Cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại tại Việt Nam khi tỷ lệ an toàn vốn áp dụng theo Basel II

TÓM TẮT

Để đảm bảo an toàn và lành mạnh cho hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà

nước Việt Nam đã đưa ra những quy định về đảm bảo an toàn, đặc biệt là quy

định về tỷ lệ an toàn vốn căn cứ vào các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong hoạt

động của hệ thống ngân hàng nói chung và an toàn vốn nói riêng. Hiện tại, quy

định về tỷ lệ an toàn vốn của Việt Nam đã đảm bảo các tiêu chuẩn của Basel I và

tiến tới năm 2020, sẽ thực hiện theo Basel II trên toàn hệ thống. Nghiên cứu này

phân tích thực trạng về tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại Việt

Nam giai đoạn 2010-2016, thông qua công cụ SWOT, phân tích điểm mạnh, điểm

yếu, cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng khi chính thức áp dụng tỷ lệ an

toàn vốn theo Basel II. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải

pháp giúp các ngân hàng thực hiện đúng quy định về tỷ lệ an toàn vốn khi thực

hiện theo Basel II.

pdf 5 trang yennguyen 4060
Bạn đang xem tài liệu "Cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại tại Việt Nam khi tỷ lệ an toàn vốn áp dụng theo Basel II", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại tại Việt Nam khi tỷ lệ an toàn vốn áp dụng theo Basel II

Cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng thương mại tại Việt Nam khi tỷ lệ an toàn vốn áp dụng theo Basel II
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109
CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
TẠI VIỆT NAM KHI TỶ LỆ AN TOÀN VỐN ÁP DỤNG THEO BASEL II 
OPPORTUNITIES AND THREATS FOR COMMERCIAL BANKS 
IN VIETNAM WHEN THE CAPITAL ADEQUACY RATIO APPLIED UNDER BASEL II 
Trần Thị Lan Anh1* 
TÓM TẮT 
Để đảm bảo an toàn và lành mạnh cho hệ thống ngân hàng, Ngân hàng Nhà 
nước Việt Nam đã đưa ra những quy định về đảm bảo an toàn, đặc biệt là quy 
định về tỷ lệ an toàn vốn căn cứ vào các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong hoạt 
động của hệ thống ngân hàng nói chung và an toàn vốn nói riêng. Hiện tại, quy 
định về tỷ lệ an toàn vốn của Việt Nam đã đảm bảo các tiêu chuẩn của Basel I và 
tiến tới năm 2020, sẽ thực hiện theo Basel II trên toàn hệ thống. Nghiên cứu này 
phân tích thực trạng về tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng thương mại Việt 
Nam giai đoạn 2010-2016, thông qua công cụ SWOT, phân tích điểm mạnh, điểm 
yếu, cơ hội và thách thức đối với các ngân hàng khi chính thức áp dụng tỷ lệ an 
toàn vốn theo Basel II. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu, tác giả đề xuất một số giải 
pháp giúp các ngân hàng thực hiện đúng quy định về tỷ lệ an toàn vốn khi thực 
hiện theo Basel II. 
Từ khóa: tỷ lệ an toàn vốn; ngân hàng thương mại; Basel II 
ABTRACT 
In order to ensure the safety and soundness of the banking system, the State 
Bank of Vietnam (SBV) has issued regulations on safety assurance, specialy ones 
on capital adequacy ratios based on national standards and safety in operation of 
the banking system in general and capital adequacy in particular. At present, the 
capital adequacy ratio of Vietnam has ensured Basel II standards and will, by 
2020, follow Basel II throughout the system. This study analyzes the real capital 
adequacy ratio of Vietnamese commercial banks for the period 2010-2016, 
through SWOT tools, analyzing strengths, weaknesses, opportunities and 
challenges for banks when applying the Basel II capital adequacy ratio. Based on 
the results of the study, the authors propose solutions to help banks comply with 
capital adequacy ratios when implementing Basel II. 
Keywords: capital adequacy ratio; commercial banks; Basel II 
1Khoa Quản lý kinh doanh, Đại học Công nghiệp Hà Nội 
*E-mail: trananh.haui.edu@gmail.com 
Ngày nhận bài: 22/01/2018 
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 11/04/2018 
Ngày chấp nhận đăng: 15/06/2018 
1. GIỚI THIỆU 
Ngân hàng thương mại đóng vai trò quan trọng trong 
nền kinh tế của mỗi quốc gia, sự thịnh vượng của hệ thống 
ngân hàng liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của nền 
kinh tế. Tầm quan trọng của ngành ngân hàng được đặt 
nền tảng trên cơ sở các ngân hàng được coi là kênh tiết 
kiệm và phân bổ tín dụng trong nền kinh tế (Ariccia và 
Marquez, 2004). Ngành ngân hàng thực hiện chức năng 
trung gian tài chính bằng cách chuyển khoản tiền gửi vào 
các khoản đầu tư có hiệu quả (King và Levine, 1993). Theo 
Patrick (1966), khu vực tài chính có vai trò chuyển các 
nguồn lực từ các khu vực truyền thống, tăng trưởng thấp 
sang khu vực tăng trưởng cao. Một hệ thống tài chính hiệu 
quả là điều kiện cần và đủ để giúp nền kinh tế phát triển 
nhanh (Ebong, 2005). 
Tuy nhiên, một ngân hàng hoạt động kém hiệu quả có 
thể ảnh hưởng tới sự sụp đổ của các ngân hàng khác và 
ảnh hưởng tiêu cực tới nền kinh tế. Oloo (2011), nhấn mạnh 
rằng nếu các ngân hàng thương mại chiếm ưu thế trong 
lĩnh vực tài chính, bất kỳ sự cố nào cũng có ý nghĩa to lớn 
đối với sự tăng trưởng của một nền kinh tế. Điều này là do 
bất kỳ vụ phá sản nào trong ngành ngân hàng cũng có tác 
động lan truyền, có thể dẫn đến cuộc khủng hoảng tài 
chính tổng thể và những rắc rối về kinh tế. 
Sự thất bại trong việc quản lý các tiêu chuẩn vốn đã 
nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà quản lý và các 
nhà nghiên cứu để duy trì các yêu cầu về mức vốn. Trong 
