Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay

Quan niệm về bình đẳng giới thực chất

lần đầu tiên vào ngày 3/9/1981 được đề

cập đến từ Công ước về Xóa bỏ tất cả các

hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ

nữ (The Convention on the Elimination of

All Forms of Discrimination Against

Women - CEDAW). Nhà nước Việt Nam

phê chuẩn Công ước chỉ 2 tháng sau khi

Công ước có hiệu lực. Đây là Văn kiện

quốc tế sâu sắc nhất về quyền con người

của phụ nữ cho đến nay. Linh hồn của

Công ước được xây dựng trên cơ sở các

mục tiêu của Liên Hợp Quốc nhằm bảo

đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền

cơ bản của con người, cũng như quyền

bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.

Trong phần Mở đầu, Công ước thừa nhận

rằng: “Sự phân biệt đối xử với phụ nữ

vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nơi”.

Ở Việt Nam, nhiều người cho rằng,

bình đẳng giới là “đủ” rồi, không cần

phải cố gắng nữa. Tuy nhiên, căn cứ

vào các tiêu chuẩn của CEDAW và các

chứng cứ khoa học, thì Việt Nam mới

đang ở mức trung bình về chỉ số bình

đẳng giới. Thực tế cuộc sống ở Việt

Nam cho thấy, có sự khác biệt về bình

đẳng giới thực chất và bình đẳng giới

hình thức.

pdf 7 trang yennguyen 920
Bạn đang xem tài liệu "Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay

Bình đẳng giới ở Việt Nam hiện nay
BÌNH ĐẲNG GIỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 
LÊ THỊ QUÝ* 
 * 1. Quan niệm về bình đẳng giới 
Quan niệm về bình đẳng giới thực chất 
lần đầu tiên vào ngày 3/9/1981 được đề 
cập đến từ Công ước về Xóa bỏ tất cả các 
hình thức phân biệt đối xử chống lại phụ 
nữ (The Convention on the Elimination of 
All Forms of Discrimination Against 
Women - CEDAW). Nhà nước Việt Nam 
phê chuẩn Công ước chỉ 2 tháng sau khi 
Công ước có hiệu lực. Đây là Văn kiện 
quốc tế sâu sắc nhất về quyền con người 
của phụ nữ cho đến nay. Linh hồn của 
Công ước được xây dựng trên cơ sở các 
mục tiêu của Liên Hợp Quốc nhằm bảo 
đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền 
cơ bản của con người, cũng như quyền 
bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới. 
Trong phần Mở đầu, Công ước thừa nhận 
rằng: “Sự phân biệt đối xử với phụ nữ 
vẫn còn tồn tại ở rất nhiều nơi”. 
Ở Việt Nam, nhiều người cho rằng, 
bình đẳng giới là “đủ” rồi, không cần 
phải cố gắng nữa. Tuy nhiên, căn cứ 
vào các tiêu chuẩn của CEDAW và các 
chứng cứ khoa học, thì Việt Nam mới 
đang ở mức trung bình về chỉ số bình 
đẳng giới. Thực tế cuộc sống ở Việt 
Nam cho thấy, có sự khác biệt về bình 
đẳng giới thực chất và bình đẳng giới 
hình thức. 
* GS.TS. Viện Nghiên cứu Giới và Phát triển. 
2. Bình đẳng giới ở Việt Nam: Những 
thành tựu và thách thức 
 a. Quá trình phát triển nhận thức giới 
ở Việt Nam 
Trước khi Nho giáo vào Việt Nam, dân 
tộc Việt sống rất khoáng đạt trong không khí 
bình đẳng. Những bằng chứng về lịch sử, 
văn hoá, lối sống của dân tộc Việt Nam đã 
phản ánh truyền thống tôn trọng phụ nữ là 
những người có công lớn trong xã hội và gia 
đình. Truyền thống đó được biểu hiện từ 
những nghi lễ thờ mẫu và các nghi lễ thờ 
cúng, mà trong đó không phân biệt thần nam 
với thần nữ. Truyền thống đó còn được biểu 
hiện cao nhất là việc làm vua của Hai Bà 
Trưng, làm lãnh tụ khởi nghĩa của bà Triệu, 
làm tướng của các bà Thánh Thiên công 
chúa, Lê Chân, Bát Nàn công chúa, làm Đô 
đốc của bà Bùi Thị Xuân và sau này là Tổng 
Tư lệnh của các lực lượng vũ trang miền 
Nam Việt Nam Nguyễn Thị Định. Truyền 
thống tôn trọng phụ nữ còn được thể hiện 
trong cả hai dòng văn học dân gian và bác 
học đã tồn tại hàng thế kỷ ở nước ta và trong 
ngôn ngữ: "Vợ, chồng" (trong đó, từ "vợ" 
đứng trước từ "chồng") hoặc như trong câu ca 
dao, tục ngữ: "Lệnh ông không bằng cồng 
bà”; "Thuận vợ, thuận chồng, tát biển Đông 
cũng cạn”; Đàn bà "tay hòm, chìa khóa”, 
hoặc về chữ "trinh” của phụ nữ: "Gió đưa 
cành trúc ngã quỳ; Ba năm trực tiết còn 
gì là xuân”... 
Bình đẳng giới ở Việt Nam 77
Khi Nho giáo vào nước ta, với tư tưởng 
áp bức của chủ nghĩa phụ quyền, Nho giáo 
đã đưa những luật tục hà khắc là Tam tòng, 
tứ đức để ép buộc phụ nữ xuống hàng lệ 
thuộc nam giới, thậm chí xuống hàng nô lệ. 
Từ hệ tư tưởng tới luật pháp, chính sách 
quốc gia và sau cùng là phong tục tập 
quán, Nho giáo đã thiết lập một mạng 
lưới hoàn hảo từ trung ương đến địa 
phương, hoàn thành mục tiêu của họ 
trong việc áp đặt lối sống trọng nam 
khinh nữ, bất bình đẳng vào một số xã 
hội, trong đó có Việt Nam. Tuy nhiên, 
trong thực tế cuộc sống ở một số nơi, ở 
cấp làng, xã, nơi đông đảo những người 
