Đổi mới công tác bồi dưỡng thường xuyên theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên dạy tiếng Khmer ở các trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Abstract: The article analyzes and evaluates the situation; therefore, proposer solutions to renovate

the regular fostering in the orientation of professional development for the Khmer language

teachers at ethnic minority boarding schools in the Mekong Delta Cuu Long. Research results will

be an important source of information for education managers throughout the country in

accordance with their local characteristics.

pdf 6 trang yennguyen 4960
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới công tác bồi dưỡng thường xuyên theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên dạy tiếng Khmer ở các trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới công tác bồi dưỡng thường xuyên theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên dạy tiếng Khmer ở các trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long

Đổi mới công tác bồi dưỡng thường xuyên theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên dạy tiếng Khmer ở các trường phổ thông dân tộc nội trú cấp tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 441 (Kì 1 - 11/2018), tr 7-12 
7 
ĐỔI MỚI CÔNG TÁC BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN THEO ĐỊNH HƯỚNG 
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC NGHỀ NGHIỆP CHO ĐỘI NGŨ GIÁO VIÊN 
DẠY TIẾNG KHMER Ở CÁC TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ 
CẤP TỈNH KHU VỰC ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG 
Lê Hoàng Dự - Sở Giáo dục và Đào tạo Cà Mau 
Ngày nhận bài: 15/09/2018; ngày sửa chữa: 20/09/2018; ngày duyệt đăng: 04/10/2018. 
Abstract: The article analyzes and evaluates the situation; therefore, proposer solutions to renovate 
the regular fostering in the orientation of professional development for the Khmer language 
teachers at ethnic minority boarding schools in the Mekong Delta Cuu Long. Research results will 
be an important source of information for education managers throughout the country in 
accordance with their local characteristics. 
Keywords: Regular training, professional capacity, Khmer language teacher, ethnic boarding 
school, Mekong Delta. 
1. Mở đầu 
Đảng và Nhà nước đã xác định việc bồi dưỡng nâng 
cao chất lượng đội ngũ (ĐNGV) là một giải pháp hết sức 
quan trọng được nêu ra trong Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 
15/6/2004 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc xây 
dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán bộ 
quản lí giáo dục; Nghị quyết số 29-NQ/TW “về đổi mới 
căn bản, toàn diện GD-ĐT, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH 
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ 
nghĩa và hội nhập quốc tế” [1]. Bộ trưởng Bộ GD-ĐT đã 
ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 
16/4/2008, quy định về đạo đức nhà giáo, trong đó nhấn 
mạnh đến các yếu tố về phẩm chất và năng lực giáo viên 
(GV), coi đó “là cơ sở để các nhà giáo nỗ lực tự rèn luyện 
phù hợp với nghề dạy học được xã hội tôn vinh; đồng thời 
là một trong những cơ sở để đánh giá, xếp loại và giám 
sát nhà giáo nhằm xây dựng đội ngũ nhà giáo có bản lĩnh 
chính trị vững vàng, có phẩm chất và lương tâm nghề 
nghiệp trong sáng, có tính tích cực học tập, không ngừng 
nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và phương pháp 
sư phạm, có lối sống và cách ứng xử chuẩn mực, thực sự 
là tấm gương sáng cho học sinh noi theo” [2]. 
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục hiện nay, cần bồi 
dưỡng ĐNGV sau đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của 
thực tiễn. Rèn luyện nâng cao phẩm chất và năng lực 
nghề nghiệp đối với GV phải như “đường xoáy trôn ốc” 
theo chiều đi lên. Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đổi 
mới giáo dục nói chung và cách tân, hoàn thiện ĐNGV 
dạy tiếng Khmer nói riêng, các trường phổ thông dân tộc 
nội trú (PTDTNT) cấp tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu 
Long (ĐBSCL) coi việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao 
phẩm chất và năng lực người GV có ý nghĩa chiến lược, 
đảm bảo sự tồn tại và tính thống nhất để phát triển. Trong 
những năm qua, ĐNGV dạy tiếng Khmer khu vực 
ĐBSCL từng bước được nâng cao cả về phẩm chất và 
năng lực. Tuy nhiên, trước xu thế hội nhập của nước ta, 
thời kì CNH, HĐH, hội nhập quốc tế, thời kì phát triển 
về công nghệ thông tin, kinh tế tri thức thì GV dạy tiếng 
Khmer phải không ngừng bồi dưỡng nhằm hoàn thiện 
hơn về phẩm chất và năng lực để đáp ứng trong bối cảnh 
hội nhập hiện nay. 