những năm qua, các nhà quản lý ngân hàng đã đưa ra một 
số biện pháp liên kết quy chế và giám sát của các ngân 
hàng thương mại với mức độ rủi ro và khả năng tồn tại tài 
chính. Các nhà quản lý đã tăng cường giám sát ngân hàng 
thông qua duy trì mức độ an toàn về vốn và quy định tỷ lệ 
an toàn vốn (CAR) tối thiểu đối với các ngân hàng. 
Căn cứ vào các chuẩn mực quốc tế về an toàn trong 
hoạt động của hệ thống ngân hàng nói chung và an toàn 
vốn nói riêng, Việt Nam đã ban hành các văn bản quy phạm 
pháp luật quy định cụ thể về tỷ lệ an toàn vốn. Tuy nhiên, 
so với chuẩn mực Basel II, tỷ lệ an toàn vốn hiện nay vẫn 
chưa tính tới rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động trong 
tổng tài sản có rủi ro. Theo lộ trình triển khai Basel II đã 
được Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phê duyệt, 
đến năm 2016, chỉ có 10 ngân hàng lớn nhất (không tính 
ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài) được lựa 
chọn thực hiện theo tiêu chuẩn của Basel II, theo đó, tỷ lệ 
an toàn vốn có tính đến rủi ro hoạt động và rủi ro thị 
trường và tiến tới áp dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Basel II 
đối với toàn hệ thống ngân hàng vào năm 2020. 
Do đó, nghiên cứu về cơ hội và thách thức đối với các 
ngân hàng hàng thương mại tại Việt Nam trước khi áp 
dụng tính tỷ lệ an toàn vốn theo Basel II là hết sức cần thiết, 
giúp các nhà quản lý ngân hàng tận dụng lợi thế và khắc 
phục khó khăn khi thực hiện các tiêu chuẩn về tỷ lệ an toàn 
vốn theo Basel II. 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 110
KINH TẾ
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT 
Theo Al-Sabbagh (2004), an toàn vốn được mô tả như 
một chỉ báo về rủi ro của ngân hàng. An toàn vốn không 
chỉ phụ thuộc vào quy mô tài sản mà còn bị ảnh hưởng bởi 
chất lượng tài sản (Casu và cộng sự, 2015). Rủi ro của các 
ngân hàng được phân thành các loại rủi ro khác nhau, bao 
gồm: rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động 
được tính trong tỷ lệ an toàn vốn (CAR). Do đó, các cơ quan 
quản lý đã sử dụng CAR như là một chỉ số quan trọng cho 
"an toàn và ổn định" đối với các ngân hàng và các tổ chức 
lưu ký vì họ coi vốn như một người bảo vệ hoặc để hấp thụ 
các tổn thất (Abdel-Karim, 1964). Đó là lý do tại sao nhà 
quản lý ngân hàng ở hầu hết các nước xác định và theo dõi 
CAR. CAR là yếu tố quyết định khả năng của ngân hàng để 
đáp ứng các trách nhiệm pháp lý với tài sản có mức độ rủi 
ro khác nhau (Akerlof, 1990). CAR còn gọi là vốn đảm bảo 
rủi ro, là một biện pháp của số vốn lõi của một ngân hàng, 
là tỷ lệ phần trăm của vốn với các tài sản rủi ro của nó 
(Berger và cộng sự, 1995). Theo Dowd (1996), việc các nhà 
quản lý áp đặt các tiêu chuẩn vốn tối thiểu đối với các tổ 
chức tài chính được xem như là một phương tiện để tăng 
cường an toàn tiền gửi và ổn định hệ thống ngân hàng. Do 
sự không đối xứng thông tin giữa các nhà quản lý ngân 
hàng và người gửi tiền có thể gây ra sự thất bại của thị 
trường, vì vậy cần thiết phải có sự can thiệp của chính phủ 
vào hệ thống tài chính. 
Để bảo vệ người gửi tiền khỏi hậu quả của việc quản lý 
danh mục đầu tư mạo hiểm, không an toàn của các ngân 
hàng và để ngăn chặn những bất ổn phát sinh từ hệ thống 
ngân hàng, năm 1988, Ủy ban Basel về giám sát ngân hàng 
ban hành hệ thống đo lường vốn và rủi ro tín dụng với tên 
thường gọi là Hiệp ước Basel I. Theo yêu cầu của Basel I, các 
ngân hàng phải duy trì tỷ lệ vốn bắt buộc trên tổng tài sản 
điều chỉnh theo CAR ở mức tối thiểu (8%). Basel I cũng đưa 
ra định nghĩa về các loại vốn của ngân hàng và phân thành 
ba cấp xét theo khả năng thanh toán và mức độ tin cậy của 
nguồn vốn để ứng phó với rủi ro gồm cao nhất là vốn cấp 
1, vốn cấp 2 và thấp nhất là vốn cấp 3. Basel I phân loại tài 
sản theo bốn mức rủi ro khác nhau là 0%; 20%; 50% và 
100%. Các quy định về đo lường rủi ro của Basel I chỉ căn cứ 
vào tài sản đảm bảo và nhóm khách hàng mà không căn cứ 
vào hệ số tín nhiệm của từng khách hàng vay, quy mô món 
