Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ được điều trị thuốc ức chế Tyrosine kinase tại Bệnh viện Bạch Mai
TÓM TẮT
Mục tiêu: đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (BN) ung thư phổi không tế bào
nhỏ (UTPKTBN) được điều trị bằng thuốc ức chế tyrosine kinase tại Trung tâm Y học Hạt nhân
và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng, phương pháp: 26 BN UTPKTBN giai đoạn IIIB,
IV được điều trị bằng iressa hoặc tarceva. Sử dụng thang điểm EORTC QLQ-C30 và EORTC
QLQ-LC13 để so sánh chất lượng sống của BN tại hai thời điểm trước và sau 2 tháng điều trị.
Kết quả: sau 2 tháng điều trị, BN thay đổi có ý nghĩa các chức năng thể chất (điểm số 80,5 - 86,7),
chức năng hoạt động (điểm số 72,7 - 85,3), chức năng cảm xúc (điểm số 65,4 - 87,8) và các
triệu chứng: mệt mỏi (điểm số 24,8 - 13,7), khó thở (điểm số từ 17,9 - 2,6), ho (điểm số 48,7 - 2,6),
ho ra máu (điểm số 9,7 - 0,0), đau (điểm số 26,3 - 10,3), rối loạn giấc ngủ (điểm số 25,6 - 15,4),
táo bón (điểm số 14,1 - 0,0), tiêu chảy (điểm số 5,1 - 20,5), chất lượng cuộc sống tổng thể
(điểm số 51,9 - 59,0) và vấn đề tài chính (điểm số 33,3 - 61,5). Kết luận: nhóm BN UTPKTBN
được điều trị thuốc ức chế tyrosine kinase có cải thiện các chức năng thể chất, chức năng hoạt
động, các triệu chứng đặc trưng của bệnh và chất lượng cuộc sống tổng thể. Tác động xấu gặp
phải là triệu chứng tiêu chảy và vấn đề tài chính.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ được điều trị thuốc ức chế Tyrosine kinase tại Bệnh viện Bạch Mai
TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016 133 ĐÁNH GIÁ CHẤT LƢỢNG CUỘC SỐNG CỦA BỆNH NHÂN UNG THƢ PHỔI KHÔNG TẾ BÀO NHỎ ĐƢỢC ĐIỀU TRỊ THUỐC ỨC CHẾ TYROSINE KINASE TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI Phạm Cẩm Phương*; Mai Trọng Khoa* TÓM TẮT Mục tiêu: đánh giá chất lượng cuộc sống của bệnh nhân (BN) ung thư phổi không tế bào nhỏ (UTPKTBN) được điều trị bằng thuốc ức chế tyrosine kinase tại Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai. Đối tượng, phương pháp: 26 BN UTPKTBN giai đoạn IIIB, IV được điều trị bằng iressa hoặc tarceva. Sử dụng thang điểm EORTC QLQ-C30 và EORTC QLQ-LC13 để so sánh chất lượng sống của BN tại hai thời điểm trước và sau 2 tháng điều trị. Kết quả: sau 2 tháng điều trị, BN thay đổi có ý nghĩa các chức năng thể chất (điểm số 80,5 - 86,7), chức năng hoạt động (điểm số 72,7 - 85,3), chức năng cảm xúc (điểm số 65,4 - 87,8) và các triệu chứng: mệt mỏi (điểm số 24,8 - 13,7), khó thở (điểm số từ 17,9 - 2,6), ho (điểm số 48,7 - 2,6), ho ra máu (điểm số 9,7 - 0,0), đau (điểm số 26,3 - 10,3), rối loạn giấc ngủ (điểm số 25,6 - 15,4), táo bón (điểm số 14,1 - 0,0), tiêu chảy (điểm số 5,1 - 20,5), chất lượng cuộc sống tổng thể (điểm số 51,9 - 59,0) và vấn đề tài chính (điểm số 33,3 - 61,5). Kết luận: nhóm BN UTPKTBN được điều trị thuốc ức chế tyrosine kinase có cải thiện các chức năng thể chất, chức năng hoạt động, các triệu chứng đặc trưng của bệnh và chất lượng cuộc sống tổng thể. Tác động xấu gặp phải là triệu chứng tiêu chảy và vấn đề tài chính. * Từ khóa: Ung thư phổi không tế bào nhỏ; Chất lượng cuộc sống; Thuốc ức chế tyrosine