 
và trách nhiệm công dân của ngư dân, gắn 
kết giữa quyền lợi và trách nhiệm của người 
khai thác nguồn lợi. Đồng thời, cần có giải 
pháp nâng cao ý thức của người dân trong 
tuân thủ luật pháp quốc gia và quốc tế. 
 Tư duy nông dân còn thể hiện ở cách 
làm việc theo cảm hứng và thiếu tính kế 
hoạch trong phát triển nghề nghiệp và định 
hướng cuộc sống của cá nhân và gia đình. 
Cũng do tư duy ruộng nhà ai nhà nấy làm 
nên tính hợp tác lẫn nhau trong khai thác tài 
nguyên trên biển cũng có nhiều hạn chế mà 
bằng chứng là sự không chia sẻ thông tin về 
ngư trường cho nhau và thiếu hỗ trợ lẫn 
nhau khi đánh bắt trên biển. Mặt khác, tính 
thiếu kế hoạch cộng với tâm lý sợ rủi ro, 
ngại mạo hiểm dẫn đến tư duy không quan 
tâm nhiều đến tương lai và thường các gia 
đình ngư dân không có tích lũy phòng khi 
thời tiết không thuận lợi hoặc gặp rủi ro. 
Cách sống như vậy dẫn đến một thực trạng 
là các gia đình ngư dân luôn có thu nhập tốt 
hơn so với nông dân và cao hơn các chuẩn 
nghèo nhưng cuộc sống của họ rất dễ bị tổn 
thương. Những hạn chế này có thể được 
khắc phục khi người dân có được học vấn 
tốt hơn và các cơ quan quản lý có được 
chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội 
với định hướng tham gia thực hiện một các 
tích cực của các nhóm xã hội liên quan đến 
nghề khai thác thủy sản. 
IV. THAY LỜI KẾT 
Trong những năm qua, các cơ quan quản lý 
và khoa học của Việt Nam đã có nhiều nỗ 
lực nhằm quản lý tài nguyên và bảo vệ môi 
trường biển. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận 
rằng chúng ta còn chưa đáp ứng được đòi 
hỏi của thực tiễn khi mà những ưu tiên về 
kinh tế là áp lực lên mọi hoạt động của đời 
sống xã hội. Hơn nữa, cũng phải thừa nhận 
rằng dân tộc Việt Nam hình thành và phát 
triển dựa trên nền tảng của nền văn minh 
lúa nước và tập trung khai thác thủy sản ven 
bờ, ít kinh nghiệm khai thác biển khơi. Cội 
nguồn văn hóa này có đóng góp tích cực 
cho bảo tồn một số loài bị đe dọa nhưng tác 
động tiêu cực đến khai thác hải sản một 
cách bền vững. Bảo tồn và khai thác bền 
vững tài nguyên yêu cầu chúng ta phải quan 
tâm đến khía cạnh văn hóa trong chính sách 
quản lý và học hỏi tinh hoa văn hóa của các 
dân tộc gắn liền với biển và phát triển nhờ 
biển. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Talaue-McManus L., 2000. Transboundary 
diagnostic analysis for the South China 
107 
Sea. EAS/RCU Technical Report Series 
No. 14, UNEP, Bangkok, Thailand. 
Nguyễn Thanh Lợi, 2014. Tín ngưỡng 
thờ cá voi ở Bà Rịa – Vũng Tàu. Tạp 
chí Bảo tàng và Nhân học, 2 (6): 66-
76. 
UNEP, 2005. Wilkinson C., Devantier 
L., Talaue-McManus L., Lawrence 
D., & D. Souter. South China Sea, 
GIWA Regional Assessment 54. 
University of Kalmar, Kalmar, 
Sweden. 
UNEP/GEF/SCS, 2007. Revised draft 
strategic action programme. The 
UNEP/GEF project “Reversing 
environment degradation trends of 
the South China Sea and Gulf of 
Thailand”. 
Võ Sĩ Tuấn, 2008. Môi trường Biển 
Đông và ưu tiên hợp tác về môi 
trường biển của Việt Nam. Kỷ yếu 
Hội nghị Khoa học Quốc gia “Biển 
Đông – 2007”, Nha Trang, 12-
14/9/2007. Nhà Xuất bản Khoa học 
Tự nhiên và Công nghệ, tr. 59-76. 
Võ Sĩ Tuấn, Bùi Quang Nghị, Nguyễn 
Thị Mỹ Ngân, 2014. Bảo tàng Hải 
dương học – Điểm đến của những 
người yêu thiên nhiên biển. Tạp chí 
Bảo tàng và Nhân học, 2 (6): 77-82. 

File đính kèm:

  • pdfban_ve_van_de_bao_ton_va_khai_thac_nguon_loi_hai_san_tu_goc.pdf