vay và thời hạn vay. Basel I cũng mới chỉ tập trung vào rủi ro 
tín dụng chưa đề cập đến rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động. 
Do những hạn chế của Basel I, năm 2004, Ủy ban Basel 
giới thiệu phiên bản mới Basel II, có hiệu lực từ năm 2007 
và kết thúc thời gian chuyển đổi đến năm 2010. Nội dung 
của Basel II gồm ba trụ cột chính: (i) CAR tối thiểu bằng 8%; 
(ii) tăng cường đánh giá chất lượng quản lý rủi ro của ngân 
hàng và (iii) giám sát tuân thủ kỷ luật thị trường. Các định 
nghĩa về vốn không thay đổi và tử số để tính CAR vẫn bao 
gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Tuy nhiên, phần mẫu số để 
tính CAR có một số thay đổi đáng kể, hệ số rủi ro của tài sản 
không chỉ phụ thuộc vào tài sản đảm bảo và nhóm khách 
hàng mà còn phụ thuộc vào độ nhạy rủi ro trong mỗi loại 
và hệ số tín nhiệm của từng khách hàng, hệ số này được 
mở rộng từ 0-100% theo Basel I lên 0-150% theo Basel II. 
Ngoài ra, mẫu số của CAR không chỉ có tổng tài sản có điều 
chỉnh theo hệ số rủi ro mà còn bao gồm 12,5 lần tổng vốn 
quy định cho dự phòng rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. 
CAR tối thiểu mà cơ quan giám sát khuyến khích áp 
dụng theo Basel II là: Vốn cấp 1 trên tổng tài sản rủi ro tín 
dụng tối thiểu bằng 4%; và tổng vốn (vốn cấp 1 + vốn cấp 
2) trên tổng tài sản rủi ro tối thiểu bằng 8%. 
Bảng 1. Các văn bản pháp luật quy định về CAR của các ngân hàng thương mại Việt Nam 
Văn bản pháp luật Năm ban hành Năm thực hiện Quy định về CAR 
Quyết định số 297/QĐ-NHNN5 27/8/1999 9/9/1999 
- CAR được tính bằng Vốn tự có trên Tài sản có. 
- Vốn tự có gồm vốn điều lệ và quỹ dự trữ bổ sung vốn điều lệ 
- Tài sản có gồm tài sản có rủi ro nội bảng và tài sản có rủi ro ngoại bảng. 
- CAR ≥ 8% 
- Hệ số rủi ro từ 0%-100% 
Quyết định số 457/2005/QĐ-
NHNN 19/4/2005 6/5/2005 
- CAR được tính bằng Vốn tự có trên Tài sản có. 
- Vốn tự có được tính bằng vốn cấp 1 cộng với vốn cấp 2 và trừ các khoản giảm trừ. 
- CAR ≥ 8% 
- Hệ số rủi ro từ 0%; 20%; 50%; 100% 
Thông tư số 13/2010/TT-NHNN 20/5/2010 1/10/2010 - CAR ≥ 9% - Hệ số rủi ro từ 0%; 20%; 50%; 100% và 250% 
Thông tư số 36/2014/TT-NHNN 20/11/2014 1/2/2015 
- CAR≥ 9% 
- Hệ số rủi ro từ 0%; 20%; 50%; 100% và 150% 
- Vẫn chưa tính tới rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động trong tổng tài sản có rủi ro. 
Thông tư số 06/2016/TT-NHNN 
Sửa đổi một số điều của Thông tư 
số 36/2014/TT-NHNN 
27/5/2016 1/7/2016 
- CAR ≥ 9% 
- Hệ số rủi ro từ 0%; 20%; 50%; 100% và 200% 
Thông tư số 41/2016/TT-NHNN 30/12/2016 1/1/2020 
- CAR ≥ 8% 
- CAR được tính bằng vốn tự có trên tổng tài sản rủi ro. 
- CAR tính tới cả rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi ro thị trường. 
(Nguồn: Tổng hợp của tác giả) 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 111
Công thức tính CAR theo Basel II được trình bày ở 
phương trình (1). 
(1) 
3. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Tác giả đã thu thập dữ liệu thứ cấp về tỷ lệ an toàn vốn 
của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam giai đoạn 
2010-2016. Trên cơ sở dữ liệu thu được, phân tích thực 
trạng về tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng, đồng thời sử 
dụng công cụ SWOT để phân tích điểm mạnh, điểm yếu, cơ 
hội và thách thức đối với các ngân hàng khi chính thức áp 
dụng tỷ lệ an toàn vốn theo Basel II theo quy định của Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam. 
4. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 
Thực trạng về tỷ lệ an toàn vốn của các NHTM Việt Nam 
Cũng như các nước trên thế giới, Việt Nam đã, đang và 
sẽ tiếp tục đưa chuẩn mực quốc tế quy định đối với hệ 
thống ngân hàng trong nước để đảm bảo tính an toàn và 
lành mạnh cho toàn hệ thống. Điều này được thể hiện rõ 
trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Luật Các tổ 
chức tín dụng. Sau đó là một loạt các văn bản pháp luật 
khác quy định về an toàn vốn đối với các ngân hàng Việt 
Nam (bảng 1). 
Theo nội dung Thông tư số 41/2016/TT-NHNN do Ngân 
hàng Nhà nước Việt Nam ban hành, quy định về an toàn 