nông dân sinh sống, thì không khí hồn 
nhiên trong quan hệ nam nữ vẫn tồn tại 
và được phản ánh trong những bức tranh, 
như tranh hứng dừa, tranh dân gian Đông 
Hồ, các bài dân ca của các miền. 
Tư tưởng bình đẳng giới của C.Mác, 
V.I. Lênin là tư tưởng chủ đạo ở Việt Nam 
thời kỳ cận và hiện đại đã đề xướng và ủng 
hộ bình đẳng giới. Trong Luận cương 
Chính trị năm 1930 đã khẳng định rõ 3 
nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là: Giải 
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải 
phóng phụ nữ. Ba nhiệm vụ đó đã được 
tiến hành cùng một lúc và hỗ trợ cho nhau 
trong cuộc đấu tranh chung. Phụ nữ đã 
tham gia cách mạng với tư cách là một lực 
lượng và có nhiều đóng góp quan trọng 
cho thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 
năm 1945 thành công. Năm 1946, Hiến 
pháp đầu tiên của Nước Việt Nam Dân chủ 
Cộng hoà đã tuyên bố: "Nam nữ bình đẳng 
trên mọi phương diện” và xoá bỏ mọi hủ 
tục khắt khe đối với phụ nữ. Điều đó đã tạo 
ra sự đổi thay lớn lao trong nhận thức về 
bình đẳng giới. Quan điểm tôn trọng phụ 
nữ đã và đang từng bước đi vào đời sống 
xã hội và tạo lập một lối sống mới về sự 
bình đẳng giữa người với người. Bình đẳng 
giới vẫn đang là một mục tiêu lớn của 
Chính phủ Việt Nam. Đó là sự tiếp nối 
trung thành và có hiệu quả những mục tiêu 
ban đầu của cách mạng Việt Nam, phù hợp 
với quan điểm về văn minh và phát triển 
hiện nay của thế giới. Sự thay đổi to lớn 
nhất là thay đổi thân phận, địa vị của người 
phụ nữ. Phụ nữ ngày nay đã cã kinh tế độc 
lập, được tham gia và thừa nhận trên tất cả 
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, 
khoa học, gia đình, thậm chí ở nhiều nơi, 
họ còn đứng ở vị trí lãnh đạo cao cấp. Đây 
là những biểu hiện của bình đẳng giới thực 
chất ở Việt Nam. 
 b. Luật pháp và chính sách về bình 
đẳng giới 
Có thể nói, CEDAW vào Việt Nam 
không gặp nhiều trở ngại lớn. Bởi lẽ vấn đề 
bình đẳng giới không phải là vấn đề hoàn 
toàn mới mẻ đối với Việt Nam. Nói một 
cách khác, Việt Nam có sẵn cơ sở kinh tế - 
xã hội thuận lợi cho việc tiếp nhận 
CEDAW. Mặc dù vẫn là một trong những 
nước nghèo trên thế giới, nhưng từ năm 
1995 đến năm năm 2009, Việt Nam đã 
được Liên Hợp Quốc xếp hàng các nước có 
Chỉ số giới (GDI) trung bình. Chẳng hạn, 
năm 1995, Việt Nam đứng thứ 72/130 
nước; đến năm 1997, đứng thứ 91/143 với 
chỉ số là 0,662. Năm 2004, trong số 177 
nước được điều tra theo Chỉ số GDI, thì 
Việt Nam ở vị trí 87 với chỉ số 0,689 
(NDP, 2005). Năm 2005, Việt Nam ở vị trí 
83 với chỉ số 0,702, thuộc vào hàng những 
nước có sự phát triển giới trung bình 
(UNDP, 2006); năm 2006, Việt Nam đứng 
hàng thứ 91/177 nước với chỉ số là 0,732 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2013 78
vẫn tiếp tục giữ vị trí của nước trung bình 
(UNDP, 2007-2008); năm 2009, GDI của 
Việt Nam đạt mức trung bình là 94/182 nước 
với giá trị là 0,72 (UNIFEM, CEDAW và 
pháp luật, Hà Nội, 2009 ). Chỉ số phát triển 
giới (GDI) của Việt Nam thuộc nhóm nước 
tốt nhất Đông Nam Á – Thái Bình Dương. 
Chính phủ có nhiều cố gắng trong việc bổ 
sung luật pháp gần với CEDAW. 
So với nhiều nước trên thế giới, Việt 
Nam có những chính sách tiến bộ về Giới. 
Những chính sách này được đề cập trong 
nhiều bộ luật và hiến pháp, như Hiến pháp 