kinase. Evaluating the Quality of Life in patients with Non-Small Cell Lung Cancer Treated by Tyrosine Kinase Inhibitor at Bachmai Hospital Summary Objectives: To evaluate the quality of life in patients with non-small cell lung cancer (NSCLC) treated by tyrosine kinase inhibitor at the Nuclear Medicine and Oncology Center, Bachmai Hospital. Patients and methods: 26 patients with NSCLC stage IIIb, IV were treated by iressa or tarceva entered into this prospective study. The European Organization for Research and Treatment of Cancer (EORTC) Quality of Life Questionnaire (QLQ)-C30 and EORTC QLQ-LC13 were used to investigate changes in QoL. Assessments were performed before and after 2 months treatment. Results: After 2 months treatment, there were significant changes in the QoL, response scores for physical function varied from 80.5 - 86.7, role functioning (72.7 - 85.3), emotional functioning 65.4 - 87.8 and symptoms of fatigue (17.9 - 2.6), dyspnea (17.9 - 2.6), cough (48.7 - 2.6), hemoptysis (9.7 - 0.0), pain (26.3 - 10.3), insomnia (25.6 - 15.4), constipation (14.1 - 0.0), diarrhea (5.1 - 20.5), general quality of life (51.9 - 59.0) and financial difficulty (33.3 - 61.5). Conclusion: NSCLC patients treated by tyrosine kinase inhibitor were improved physical role, emotional functioning, characterized symptoms of lung cancer and global health status. Worsening impact is only problem of diarrhea financial difficulty. * Key words: Non-small cell lung cancer; Quality of life; Tyrosine kinase inhibitor. * Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai Người phản hồi (Corresponding): Phạm Cẩm Phương (camphuongmd@yahoo.com) Ngày nhận bài: 20/08/2015; Ngày phản biện đánh giá bài báo: 28/12/2015 Ngày bài báo được đăng: 05/01/2016 TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016 134 ĐẶT VẤN ĐỀ Ung thư phổi (UTP) là bệnh lý ác tính phổ biến, là nguyên nhân gây tử vong hàng đầu trong các bệnh ung thư trên thế giới. UTP đang trở thành mối lo ngại đe dọa sức khỏe, sự phát triển của toàn cầu. Theo ghi nhận của Globocan (2012), ước tính có 1,8 triệu trường hợp mới mắc (12,9%) và 1,59 triệu người chết (19,4%) trong tổng số ung thư mới mắc ở cả nam và nữ. Trong đó, UTPKTBN là dạng thường gặp, chiếm 80 - 85% UTP [4]. Hiện nay, việc điều trị UTPKTBN đã có nhiều tiến bộ với sự đa dạng của kỹ thuật, hóa chất điều trị cũng như các thuốc điều trị nhắm đích phát triển mang lại hi vọng to lớn cho bác sỹ điều trị và BN ung thư. Đã có nhiều thử nghiệm và nghiên cứu về UTPKTBN, nhưng hầu hết đều tập trung tới khía cạnh hiệu quả điều trị, thời gian sống còn, tác dụng không mong muốn của hóa chất, thuốc và kỹ thuật điều trị. Hiện nay, cùng với sự phát triển của xã hội và nhu cầu của con người, chất lượng cuộc sống của BN ung thư đã được quan tâm nhiều hơn và trở thành mục tiêu nghiên cứu của nhiều đề tài về ung thư nói chung trên thế giới. Ở Việt Nam, có rất ít nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của BN ung thư nói chung và UTPKTBN nói riêng. Vì thế, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này với mục tiêu: Đánh giá chất lượng cuộc sống của BN UTPKTBN được điều trị bằng thuốc