vốn đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng 
phải đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu là 8% và tỷ lệ an 
toàn vốn được tính theo chuẩn mực Basel II, tức là tỷ lệ an 
toàn vốn đã tính tới rủi ro tín dụng, rủi ro hoạt động và rủi 
ro thị trường thay cho các tính tỷ lệ an toàn vốn theo các 
quy định trước đây (tỷ lệ an toàn vốn mới chỉ tính tới rủi ro 
tín dụng). Theo lộ trình thực hiện tính CAR theo Basel II, 
năm 2016, có 10 ngân hàng theo chỉ định của Ngân hàng 
Nhà nước Việt Nam thực hiện thí điểm tính CAR theo Basel 
II và đến ngày 01/01/2020 khi Thông tư số 41/2016/TT-
NHNN có hiệu lực thì toàn bộ các ngân hàng trong hệ 
thống ngân hàng Việt Nam phải thực hiện tính CAR theo 
quy định của thông tư này, tức là tính CAR theo Basel II. 
Các ngân hàng hiện tính CAR theo Thông tư số 
36/2014/TT-NHNN. Hầu hết các ngân hàng đều đảm bảo 
duy trì CAR cao hơn CAR tối thiểu (9%) (hình 1). 
(Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) 
Hình 1. Tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống tổ chức tín dụng, giai đoạn 2010-2016 
Như vậy, có thể thấy CAR của hệ thống qua các năm từ 
2010-2016 đều vượt mức quy định tối thiểu 9% nhưng có 
xu hướng giảm trong những năm gần đây. Đặc biệt, năm 
2016 là năm thí điểm áp dụng tính CAR theo Basel II đối với 
10 ngân hàng được chỉ định, CAR của toàn hệ thống trong 
năm mặc dù vẫn cao hơn quy định tối thiểu 9% nhưng đã 
giảm so với năm 2015. Điều này càng làm tăng áp lực đối 
với hệ thống ngân hàng khi tiến tới áp dụng tính CAR theo 
Basel II trên toàn hệ thống. Bên cạnh đó, tỷ lệ an toàn vốn 
của các nhóm ngân hàng có sự khác biệt lớn (hình 2). 
(Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo thường niên của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam) 
Hình 2. Tỷ lệ an toàn vốn của hệ thống tổ chức tín dụng, giai đoạn 2010-2016 
Bảng 2. So sánh CAR của Việt nam và một số nước trong khu vực giai đoạn 2010-2015 
(đơn vị: %) 
Quốc gia 2010 2011 2012 2013 2014 2015 
Việt Nam 11,3 12,9 11,8 13,4 11,8 12,8 
Thailand 16,1 14,8 16,2 15,5 16,5 17,1 
Indonesia 16,2 16,1 17,3 19,8 18,7 21,3 
Malaysia 17,5 17,7 17,6 14,6 15,4 16,3 
Philippines 16,7 17,1 17,8 17,0 16,1 15,3 
Trung Quốc 12,2 12,7 13,3 12,2 13,2 13,5 
(Nguồn: Tổng hợp từ website của IMF) 
Có thể thấy, mặc dù xét trên toàn hệ thống, CAR qua 
các năm đều cao hơn CAR tối thiểu nhưng xét cụ thể cho 
từng nhóm ngân hàng thì CAR của các NHTM nhà nước 
thấp hơn so với các NHTM cổ phần và thấp hơn nhiều so 
với NH liên doanh, nước ngoài (CAR của NHTM nhà nước 
thường thấp hơn 3% so với CAR bình quân toàn hệ thống, 
2% so với các NHTM cổ phần, thấp hơn rất nhiều so với các 
ngân hàng nước ngoài. Trong khi đó, các NHTM nhà nước 
lại chiếm đến hơn 40% thị phần huy động và cho vay toàn 
thị trường, điều này có thể tiềm ẩn rủi ro không nhỏ, đe 
dọa an toàn của cả hệ thống. Bên cạnh đó, so sánh với các 
nước trong khu vực thì CAR của Việt Nam thấp nhất (bảng 
2). CAR của Việt Nam luôn thấp hơn nhiều so với các quốc 
gia trong khu vực. Ngoài ra, CAR của các quốc gia Thái Lan, 
Indonesia, Trung Quốc có xu hướng tăng trong khi CAR của 
Việt Nam có sự biến động. Điều này cho thấy những bất ổn 
trong công tác an toàn về vốn của hệ thống tài chính Việt 
Nam là đáng kể so với các nước trong khu vực. Hiện tại, các 
ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn tính CAR theo Thông 
tư số 36/2014/TT-NHNN, trừ 10 ngân hàng thí điểm theo 
cách tính mới (phương trình 2). 
 (2) 
Trong đó, Vốn tự có = Vốn tự có cấp 1 + Vốn tự có cấp 2 – Khoản giảm trừ 
CAR = 
Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2 
≥ 8% 
∑ (Tài sản * Hệ số rủi ro) + Rủi ro thị trường * 12,5 + Rủi ro hoạt động * 12,5 
Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu hợp nhất (%) = Vốn tự có x 100% Tổng tài sản Có rủi ro 
 XÃ HỘI 
 Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ● Số 46.2018 112
KINH TẾ
B ảng 4. Phân tích SWOT về các NHTM Việt Nam khi thực hiện tính CAR theo 
Basel II 
Điểm mạnh (Strength) Điểm yếu (Weekness) 
S1: Tổng tài sản có và vốn tự có của các 