năm 1946, Luật Hôn nhân và Gia đình 
(1959, 1986), Luật Quốc tịch, Bộ luật Lao 
động, Pháp lệnh Thừa kế và Bộ luật Hình 
sự. Hiện nay là Luật Bình đẳng giới (2007) 
và Luật Phòng chống bạo lực gia đình 
(2008). Bằng luật pháp, Nhà nước đã công 
nhận quyền bình đẳng nam và nữ ở trong 
xã hội và gia đình. 
Hiến pháp năm 1946 có các điều khoản 
quan trọng: “Tất cả mọi quyền bính trong 
nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, 
không phân biệt nòi giống, gái trai, giàu 
nghèo, giai cấp, tôn giáo (Điều 1)”; “Tất cả 
mọi công dân Việt Nam đều ngang quyền 
về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn 
hoá “(Điều 6); Đàn bà ngang quyền với 
đàn ông về mọi phương diện (Điều 9). 
Trong Hiến pháp sửa đổi năm 1960, Điều 
24 đã khẳng định: “... Cùng việc làm như 
nhau, phụ nữ được hưởng lương ngang với 
nam giới. Nhà nước bảo đảm cho phụ nữ 
công nhân và phụ nữ viên chức được nghỉ 
trước và sau khi đẻ mà vẫn hưởng nguyên 
lương. Nhà nước bảo hộ quyền lợi của người 
mẹ và của trẻ em, bảo đảm phát triển các nhà 
đỡ đẻ, nhà giữ trẻ và vườn trẻ... Nhà nước 
bảo hộ hôn nhân và gia đình”. 
Luật Bình đẳng Giới 
Ngày 29/11/2006, Quốc hội thông qua 
luật Bình đẳng Giới và luật có hiệu lực thi 
hành từ ngày 1/7/2007. Luật bao gồm 6 
chương, 44 điều, quy định cụ thể về Mục 
tiêu bình đẳng giới; Chính sách của Nhà 
nước; Cơ quan quản lý nhà nước; Các 
biện pháp bảo đảm bình đẳng giới; Thanh 
tra, giám sát và xử lý vi phạm pháp luật về 
bình đẳng giới; Người thực hiện là cơ 
quan nhà nước, chính quyền; Các tổ chức 
chính trị, kinh tế, xã hội, nghề nghiệp; 
Gia đình; Cá nhân; Các tổ chức và cá 
nhân nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ 
Việt Nam. 
Mục tiêu của Luật là xoá bỏ phân biệt đối 
xử về giới và xây dựng bình đẳng giới trong 
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia 
đình. Đây là khái niệm được coi là nội luật 
hoá CEDAW. Đặc biệt, Luật đã đưa ra các 
“Biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới” (Điều 
19, Chương 3). Đây là các biện pháp chịu ảnh 
hưởng của Điều 4 - “Các biện pháp đặc biệt 
tạm thời” của CEDAW để thực hiện bình 
đẳng giới thực chất. Lý do đưa ra các biện 
pháp này được dựa trên cả hai phương diện 
sinh học và xã hội, xuất phát từ các đặc điểm 
khác nam giới: phụ nữ phải mang thai, sinh 
con, chăm sóc con nhỏ; phụ nữ bị phân biệt 
đối xử từ hàng ngàn năm theo phong tục tập 
quán, họ ít có cơ hội học tập, phải lao động 
nhiều và được thụ hưởng các sản phẩm làm 
ra ít hơn nam giới. Vì vậy, Nhà nước có chính 
sách ưu tiên cho phụ nữ trong chăm sóc y tế 
khi họ có thai, sinh và nuôi con nhỏ, ưu tiên 
cho phụ nữ đi học, được đề bạt, được tham 
gia hoạt động xã hội. Luật yêu cầu gia đình, 
nam giới phải chăm sóc phụ nữ khi họ mang 
thai và sinh con. Họ phải được ăn uống tốt 
hơn và làm ít hơn... Đây là các chính sách 
thực hiện công bằng cho phụ nữ. 
Bình đẳng giới ở Việt Nam 79
Các biện pháp thúc đẩy bình đẳng giới 
được thực hiện trong một thời gian nhất 
định và chấm dứt khi mục đích bình đẳng 
giới đã đạt được. Nhà nước cũng chủ 
trương lồng ghép Giới trong xây dựng văn 
bản quy phạm pháp luật để việc thực thi 
bình đẳng giới có hiệu quả hơn. 
 Luật Phòng chống bạo lực gia đình 
 Tháng 11/2007, Quốc hội thông qua 