Do vậy, việc bồi dưỡng thường xuyên (BDTX) theo 
định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ 
GV dạy tiếng Khmer ở các trường PTDTNT khu vực 
ĐBSCL là một trong những thành tố quan trọng góp 
phần thành công cho mỗi nhà trường PTDTNT nói riêng 
và phát triển sự nghiệp GD-ĐT của khu vực ĐBSCL nói 
chung. Để nâng cao chất lượng giáo dục, ngành GD-ĐT 
đã đặt ra yêu cầu đối với công tác đào tạo, bồi dưỡng là 
phải được thực hiện thường xuyên và coi đây là một 
trong những nhiệm vụ trọng tâm của từng GV dạy tiếng 
Khmer. Chương trình BDTX theo định hướng phát triển 
năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ GV dạy tiếng Khmer 
nhằm góp phần nâng cao chất lượng dạy - học, đáp ứng 
yêu cầu đổi mới nội dung, chương trình, sách giáo khoa 
mới của giáo dục phổ thông. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Thực trạng công tác bồi dưỡng thường xuyên theo 
định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp cho đội ngũ 
giáo viên dạy tiếng Khmer ở các trường phổ thông dân 
tộc nội trú cấp tỉnh khu vực Đồng bằng sông Cửu Long 
2.1.1. Về đội ngũ giáo viên 
- Số lượng GV trung học phổ thông người dân tộc 
thiểu số khu vực ĐBSCL: Số lượng GV trung học phổ 
thông khu vực ĐBSCL giảm qua từng năm, cụ thể: năm 
học 2013-2014 có 25.295 GV, đến năm học 2015-2016 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 441 (Kì 1 - 11/2018), tr 7-12 
8 
là 25.086 GV (giảm 209 GV sau 3 năm). Tuy nhiên, GV 
người dân tộc thiểu số tăng, cụ thể: năm học 2013-2014 
có 747 GV người dân tộc thiểu số, đến năm học 2015-
2016 là 845 GV (tăng 98 GV sau 3 năm). Tỉnh có GV 
người dân tộc thiểu số cao nhất là Sóc Trăng (293 GV, 
chiếm tỉ lệ 15%); tiếp theo là tỉnh Trà Vinh (234 GV, 
chiếm tỉ lệ 13,85%) và tỉnh Kiên Giang (108 GV, chiếm 
tỉ lệ 5,17%) [3]. 
- Số lượng GV các trường PTDTNT cấp tỉnh khu vực 
ĐBSCL: Đến năm học 2015-2016, ĐBSCL có 11 trường 
trung học PTDTNT do Sở GD-ĐT quản lí với 109 lớp và 
325 GV. Trong đó, tỉnh Sóc Trăng có 2 trường với 24 lớp 
và 59 GV; tỉnh Trà Vinh có 2 trường với 18 lớp và 59 
GV; tỉnh Kiên Giang có 1 trường với 13 lớp và 35 GV; 
tỉnh Cà Mau có 1 trường với 12 lớp và 41 GV; tỉnh Hậu 
Giang có 1 trường với 7 lớp và 32 GV; thành phố Cần 
Thơ có 1 trường với 8 lớp và 31 GV; tỉnh Vĩnh Long có 
1 trường với 6 lớp và 21 GV; tỉnh Bạc Liêu có 1 trường 
tỉnh với 10 lớp và 22 GV; tỉnh An Giang có 1 trường với 
11 lớp và 25 GV [3]. 
- Số lượng GV dạy tiếng Khmer các trường PTDTNT 
cấp tỉnh khu vực ĐBSCL: Số lượng GV trung học phổ 
thông dạy tiếng Khmer ở các trường PTDTNT cấp tỉnh khu 
vực ĐBSCL ổn định qua từng năm, tỉ lệ GV nữ dạy tiếng 
Khmer chiếm khoảng 20% trong tổng số GV dạy tiếng 
Khmer: Từ năm học 2013-2014 đến năm học 2015-2016, 
số lượng GV dạy tiếng Khmer ổn định với 66 GV [4]. 