ngân hàng thương mại ngày càng được 
cải thiện. 
S2: Năng lực tài chính, năng lực quản 
trị, kiểm toán, kiểm soát nội bộ của các 
ngân hàng thương mại tiếp tục được 
tăng cường và hiện đại hóa theo thông 
lệ và chuẩn mực quốc tế. 
W1: So với các nước trong khu vực thì quy 
mô vốn của các ngân hàng thương mại Việt 
Nam còn khá nhỏ. 
W2: Tỷ lệ an toàn vốn không ổn định và ở 
mức thấp so với các nước trong khu vực. 
W3: Khả năng sinh lời của các ngân hàng 
thương mại ở mức thấp so với chuẩn mực 
quốc tế và so với các nước trong khu vực (Trần 
Thị Lan Anh và Nguyễn Thị Hải Yến, 2016). 
W4: Việc xử lý nợ xấu chưa triệt để, chủ yếu 
là chuyển gánh nặng nợ từ các tổ chức tín 
dụng sang Công ty quản lý tài sản của các tổ 
chức tín dụng Việt Nam (VAMC). 
Cơ hội (Oportunitise) Thách thức (Threats) 
O1: Quy định về tỷ lệ an toàn vốn hiện 
tại đã đảm bảo các tiêu chuẩn Basel I và 
tiến tới theo các tiêu chuẩn Basel II. 
O2: Tỷ lệ an toàn vốn của các ngân 
hàng thương mại vượt mức quy định 
tối thiểu 9%. 
O3: Chất lượng tín dụng được cải thiện, 
tỷ lệ nợ xấu của hệ thống tổ chức tín 
dụng đã giảm về ngưỡng an toàn. 
T1: Theo cách tính CAR mới, CAR của các 
ngân hàng sẽ giảm đi nhiều, Tài sản có rủi ro 
sẽ tăng lên. 
T2: Việc mở cửa hệ thống ngân hàng tạo áp 
lực cạnh tranh giữa các ngân hàng trong 
nước và ngân hàng nước ngoài, có thể làm 
giảm hiệu quả hoạt động và tỷ lệ CAR của 
ngân hàng trong nước. 
Tổng tài sản có rủi ro chỉ bao gồm các tài sản có rủi ro 
tín dụng cả trong và ngoài bảng cân đối kế toán và được 
điều chỉnh theo các tỷ lệ rủi ro từ 0% đến 150%. Giữa cách 
tính CAR theo quy định hiện hành và tính theo Basel II có 
một số khác biệt cả về Vốn tự có và Tài sản Có rủi ro (bảng 3). 
Căn cứ vào thực trạng về quy định an toàn vốn cũng 
như việc thực hiện tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng 
thương mại Việt Nam, kết quả phân tích SWOT về Điểm 
mạnh - Điểm yếu, Cơ hội - Thách thức đối với các ngân 
hàng khi thực hiện tính tỷ lệ an toàn vốn theo Basel II được 
trình bày trong bảng 4. 
5. KHUYẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN 
Dựa vào kết quả phân tích SWOT ở trên, theo lộ trình 
thực hiện Basel II mà Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đề ra, 
các ngân hàng thương mại Việt Nam cần không ngừng 
nâng cao năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh và hoàn 
thiện về mọi mặt theo quy định cũng như hướng tới các 
thông lệ và chuẩn mực quốc tế. Để thực hiện tính tỷ lệ an 
toàn vốn theo Basel II, các ngân hàng cần khắc phục và 
hoàn thiện một số hạn chế, như sau: Một là, có chiến lược 
tăng vốn tự có, chuẩn bị về phương tiện kỹ thuật để tính 
toán xác định rủi ro trong cách tính CAR theo Basel II; Hai là, 
không ngừng ứng dụng khoa học công nghệ trong mọi 
hoạt động ngân hàng nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ 
cũng như kiểm soát rủi ro; Ba là, nâng cao khả năng tài 
chính và lành mạnh về tài chính trong hoạt động của hệ 
thống ngân hàng. 
Một số giải pháp cụ thể như sau: 
Thứ nhất, đối với Ngân hàng Nhà nước: (i) Đẩy mạnh 
quá trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng để nâng 
cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh, như: xử lý các 
ngân hàng yếu kém, khuyến khích việc mua lại, sáp nhập, 
hợp nhất tự nguyện của các ngân hàng để tăng cường tiềm 
lực tài chính, mở rộng quy mô hoạt động; (ii) Tăng cường 
thanh tra, giám sát hoạt động, quá trình tái cơ cấu, xử lý nợ 
xấu của các tổ chức tín dụng nói riêng và hệ thống ngân 
Bảng 3. So sánh sự khác biệt trong cách tính CAR 
TT Chỉ tiêu Theo Basel II Theo Thông tư số 36/2014/TT-NHNN 
1 Quỹ dự phòng tài chính Ghi nhận vào Vốn cấp 1 - Ghi nhận vào Vốn cấp 2 
- Tổng vốn tự có không có khác biệt 
2 Lợi nhuận giữ lại Ghi nhận vào Vốn cấp 1 Thông tư số 36 chỉ ghi nhận lợi nhuận giữ lại sau khi có 
kiểm toán và có quyết định đại hội đồng cổ đông 
3 
75% dự phòng chung theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, dự 
phòng rủi ro cho vay tổ chức tín dụng khác, dự phòng rủi ro cho vay 