ức chế tyrosine kinase tại Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Đối tƣợng nghiên cứu. 26 BN được chẩn đoán là UTPKTBN giai đoạn IIIb hoặc IV, điều trị thuốc phân tử nhỏ tại Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai từ tháng 10 - 2014 đến 3 - 2015. * Tiêu chuẩn lựa chọn: - BN UTPKTBN giai đoạn IIIb, IV. - Mô bệnh học: ung thư biểu mô tuyến, có đột biến EGFR (+). - Điều trị thuốc phân tử nhỏ: iressa 250 mg/lần/ngày hoặc tarceva 150 mg/lần/ngày. * Tiêu chuẩn loại trừ: - BN UTPKTBN giai đoạn I, II, IIIa. - Mô bệnh học không phải là ung thư biểu mô tuyến hoặc ung thư biểu mô tuyến nhưng không có đột biến EGFR. - Không được điều trị bằng thuốc ức chế tyrosine kinase, được xạ trị, hóa trị. 2. Phƣơng pháp nghiên cứu. * Thiết kế nghiên cứu: mô tả kết quả can thiệp lâm sàng, có đánh giá trước, sau điều trị. * Đánh giá chất lượng cuộc sống BN nghiên cứu: Chất lượng cuộc sống của BN UTPKTBN trong nghiên cứu được đánh giá bằng 2 bộ câu hỏi tự điền EORTC QLQ-C30 và EORTC QLQ-LC13. Bao gồm các câu hỏi đánh giá chức năng và triệu chứng liên quan tới UTP và ung thư nói chung. Chia câu hỏi thành 4 mức độ, từ 1 (không có) đến 4 (rất nhiều) [3]. * Cách tính điểm EORTC QLQ-C30, QLQ-LC 13: Cách tính thang điểm này theo hướng dẫn của nhóm nghiên cứu về chất lượng cuộc sống của Tổ chức Nghiên cứu và Điều trị Ung thư châu Âu (nhóm tác giả của bộ câu hỏi EORTC QLQ-C30). Sau đó, tất cả các điểm số của câu hỏi được TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016 135 quy đổi tuyến tính sang một thang điểm 0 - 100. Điểm số được mã hóa lại có ý nghĩa như sau: các vấn đề chức năng và sức khỏe tổng quát: điểm số cao hơn đại diện cho mức độ tốt hơn của chức năng và sức khỏe tổng quát. Các vấn đề triệu chứng: điểm số cao hơn tương ứng với triệu chứng nặng hơn [6]. - Điểm thô: trung bình điểm các câu hỏi trong cùng vấn đề: Điểm thô: Raw Score (RS) = (I1 + I2 + + In)/n. Trong đó: I1: điểm số câu hỏi 1; I2: điểm số câu hỏi 2; In: điểm số câu hỏi n. (giả sử ở đây câu hỏi 1, 2 và n cùng trong 1 vấn đề). - Điểm chuẩn hóa: điểm thô được tính trên tỷ lệ 100 (theo công thức): + Điểm lĩnh vực chức năng: + Điểm lĩnh vực triệu chứng, tài chính: + Điểm lĩnh vực sức khỏe toàn diện: Đánh giá chất lượng cuộc sống BN tại 2 thời điểm: trước điều trị và sau 2 tháng sử dụng thuốc ức chế tyrosine kinase. Hai bộ câu hỏi EORTC QLQ-C30 và EORTC QLQ-LC13 sử dụng trong nghiên cứu được đánh giá lại độ tin cậy với 26 BN trong mẫu nghiên cứu theo hệ số alpha cronbach. Hệ số alpha cronbach cho thấy mức độ giống nhau của các câu hỏi trong cùng một vấn đề, hệ số alpha cronbach > 0,65 chứng tỏ thang đo đủ tin cậy. Như vậy, thang đo này cho hệ số alpha cronbach > 0,65 ở hầu hết các vấn đề, trừ vấn đề nhận thức (alpha cronbach = 0,5). * Xử lý số liệu: số liệu được nhập và xử lý bằng phần mềm SPSS 16.0. Sử dụng kiểm định paired-t test khi so sánh giá trị trung bình trước và sau điều trị. Sự khác biệt giữa hai giá trị trung bình có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN 1. Đặc điểm BN nghiên cứu. * Tuổi và giới: Bảng 1: Phân bố BN UTPKTBN theo khoảng tuổi. Chỉ tiêu n Tỷ lệ (%) Giới tính Nam 18 69,2 Nữ 8 30,8 