Ngoài ra, qua trao đổi với CBQL, các trường tuy đủ số 
lượng GV theo quy định nhưng giữa các bộ môn có sự 
thừa, thiếu khác nhau; chất lượng GV giữa các trường 
cũng không đồng đều, đặc biệt đối với GV dạy tiếng 
Khmer, hiện nay còn hợp đồng, thỉnh giảng nhiều; nguồn 
đào tạo chưa đáp ứng nhu cầu thực tế đảm bảo GV giảng 
dạy tiếng Khmer hiện nay. Nguyên nhân chính của việc 
này là công tác dự báo, quy hoạch phát triển ĐNGV chưa 
tốt, chưa phù hợp với sự phát triển về quy mô, trường lớp 
và yêu cầu phát triển của ngành. Các trường chưa chủ động 
xây dựng quy hoạch phát triển ĐNGV tại đơn vị mình, 
trông chờ và phụ thuộc vào sự phân công, bố trí, sắp xếp, 
cũng như công tác đào tạo, bồi dưỡng phát triển ĐNGV từ 
Sở GD-ĐT. Các trường trên địa bàn tỉnh, thành phố có sự 
chênh lệch về chất lượng học sinh các lớp đầu cấp, điều 
kiện KT-XH ở địa phương, điều kiện đi lại của GV nên có 
thể là nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng dạy học và 
các hoạt động ở các trường không đồng đều. 
2.1.2. Về chất lượng đội ngũ giáo viên 
- Kết quả đánh giá, xếp loại GV các trường PTDTNT 
khu vực ĐBSCL: Năm học 2015-2016, tỉ lệ GV trường 
PTDTNT cấp tỉnh (đánh giá theo thông tư số 
30/2009/TT-BGD-ĐT) xếp loại xuất sắc, khá chiếm tỉ lệ 
rất cao, trong đó, loại xuất sắc có 142 GV (chiếm 
46,41%); loại khá có 163 GV (chiếm 53,27%); loại trung 
bình có 1 GV (chiếm 0,33%); không có loại kém [3]. 
- Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ GV dạy tiếng Khmer ở 
các trường PTDTNT cấp tỉnh khu vực ĐBSCL: Trên cơ 
sở Chỉ thị số 40-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương, 
Quyết định số 09/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính 
phủ, các Sở GD-ĐT đã xây dựng kế hoạch tổ chức thực 
hiện trong toàn ngành; trong đó có công tác xây dựng và 
nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và CBQL giáo dục 
các trường PTDTNT cấp tỉnh khu vực ĐBSCL. 
Công tác xây dựng và nâng cao chất lượng ĐNGV 
dạy tiếng Khmer các trường PTDTNT cấp tỉnh khu vực 
ĐBSCL với nhiều giải pháp, trong đó có công tác đào 
tạo, bồi dưỡng, tiếp nhận, tuyển chọn, giải quyết chế độ 
nghỉ hưu, nghỉ việc cho ĐNGV. Theo kết quả khảo sát 
và trao đổi với CBQL, GV, các trường học đã chọn, đề 
nghị Sở GD-ĐT cử, cho phép GV, cán bộ quản lí giáo 
dục đi đào tạo, bồi dưỡng hằng năm; động viên, tạo điều 
kiện cho ĐNGV đi học các lớp chuẩn hóa. Chính vì vậy, 
GV dạy tiếng Khmer các trường PTDTNT cấp tỉnh khu 
vực ĐBSCL đạt chuẩn trình độ chuyên môn trở lên 
(chuẩn hóa về trình độ đào tạo). Hơn nữa, các Sở GD-
ĐT đã có chính sách hỗ trợ, giải quyết chế độ đi học cho 
ĐNGV như học phí, tiền ăn ở, đi lại và chế độ tốt nghiệp 
khi hoàn thành khóa học. 
Đối với ĐNGV dạy tiếng Khmer ở các trường 
PTDTNT cấp tỉnh khu vực ĐBSCL, trình độ trên chuẩn 
(thạc sĩ) không có; trình độ cao đẳng, đại học có 40/66; 
trình độ hoặc chứng chỉ tiếng Khmer 26/66; trình độ 
trung cấp chính trị 10/66; GV giỏi cấp cơ sở trở lên 
12/66; trình độ ngoại ngữ B (trình độ B hoặc tương 
đương) có 32/66; trình độ tin học (trình độ A hoặc tương 
đương) có 50/66 [3]. 
Như vậy, ĐNGV dạy tiếng Khmer ở các trường 
PTDTNT cấp tỉnh khu vực ĐBSCL có trình độ hoặc 
chứng chỉ tiếng Khmer đảm bảo theo quy định, trình độ 
ngoại ngữ, tin học chiếm tỉ lệ khá cao. Tuy nhiên, chưa 
có GV đạt trình độ trên chuẩn và việc tham gia học trung 
cấp chính trị còn hạn chế. 