khách hàng 
Không ghi nhận vào Vốn cấp 2 Được ghi nhận vào Vốn cấp 2 
4 Số dư mua, nợ đầu tư thứ cấp của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng 
nước ngoài phát hành đủ điều kiện phát hành vào Vốn cấp 2 của 
ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đó (không bao gồm 
nợ thứ cấp nhận làm tài sản đảm bảo, chiết khấu, tái chiết khấu của 
khách hàng) 
Không ghi nhận vào Vốn cấp 2 Được ghi nhận vào Vốn cấp 2 
5 Các khoản góp vốn, mua cổ phần tại tổ chức tín dụng khác 
Là khoản giảm trừ Vốn tự có. Tuy nhiên, 
chỉ trừ nếu công ty con là tổ chức tín 
dụng 
Thông tư số 36 còn yêu cầu trừ các khoản góp vốn vào 
công ty 
6 Các khoản góp vốn, mua cổ phần tại các doanh nghiệp hoạt động 
trong lĩnh vực bảo hiểm, chứng khoán, kiều hối, kinh doanh ngoại 
hối, vàng, bao thanh toán, phát hành thẻ tín dụng, tín dụng tiêu 
dùng, dịch vụ trung gian thanh toán, thông tin tín dụng 
Bị trừ vào Vốn tự có Thông tư số 36 chỉ yêu cầu trừ khi các khoản vốn mua cổ 
phần để nắm quyền kiểm soát, khoản góp vốn vào công ty 
chứng khoán và công ty thông tin tín dụng 
7 Tổng tài sản có rủi ro = ∑ (Tài sản * Hệ số rủi ro) + Rủi ro thị trường * 
12,5 + Rủi ro hoạt động * 12,5 
Chỉ tiêu để tính CAR theo Basel II - Không tính rủi ro thị trường và rủi ro tín dụng 
- Tổng tài sản có rủi ro = Tài sản * Hệ số rủi ro 
(Tổng hợp của tác giả từ Thông tư số 36/2014/TT-NHNN và Thông tư số 41/2016/TT-NHNN) 
 ECONOMICS-SOCIETY 
Số 46.2018 ● Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 113
hàng thương mại nói chung. Tạo điều kiện cho cho các 
ngân hàng thương mại xử lý các khoản nợ xấu một cách 
triệt để qua VAMC. 
Thứ hai, đối với các ngân hàng thương mại: (i) Không 
ngừng mở rộng quy mô vốn, tăng vốn điều lệ, đảm bảo 
quy định vốn điều lệ tối thiểu 3.000 tỷ theo yêu cầu của 
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thông qua quá trình tái cấu 
trúc các tổ chức tín dụng theo đề án của Ngân hàng Nhà 
nước đã đề ra. Tuy nhiên, so với các nước trong cùng khu 
vực thì quy mô vốn của các ngân hàng thương mại Việt 
Nam còn ở mức thấp. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ an 
toàn vốn, do đó cần tăng quy mô vốn của mình đặc biệt là 
vốn tự có. (ii) Cần tính đúng, tính đủ các tài sản rủi ro, đặc 
biệt là rủi ro tín dụng, đồng thời nâng cao chất lượng 
khoản tín dụng giảm tỷ lệ nợ xấu và kiểm soát ở mức an 
toàn bằng cách kiểm soát chặt chẽ đảm bảo chất lượng 
khâu thẩm định tín dụng, cho vay dựa trên hiệu quả sản 
xuất kinh doanh và xếp hạng tín nhiệm của khách hàng. (iii) 
Khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại là một 
trong những yếu tố ảnh hưởng tới tỷ lệ an toàn vốn. Theo 
Gropp và Heider (2007), tỷ lệ lợi nhuận trên tổng tài sản 
(ROA) có tương quan thuận với tỷ lệ an toàn vốn của ngân 
hàng thương mại, các ngân hàng có lợi nhuận nhiều hơn 
thường có xu hướng có nhiều vốn hơn so với tài sản, do đó, 
tăng khả năng sinh lời sẽ giúp các ngân hàng cải thiện tỷ lệ 
an toàn vốn. Theo WB (2014), Linh Lan (2015), các ngân 
hàng thương mại Việt Nam có khả năng sinh lời thấp so với 
hầu hết các nước là do hạn chế về quy mô vốn chủ sở hữu, 
tài sản và lợi nhuận. Một trong nhữnc nguyên nhân làm 
cho lợi nhuận của ngân hàng thương mại Việt Nam ở mức 
thấp là do: chi phí trích lập dự phòng rủi ro tín dụng và chi 
phí hoạt động đều ở mức cao. Theo KPMG (2013), chi phí 
này chiếm trung bình 49% tổng doanh thu hoạt động của 
ngân hàng, có 22 ngân hàng chi phí hoạt động chiếm trên 
50% tổng doanh thu hoạt động. Chính vì vậy, để tăng khả 
năng sinh lời, các ngân hàng thương mại Việt Nam cần 
nâng cao chất lượng tài sản để giảm chi phí dự phòng rủi ro 
tín dụng, chi phí hoạt động bằng cách tăng cường chuyên 
môn hóa, tự động hóa để cung cấp các sản phẩm dịch vụ 
cho khách hàng một cách chuyên nghiệp mọi lúc mọi nơi, 
góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản trị ngân hàng. 
Tính tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II là xu 
hướng tất yếu trong quản lý hệ thống ngân hàng ở mỗi 
quốc gia nhằm đảm bảo an toàn cho hệ thống ngân hàng. 