Tổng 26 100,0 Tuổi ≤ 40 4 15,4 41 - 50 8 30,7 51 - 60 2 7,7 61 - 70 6 23,1 ≥ 71 6 23,1 Tổng 26 100,0 Trung bình 55,08 ± 15,13 Tuổi của nhóm BN nghiên cứu phân bố từ 30 - 78, chủ yếu trong độ tuổi từ 51 - 70 (61,6%). Tuổi trung bình nhóm BN nghiên cứu 55,08. Trong mẫu nghiên cứu, nam chiếm tỷ lệ cao (69,2%) hơn nữ (30,8%). Tỷ lệ nam/nữ là 2,3. * Phân loại BN theo mô bệnh học: ung thư biểu mô tuyến chiếm tỷ lệ cao (92,3%); ung thư tế bào vảy 7,69%. TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016 136 * Phân loại BN theo giai đoạn bệnh: BN UTPKTBN ở giai đoạn IV chiếm tỷ lệ cao (69,2%); BN mắc bệnh giai đoạn IIIB 30,8%. 2. Chất lƣợng cuộc sống BN trƣớc điều trị. Bảng 2: Điểm chất lượng cuộc sống BN trước điều trị theo bộ câu hỏi EORTC QLQ-C30. Lĩnh vực µ SD Các mặt chức năng Thể chất 80,5 15,4 Hoạt động 71,8 22,6 Nhận thức 84,6 18,2 Cảm xúc 65,4 7,3 Xã hội 73,1 15,7 Chất lượng cuộc sống tổng thể 52,0 22,9 Các triệu chứng của bệnh và tài chính Mệt mỏi 24,8 20,0 Buồn nôn và nôn 1,3 4,5 Đau 26,3 18,4 Khó thở 17,9 16,9 Rối loạn giấc ngủ 25,6 27,2 Mất cảm giác ngon miệng 20,5 21,2 Táo bón 14,1 21,4 Tiêu chảy 5,1 12,3 Tác động tài chính 33,3 18,9 Trước điều trị, nhóm BN điều trị thuốc ức chế tyrosine kinase có điểm số về chức năng thể chất, chức năng hoạt động, chức năng cảm xúc, chức năng xã hội ở mức khá cao (65,4 - 84,6 điểm), cho thấy nhóm BN này có các chức năng thể chất, chức năng hoạt động, chức năng cảm xúc, chức năng xã hội khá tốt. Điểm chất lượng cuộc sống tổng thể ở mức trung bình (52,0). Về triệu chứng, nhóm BN nghiên cứu có điểm số khá thấp ở tất cả các mặt mệt mỏi, đau, khó thở, rối loạn giấc ngủ, mất cảm giác ngon miệng, táo bón và đặc biệt thấp ở mặt buồn nôn/nôn (1,3) và tiêu chảy (5,1). Về tài chính, trước điều trị có điểm số 33,3, phản ánh khía cạnh tài chính ít ảnh hưởng tới BN. Bảng 3: Điểm chất lượng cuộc sống BN trước điều trị theo bộ câu hỏi EORTC QLQ-LC13. Lĩnh vực µ SD Ho 48,7 27,0 Ho ra máu 11,5 18,7 Khó thở 17,1 14,5 Đau ngực 32,1 24,0 Đau vai/cánh tay 19,2 23,4 Đau vị trí khác 5,1 12,3 Sử dụng thuốc giảm đau 20,5 16,5 Viêm miệng lưỡi 10,3 15,7 Khó nuốt 15,4 16,9 Ngứa tay, bàn chân 5,1 12,3 Rụng tóc 12,8 21,2 Trước điều trị, lĩnh vực triệu chứng của BN nghiên cứu có điểm số cao nhất là ho (48,7), sau đó là đau ngực (32,1); đau vai/cánh tay (19,2) và khó thở (17,1). Các mục ho ra máu, đau vị trí khác, viêm miệng lưỡi, khó nuốt, ngứa bàn chân/bàn tay và rụng tóc có điểm số thấp (từ 5,1 - 15,4), sử dụng thuốc giảm đau có điểm số 20,5. TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016 137 3. Thay đổi chất lƣợng cuộc sống BN trƣớc và sau điều trị. Bảng 4: So sánh chất lượng cuộc sống BN trước và sau điều trị theo bộ câu hỏi EORTC QLQ-C30. Lĩnh vực Trƣớc điều trị Sau điều trị p µ µ Các mặt chức năng Thể chất 80,5 86,7 0,001 Hoạt động 72,7 85,3 0,001 Nhận thức 84,6 88,5 0,056 Cảm xúc 65,4 87,8 0,000 Xã hội 73,1 76,9 0,056 Chất lượng cuộc sống tổng thể 51,9 59,0 0,012 Các triệu chứng của bệnh và tài chính Mệt mỏi 24,8 13,7 0,000 Buồn nôn và nôn 1,3 1,3 1,000 Đau 26,3 10,3 0,000 Khó thở 17,9 2,6 0,000 Rối loạn giấc ngủ 25,6 15,4 0,003 Mất cảm giác ngon miệng 20,5 15,4 0,256 Táo bón 14,1 0,0 0,003 Tiêu chảy 5,1 20,5 0,000 Tác động tài chính 33,3 61,5 0,000 Sau 2 tháng điều trị, nhóm BN nghiên cứu có điểm số cao hơn trước điều trị ở tất các các mặt chức năng và chất lượng cuộc sống tổng thể, chứng tỏ nhóm BN này có cải thiện tất cả các chức năng và chất lượng cuộc sống tổng thể sau điều trị. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê. Về triệu chứng, điểm số sau 2 tháng điều trị của các mục mệt mỏi, đau, khó thở, rối loạn giấc ngủ, mất cảm giác ngon miệng, táo bón thấp hơn trước điều trị, cho thấy cải thiện các triệu chứng này sau khi điều trị ở nhóm sử dụng thuốc nhắm đích. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Triệu chứng buồn nôn và nôn ở nhóm BN dùng thuốc ức chế tyrosine kinase không thay đổi trước và sau điều trị. Điểm số cho triệu chứng tiêu chảy và tác động tài chính sau điều trị cao hơn trước điều trị cho thấy vấn đề tiêu chảy bị nặng hơn sau điều trị và tài chính ảnh hưởng nhiều tới nhóm BN này. Điều này phù hợp với các nghiên cứu quốc tế và phù hợp với tác dụng không mong muốn của tarceva là gây tiêu chảy [9]. Thuốc điều trị đích thường có giá thành cao, việc sử dụng thuốc theo đúng chỉ định (tarveva 150 mg hoặc iressa 250 mg/lần/ngày), uống kéo dài, do đó chi phí cho điều trị lớn, ảnh hưởng tới vấn đề tài chính của BN. Điều này hoàn toàn hợp lý và phù hợp với nghiên cứu của Gelibter AA. Ceribelli, CF. Pollera tại Italy về tác động vấn đề tài chính của gefitinib trên BN UTPKTBN [7, 8]. Bảng 5: So sánh chất lượng cuộc sống BN trước và sau điều trị theo bộ câu hỏi EORTC QLQ-LC13. Lĩnh vực Trƣớc điều trị Sau điều trị p µ µ Ho 48,7 2,6 0,000 Ho ra máu 9,7 0,0 0,016 Khó thở 17,1 6,8 0,000 Đau ngực 32,1 7,7 0,000 Đau cánh tay/vai 19,2 0,0 0,000 Đau vị trí khác 5,1 2,6 0,161 Sử dụng thuốc giảm đau 20,5 26,9 0,203 Viêm miệng lưỡi 10,3 3,8 0,096 Khó nuốt 15,4 5,1 0,003 Ngứa tay, bàn chân 5,1 12,8 0,110 Rụng tóc 12,8 2,6 0,018 TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016 138 Sau 2 tháng điều trị, nhóm BN nghiên cứu có điểm số ở các mục ho, ho ra máu, đau ngực, đau cánh tay/vai, đau ở vị trí khác, viêm miệng lưỡi, khó nuốt và rụng tóc thấp hơn so với trước điều trị. Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p < 0,05); ngoại trừ đau ở vị trí khác và viêm miệng lưỡi. Các mục có điểm số cao hơn sau 2 tháng điều trị là sử dụng thuốc giảm đau và ngứa bàn chân/bàn tay. Sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p > 0,05). Thử nghiệm TORCH [5] (thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên pha III so sánh chất lượng cuộc sống giữa 2 nhóm hóa trị và erlotinib trong điều trị UTPKTBN) cho thấy tarceva làm cải thiện chất lượng cuộc sống tổng thể, chức năng hoạt động, chức năng thể chất và các triệu chứng ho, khó thở và đau. Như vậy, có sự tương đồng giữa nghiên cứu của chúng tôi và thử nghiệm TORCH [5] và với một số nghiên cứu khác như thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên pha III (V-15-32) tại Nhật Bản: Chất lượng cuộc sống của BN UTPKTBN dùng gefitinib so với docetaxel cho thấy gefitinib cải thiện chức năng thể chất và chức năng hoạt động, tương tự nghiên cứu