- Phẩm chất và năng lực của ĐNGV dạy tiếng Khmer 
ở các trường PTDTNT cấp tỉnh khu vực ĐBSCL: Đánh 
giá phẩm chất và năng lực của ĐNGV dạy tiếng Khmer 
ở các trường PTDTNT cấp tỉnh khu vực ĐBSCL theo 6 
tiêu chuẩn và 25 tiêu chí cho thấy, đội ngũ có phẩm chất 
chính trị, đạo đức nghề nghiệp, ứng xử với đồng nghiệp, 
học sinh và lối sống tác phong tốt; thương yêu học sinh; 
gắn bó với quê hương. Tuy nhiên, về năng lực còn hạn 
chế ở nhiều mặt như: đảm bảo kế hoạch dạy học; đảm 
bảo kiến thức môn học; vận dụng kiến thức các môn học; 
xây dựng môi trường môn học; kiểm tra, đánh giá kết quả 
học tập của học sinh; giáo dục qua các hoạt động trong 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 441 (Kì 1 - 11/2018), tr 7-12 
9 
cộng đồng,... là những bất cập mà cần có giải pháp căn 
bản và có lộ trình mới có thể khắc phục được. 
2.1.3. Về công tác bồi dưỡng thường xuyên hàng năm 
cho đội ngũ giáo viên 
Công tác bồi dưỡng GV dạy tiếng Khmer theo chương 
trình của Bộ GD-ĐT thực hiện theo sự thống nhất quản lí 
từ Trung ương đến địa phương do Bộ GD-ĐT quy định 
và chỉ đạo thực hiện kế hoạch, chương trình và tài liệu 
bồi dưỡng trên phạm vi toàn quốc; chính vì vậy, việc bồi 
dưỡng GV phải được thực hiện sao cho đảm bảo được 
mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp, thời gian, 
cách thức tổ chức bồi dưỡng và điều kiện thực hiện 
chương trình. Hiện nay, có nhiều nội dung bồi dưỡng GV 
lựa chọn, như: Bồi dưỡng nâng cao năng lực dạy học, bồi 
dưỡng đổi mới về phương pháp giảng dạy, bồi dưỡng 
chuẩn hoá GV, BDTX theo chu kì, bồi dưỡng đổi mới về 
kiểm tra, đánh giá... Tuy nhiên, công tác xây dựng kế 
hoạch BDTX của ngành chưa sát với thực tế; chưa xuất 
phát từ nhu cầu bồi dưỡng, kết quả đánh giá theo định 
hướng phát triển năng lực nghề nghiệp của GV dạy tiếng 
Khmer. Cụ thể như sau (bảng 1): 
Bảng 1. Thống kê công tác BDTX hàng năm 
cho GV dạy tiếng Khmer 
Tổng 
số 
GV 
Phương thức bồi dưỡng 
Bồi dưỡng 
tập trung về 
chuyên môn, 
nghiệp vụ 
Bồi dưỡng 
theo cụm, 
tổ/nhóm 
chuyên môn 
Tự học, tự 
nghiên cứu 
SL % SL % SL % 
66 45 68,18 15 22,72 40 60,61 
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm học 2016-2017 
của Sở GD-ĐT các tỉnh ĐBSCL) 
Bảng 1 cho thấy, việc tổ chức bồi dưỡng GV dạy 
tiếng Khmer chủ yếu theo hình thức tập trung (68,18%), 
chưa chú trọng đến việc phát huy thế mạnh của hình thức 
bồi dưỡng tại chỗ theo cụm, thông qua sinh hoạt tổ/nhóm 
chuyên môn, chia sẻ với đồng nghiệp hoặc tự học qua 
Internet. 
2.2. Một số giải pháp đổi mới công tác bồi dưỡng 
thường xuyên theo định hướng phát triển năng lực 
nghề nghiệp cho đội ngũ giáo viên dạy tiếng Khmer ở 
các trường trường phổ thông dân tộc nội trú khu vực 
Đồng bằng sông Cửu Long 
2.2.1. Nâng cao nhận thức về bồi dưỡng thường xuyên 
theo định hướng phát triển năng lực nghề nghiệp của cán 
bộ quản lí, giáo viên dạy tiếng Khmer 
- Quán triệt để GV nhận thức sâu sắc về ý nghĩa của 
việc BDTX; làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục ý 
thức trách nhiệm về vai trò và tầm quan trọng của việc 
bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp cho GV dạy 
tiếng Khmer, giúp họ xác định mục đích của hoạt động 
bồi dưỡng và mục tiêu cần đạt được. 