Việt Nam không nằm ngoài xu thế đó, đã và đang từng 
bước hoàn thiện các quy định pháp lý, cải thiện năng lực tài 
chính, công nghệ, năng lực quản trị, kiểm toán, kiểm soát 
nội bộ của các tổ chức tín dụng phù hợp với thông lệ và 
chuẩn mực quốc tế (Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, 2016). 
Các quy định về tỷ lệ an toàn vốn của các ngân hàng 
thương mại Việt Nam đã đảm bảo theo tiêu chuẩn Basel I 
và đang tiến dần đến Basel II./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Abdel Karim, R.A. (1996). The Impact of the Basel Capital Adequacy 
Ratio Regulation on the Financial and Marketing Strategies of Islamic Banks. 
International Journal of Bank Marketing, pp. 32-44. 
2. Akerlof, G. A. 1990, The market for “lemons”: Quality uncertainty and 
the market mechanism, Quarterly Journal of Economies Vol. 84 No.3: 488-500. 
3. Al-Sabbagh, N. 2004. Determinants of Capital Adequacy Ratio In 
Jordanian Banks. Master thesis.Yarmouk University. Irbid, Jordan. 
4. Ariccia and Marquez (2004). Information and bank credit 
allocation. Journal of Financial Economics, 1(72): 185-214. 
5. Berger, A. N., Herring, R. J. and Szegö, G. P., (1995). The Role of Capital 
in Fi-nancial Institutions. Wharton Working Paper, pp. 95-01. 
6. BIS. 1999. Basel Committee on Banking Supervision: A new capital 
adequacy framework. [online]. Available from: 
https://www.bis.org/publ/bcbs50.pdf (Accessed 15 May 2017). 
7. BIS. 2006. Basel II: International Convergence of Capital Measurement 
and Capital Standards: A Revised Framework - Comprehensive Version. [online]. 
Available from: https://www.bis.org/publ/bcbs128.pdf (Accessed 15 May 2017). 
8. BIS. 2011. Basel III: A global regulatory framework for more resilient 
banks and banking systems - revised version June 2011. [online]. Available from: 
https://www.bis.org/publ/bcbs189.pdf (Accessed 15 May 2017). 
9. Casu, B., Molyneux, P and Girardone, C. (2015). Introduction to banking. 
2nd Ed. London: Prentice Hall Financial Times. 
10. Dowd, K. (1999). Does Asymetric Information Justify Bank Capital 
Adequacy Regulation? Cato Journal, 19(1): 39-47. 
11. Ebong, B. B. (2005), The Banking Industry and the Nigerian Economy: 
Post consolidation, Union Digest, Vol. 9, No. 3: 17-30. 
12. King R. G. and Levine R. (1993). Finance, entrepreneurship, and 
growth. Journal of Monetary.Vol. 40: 259-292. North-Holland. 
13. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2010), Thông tư số 13/2010/TT-NHNN 
ngày 20/5/2010. Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ 
chức tín dụng. 
toanvan.aspx?ItemID=25274 
14. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2014), Thông tư số 36/2014/TT-NHNN. 
Quy định các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn vốn trong hoạt động của tổ chức tín 
dụng, chi nhánh ngân hàng nước 
ngoài.
goc.aspx?ItemID=38214 
15. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư 06/2016/TT-NHNN 
ngày 27/5/2016. Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 36/2014/TT-
NHNN ngày 20 tháng 11 năm 2014 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước quy 
định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín 
dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. http:vbpl.vn/TW/Pages/vbpq-
toanvan.aspx?ItemID=104204 
16. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016), Thông tư 41/2016/TT-NHNN. 
Quy định tỷ lệ an toàn vốn đối với ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 
http:vbpl.vn/nganhangnhanuoc/Pages/vbpq-van-ban goc.aspx?ItemID=117310 
17. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Báo cáo thường niên từ năm 2010 đến 
2016. 
18. Oloo, O. (2011) Banking Survey Report, The best banks this decade 
2001-2010, Think Business Limited, Kenya, www.bankingsurvey.co.ke 
19. Patrick, HT (1966), Financial Development and Economic Growth in 
Underdeveloped Countries, Economic Development and Cultural Change, vol. 14: 
174-189. 

File đính kèm:

  • pdfco_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_cac_ngan_hang_thuong_mai_tai_vi.pdf