Luật Phòng chống bạo lực gia đình. Luật 
có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2008. Luật 
bao gồm 6 chương và 46 điều. Chương 1: 
Những quy định chung; Chương 2: Phòng 
ngừa bạo lực gia đình (BLGĐ); Chương 
3: Bảo vệ và hỗ trợ nạn nhân BLGĐ; 
Chương 4: Trách nhiệm của cá nhân, gia 
đình, cơ quan, tổ chức trong phòng chống 
BLGĐ; Chương 5: Xử lý vi phạm pháp luật 
về phòng chống BLGĐ và khiếu nại, tố 
cáo; Chương 6: Điều khoản thi hành. 
 Lần đầu tiên ở Việt Nam có luật riêng 
quy định về giáo dục, phòng ngừa và xử 
phạt một tội ác đã được chế độ phụ quyền 
che chở từ hàng nghìn năm và coi đó là 
việc “ không quan trọng”, việc “ nội bộ của 
gia đình”, đó là “quyền dạy vợ, con" của 
người đàn ông. Luật phù hợp với điều 3, 
phần 1, 5a, 6 và khuyến nghị chung số 19 
của CEDAW. 
Chính sách bình đẳng giới còn được đề 
cập trong các luật khác, như Luật Quốc 
tịch, Luật Dân sự, Bộ luật Lao động, Pháp 
lệnh Thừa kế và Bộ luật Hình sự và các 
chính sách cụ thể khác. Bằng luật pháp, 
Nhà nước đã công nhận quyền bình đẳng 
nam và nữ trong xã hội và gia đình, đồng 
thời cam kết tạo cho phụ nữ cơ hội phát 
triển như nam giới. 
 c. Những thách thức hay bình đẳng 
giới hình thức ở Việt Nam 
Nói đến khái niệm “phân biệt nam nữ” 
nhiều người đã nhận ra sự phân biệt này 
vẫn còn tồn tại dai dẳng và có lúc rất gay 
gắt. Điều này cho thấy sự tồn tại dau dẳng 
của tư tưởng và khuôn mẫu của chế độ phụ 
quyền, thậm chí đã có sự trở lại của chủ 
nghĩa phụ quyền ở một số nơi. Trên thực 
tế, việc thực hiện chính sách không đơn 
giản, vẫn còn tồn tại nhiều dạng bất bình 
đẳng giới hình thức, nghĩa là luật thì có, 
nhưng không được thực hiện và phụ nữ 
vẫn chịu nhiều thiệt thòi. 
Trước hết là vấn đề cống hiến và hưởng 
thụ giữa nam và nữ. Giống như phụ nữ của 
nhiều nước trên thế giới, cường độ lao 
động, thời gian, hình thức lao động của 
phụ nữ Việt Nam còn có chênh lệch với 
nam giới. Các cuộc điều tra xã hội học trên 
cả hai vùng thành thị và nông thôn đã đưa 
ra những chỉ báo đáng chú ý: Phụ nữ đã lao 
động rất vất vả trên cả hai phương diện: xã 
hội và gia đình. Ngoài xã hội, họ phải lao 
động giống như nam giới; còn ở nhà, họ 
phải gánh trách nhiệm chính. Họ được 
khoác rất nhiều chức năng: làm vợ, làm 
mẹ, người cấp dưỡng, tiếp phẩm, thủ quỹ, 
thợ giặt, người lau dọn nhà cửa, người 
trông trẻ, cô giáo, thày thuốc gia đình 
Những công viêc tất bật từ sáng sớm đến 
đêm khuya đã hút kiệt sức lực và thời gian 
của phụ nữ, khiến họ còn rất ít hoặc không 
có thời gian để nghỉ ngơi, hưởng thụ văn 
hoá. Điều này làm sự cách biệt giữa nam 
và nữ càng tăng lên. 
Hiện nay vẫn còn tồn tại những khoảng 
cách (đôi khi còn khá xa) giữa luật pháp và 
thực tế. Theo một báo cáo của Ban Tuyên 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2013 80
giáo thuộc Trung ương Hội Liên hiệp phụ 
nữ Việt Nam năm 1998, thì trong hơn 10 
năm thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình 
(Luật sửa đổi năm 1986), có nhiều điều 
luật gần như không được áp dụng trên thực 
tế. Đến nay, việc thực hiện luật ở Việt Nam 
vẫn gặp rất nhiều khó khăn khi mà tư 
tưởng: “Sống và làm việc theo pháp luật 
“vẫn chưa được người dân thi hành nghiêm 
túc. Chẳng hạn, quyền về đất đai của phụ 
nữ và trẻ em sau ly hôn ở nhiều nơi cũng 