- Thường xuyên động viên, khuyến khích GV trong 
hoạt động bồi dưỡng; tạo mọi điều kiện về thời gian, cơ 
sở vật chất, tài chính,... để họ tham gia các lớp bồi dưỡng. 
- Cán bộ quản lí cần cụ thể hóa các tiêu chuẩn về năng 
lực sư phạm, đề ra các yêu cầu về chất lượng của GV; 
xây dựng kế hoạch ngắn hạn, dài hạn để đào tạo và bồi 
dưỡng, luôn đặt ra những yêu cầu ngày càng cao trong 
việc tự hoàn thiện, tự nâng cao năng lực sư phạm cho mỗi 
GV; xây dựng đề án phát triển nhà trường, quán triệt GV 
về định hướng đổi mới nhà trường, vai trò và trách nhiệm 
của họ trong việc nâng cao chất lượng giảng dạy. 
- Ngoài việc tuyên truyền cho GV, cán bộ quản lí còn 
phải là những người có tầm nhìn chiến lược, có những 
yêu cầu cao về việc tổ chức bồi dưỡng tại đơn vị, phải là 
những người gương mẫu, tự học, tự nghiên cứu để khơi 
dậy niềm tin tự học cho GV bằng cách tổ chức hoạt động 
quản lí của mình một cách khoa học, điều hành mọi hoạt 
động của trường một cách sáng tạo, hiệu quả, là người 
tích cực trong công tác tổ chức bồi dưỡng và tự bồi 
dưỡng để làm gương cho ĐNGV dạy tiếng Khmer của 
đơn vị. 
2.2.2. Đổi mới đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giáo viên dạy 
tiếng Khmer 
Công tác đào tạo, bồi dưỡng ĐNGV dạy tiếng Khmer 
phải căn cứ vào quy định Chuẩn nghề nghiệp, yêu cầu 
của đổi mới giáo dục và thực trạng của ĐNGV dạy tiếng 
Khmer để có nội dung, chương trình, hình thức tổ chức 
phù hợp. Mặc dù trong thời gian qua, công tác đào tạo, 
bồi dưỡng ĐNGV của ngành đã đạt được những kết quả 
đáng kể; tuy nhiên, vẫn còn những tồn tại nhất định cần 
phải được đổi mới cho phù hợp với sự phát triển, những 
yêu cầu đặt ra đối với ĐNGV dạy tiếng Khmer trong 
công cuộc đổi mới của ngành Giáo dục. Công tác đào 
tạo, bồi dưỡng GV dạy tiếng Khmer ở các trường 
PTDTNT cấp tỉnh khu vực ĐBSCL trong thời gian tới 
phải được thể hiện ở một số nội dung chính sau đây: 
Chính trị tư tưởng, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp; năng 
lực chuyên môn; năng lực nghiệp vụ sư phạm; ngoại ngữ, 
tin học và các kiến thức bổ trợ khác. 
2.2.3. Nâng cao trình độ chuyên môn của giáo viên dạy 
tiếng Khmer 
ĐNGV dạy tiếng Khmer hiện nay chưa đảm bảo về 
số lượng và chất lượng, còn tình trạng thừa thiếu cục 
bộ, tỉ lệ GV trên chuẩn còn khiêm tốn, vẫn còn nhiều 
GV chưa đạt chuẩn đào tạo. Chất lượng đội ngũ trong 
mỗi nhà trường được thể hiện ở nhiều mặt: Đủ về số 
lượng, hợp lí về cơ cấu, đảm bảo về trình độ, có phẩm 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 441 (Kì 1 - 11/2018), tr 7-12 
10 
chất đạo đức, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng 
yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện. Mỗi thầy giáo, cô 
giáo dạy tiếng Khmer phải là người có năng lực về khoa 
học chuyên ngành, biết rộng về các môn khoa học liên 
quan và có vốn văn hóa chung, đặc biệt là bản sắc văn 
hóa dân tộc Khmer. Nhà giáo  ... ĩ thuật dạy học mới, phương pháp giáo 
dục tiên tiến; việc bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên 
môn, nghiệp vụ cho GV thường tổ chức theo kiểu “đồng 
loạt”, nội dung bồi dưỡng ít chú ý đến nhu cầu thực tế 
của từng GV. 