của Alain Gelibter và CS [11] và Gelibter AA. Ceribelli, CF. Pollera [7]. KẾT LUẬN Qua nghiên cứu đánh giá chất lượng cuộc sống của 26 BN UTPKTBN giai đoạn IIIb, IV điều trị bằng thuốc ức chế tyrosine kinase tại Trung tâm Y học Hạt nhân và Ung bướu, Bệnh viện Bạch Mai cho thấy: Sau 2 tháng điều trị, nhóm BN thay đổi có ý nghĩa chất lượng cuộc sống: chức năng thể chất (điểm số 80,5 - 86,7), chức năng hoạt động (điểm số 72,7 - 85,3), chức năng cảm xúc (điểm số 65,4 - 87,8) và các triệu chứng: mệt mỏi (điểm số 24,8 - 13,7), khó thở (điểm số 17,9 - 2,6), ho (điểm số 48,7 - 2,6), ho ra máu (điểm số 9,7 - 0,0), đau (điểm số 26,3 - 10,3), rối loạn giấc ngủ (điểm số 25,6 - 15,4), táo bón (điểm số 14,1 - 0,0), tiêu chảy (điểm số 5,1 - 20,5), chất lượng cuộc sống tổng thể (điểm số 51,9 - 59,0) và vấn đề tài chính (điểm số 33,3 - 61,5). TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Bá Đức. Ung thư phổi. Nhà xuất bản Y học. 2004, tr.64-70. 2. Mai Trọng Khoa. Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị một số bệnh ung bướu. Dự án bệnh viện vệ tinh. Nhà xuất bản Y học. 2013. 3. Bergman B, Aaronson NK, Ahmedzai S et al. The EORTC QLQ-LC13: a modular supplement to the EORTC Core Quality of Life Questionnaire (QLQ-C30) for use in lung cancer clinical trials. EORTC Study Group on Quality of Life. Eur J Cancer. 1994, 30A (5), pp.635-642. 4. International Agency for Research on Cancer. Globocan 2012: Estimated cancer incidence, mortality and prevalence worldwide in 2012. World Health Organization. 2012. 5. Di Maio M, NB. Leighl, C. Gallo et al. Quality of life analysis of TORCH, a randomized trial testing first-line erlotinib followed by second-line cisplatin/gemcitabine chemotherapy in advanced non-small-cell lung cancer. J Thorac Oncol. 2012, 7 (12), pp.1830-1844. 6. Fayers PM, Aaronson NK, Bjordal K, Groenvold M, Curran D, Bottomley A. The EORTC QLQ-C30 Scoring Manual. European Organisation for Research and Treatment of Cancer. Brussels. 2001. TẠP CHÍ Y - DƢỢC HỌC QUÂN SỰ SỐ 1-2016 139 7. Gelibter A, A. Ceribelli, CF. Pollera et al. Impact of gefitinib ('Iressa') treatment on the quality of life of patients with advanced non- small-cell lung cancer. J Cancer Res Clin Oncol. 2005, 131 (12), pp.783-788. 8. Juhasz E, Kim JH, Klingelschmitt G et al. Effects of erlotinib first-line maintenance therapy versus placebo on the health-related quality of life of patients with metastatic non- small-cell lung cancer. Eur J Cancer. 2013, 49 (6), pp.1205-1215. 9. Katz A, Zalewski P. Quality of life benefits and evidence of antitumour activity for patients with brain metastases treated with gefitinib. Br J Cancer. 2003, 89, Suppl 2, S15-18. 10. Roland T, Skeel and Neil A. Lachant. Carcinoma lung. Handbook of cancer chemotherapy. 2007, pp.238-256. 11. Sekine I, Ichinose Y, Nishiwaki Y et al. Quality of life and disease-related symptoms in previously treated Japanese patients with non-small-cell lung cancer: results of a randomized phase III study (V-15-32) of gefitinib versus docetaxel. Ann Oncol. 2009, 20 (9), pp.1483-1488.
File đính kèm:
- danh_gia_chat_luong_cuoc_song_cua_benh_nhan_ung_thu_phoi_kho.pdf