chưa được bảo vệ. Tình trạng bạo lực gia 
đình, buôn bán phụ nữ và trẻ em đã xâm 
hại thân thể, nhân phẩm, quyền lợi, tính 
mạng của phụ nữ và trẻ em, nhưng chưa 
được ngăn chặn kịp thời. Tình hình trên đã 
gây rất nhiều khó khăn cho phụ nữ và cải 
thiện cuộc sống của phụ nữ trên cơ sở công 
bằng. Bên cạnh đó, sự phục hồi một số tập 
tục lạc hậu đã thách thức pháp luật và dư 
luận tiến bộ. Từ những việc nhỏ như “ra 
ngõ gặp gái “đến các việc lớn như tảo hôn, 
thách cưới, khát con trai, lấy vợ lẽ chui, 
sinh hoạt họ tộc theo kiểu vai vế, khắt khe, 
phân biệt nam nữ ... vẫn khá phổ biến trong 
xã hội. Đã có nhiều phụ nữ chỉ vì một sự 
"vi phạm" đối với những gì được coi là quy 
chuẩn trong gia đình, đã bị bêu xấu, sỉ 
nhục trước hàng xóm, cộng đồng. Ngày 
nay, mặc dù bị pháp luật ngăn cấm nghiêm 
ngặt, nhưng ở một vài nơi, gia đình chồng 
vẫn còn xử lý những phụ nữ bị nghi ngờ 
ngoại tình bằng cách cạo đầu, bôi vôi, lột 
quần áo và dắt ra ngoài đường bêu xấu cho 
mọi người biết. Ở một số nơi, vẫn có hiện 
tượng nạo thai bé gái, đã làm mất cân bằng 
giới tính và đe doạ sự bình ổn xã hội trong 
những thập kỷ tới. 
Về chính sách, vẫn còn tồn tại những 
mặt thiếu công bằng về giới. Chẳng hạn, 
chính sách phụ nữ về hưu năm 55 tuổi, còn 
nam giới 60 tuổi. Chính sách này đã làm 
hạn chế các đóng góp và đề bạt đối với phụ 
nữ trí thức, viên chức, phụ nữ tham gia 
công tác chính trị. Đội ngũ cán bộ khoa 
học nữ vì thế đã nhỏ bé so với nam giới lại 
càng không có điều kiện phát triển. 
Hiện nay, theo nhận xét của các nhà 
nghiên cứu và hoạt động xã hội, thì bộ máy 
hoạt động vì bình đẳng giới còn yếu và 
thiếu, khiến các hoạt động chưa có hiệu 
quả cao. Nhiều nghiên cứu tốt về giới chưa 
được sử dụng vào việc lập chính sách. Các 
tổ chức phi chính phủ (NGO) hoạt động vì 
bình đẳng giới của họ chưa được quan tâm 
đúng mức. Chính những yếu tố này đã làm 
cản trở việc thực hiện bình đẳng giới thực 
chất ở Việt Nam. 
Luật pháp về bình đẳng giới của Nhà 
nước ta là rõ ràng. Nhưng để bình đẳng 
giới không trở thành hình thức, mà là thực 
chất trong xã hội và đời sống thường ngày 
của người dân, đòi hỏi việc giáo dục và 
thực thi pháp luật một cách thường xuyên, 
nghiêm túc. 
____________ 
Tài liệu tham khảo 
1. Bộ kế hoạch và đầu tư - Tổng cục thống kê; 
Liên hợp quốc; Quỹ mục tiêu phát triển thiên niên 
kỷ - Số liệu thống kê giới ở Việt Nam 2000-2010, 
Hà Nội, tháng 3/2012. 
2. Công ước về Xóa bỏ tất cả các hình thức phân 
biệt đối xử chống lại phụ nữ (The Convention on 
the Elimination of All Forms of Discrimination 
Against Women), Nxb.Phụ nữ , Hà Nội, 2004. 
3. Điều tra xã hội học về gia đình trong đề tài "Vấn 
đề gia đình trong phát triển xã hội và quản lý phát 
triển xã hội ở nước ta trong thời kỳ Đổi mới", mã 
số KX. 02/06-10 của Trung tâm nghiên cứu Giới 
và Phát triển, 2010. 
4. Lê Thị Quý, 2010. Giáo trình Xã hội học Giới, 
Nxb.Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 
5. UNIFEM, CEDAW và pháp luật, Nghiên cứu rà 
soát văn bản pháp luật Việt Nam trên cơ sở quyền 
và giới qua lăng kính CEDAW, Hà Nội, 2009. 
Bình đẳng giới ở Việt Nam 81
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam - 2/2013 82

File đính kèm:

  • pdfbinh_dang_gioi_o_viet_nam_hien_nay.pdf