2.2.4. Xây dựng nội dung bồi dưỡng thường xuyên đáp 
ứng yêu cầu phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo 
viên dạy tiếng Khmer 
Nội dung bồi dưỡng phải có tính chất tổng hợp, kết 
hợp tính nhiều mặt với chuyên môn hóa và phân hóa theo 
đối tượng, bao gồm các lĩnh vực: Đường lối chính sách 
của Đảng, Nhà nước; các vấn đề về lí luận và phương pháp 
dạy học; các vấn đề mới về chương trình, sách giáo khoa 
và khoa học bộ môn... Bên cạnh đó là các chương trình 
nhằm phát hiện và giải quyết các vấn đề nảy sinh trong 
thực tiễn cuộc sống và thực tiễn giáo dục. Cần bồi dưỡng 
về kiến thức chuyên môn, tập trung vào những nội dung 
GV dạy tiếng Khmer còn yếu hoặc các chuyên đề bồi 
dưỡng nghiệp vụ, phương pháp, sử dụng phương tiện, thiết 
bị dạy học, bồi dưỡng về kiến thức tin học, ngoại ngữ. 
Ngoài các nội dung bồi dưỡng trên, định kì hàng năm 
cần phải thực hiện các yêu cầu về nội dung bồi dưỡng 
theo hướng dẫn thực hiện chương trình BDTX của Bộ 
GD-ĐT (mỗi GV thực hiện chương trình bồi dưỡng 120 
tiết/năm học), trong đó có các module bồi dưỡng nhằm 
phát triển năng lực nghề nghiệp của GV dạy tiếng 
Khmer, như: Nâng cao năng lực hiểu biết về đối tượng 
giáo dục, về môi trường giáo dục và xây dựng môi trường 
học tập; nâng cao năng lực hướng dẫn, tư vấn; nâng cao 
năng lực chăm sóc/hỗ trợ tâm lí trong quá trình giáo dục, 
năng lực lập kế hoạch dạy học; tăng cường năng lực dạy 
học, năng lực sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng công 
nghệ thông tin trong dạy học; tăng cường năng lực kiểm 
tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh, năng lực 
nghiên cứu khoa học; tăng cường năng lực giáo dục, 
năng lực làm công tác chủ nhiệm; phát triển năng lực tổ 
chức các hoạt động giáo dục. 
2.2.5. Phương pháp bồi dưỡng thường xuyên đáp ứng 
yêu cầu phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên 
dạy tiếng Khmer 
Phương pháp bồi dưỡng GV dạy tiếng Khmer là khâu 
đột phá có tính chất quyết định đến chất lượng và hiệu 
quả bồi dưỡng. Có nhiều phương pháp được sử dụng 
trong bồi dưỡng GV. Tuy nhiên, do đối tượng bồi dưỡng 
là người lớn, là những người đã có kiến thức và phương 
pháp sư phạm nên phương pháp bồi dưỡng phải linh 
hoạt, phù hợp, nên tập trung vào hoạt động của GV dạy 
tiếng Khmer với phương châm “lấy tự học, tự bồi dưỡng 
là chính”. Người được giao nhiệm vụ bồi dưỡng GV dạy 
tiếng Khmer chỉ nên đóng vai trò là người hướng dẫn, 
cần để GV tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, 
tạo điều kiện cho GV được đóng góp kinh nghiệm bản 
thân vào xây dựng nội dung chương trình, đổi mới 
phương pháp dạy học - giáo dục; khuyến khích khai thác 
những tiến bộ của khoa học công nghệ trong hoạt động 
bồi dưỡng. 
Việc thực hiện bồi dưỡng GV dạy tiếng Khmer tùy 
theo nội dung, chương trình, theo đơn vị tổ chức bồi 
dưỡng nên có nhiều phương pháp đa dạng, phong phú, 
do đặc điểm đối tượng bồi dưỡng là GV thuộc nhiều lứa 
tuổi, giới tính, chuyên môn, điều kiện và kinh nghiệm 
khác nhau. Vì vậy, cần phải chọn các phương pháp 
bồi dưỡng thích hợp, linh hoạt, cần chú ý đến việc khai 
thác nhiều kênh thông tin, hướng người được bồi dưỡng 
thực hiện tự nghiên cứu, tự học nhiều hơn. Thời gian 
tổ chức bồi dưỡng GV cũng phải được cân nhắc phù 
hợp với từng loại hình bồi dưỡng, từng đối tượng. Việc 
bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho 
GV có thể được tiến hành theo kế hoạch của ngành, 
cũng có thể theo tình hình thực tế của từng địa phương, 
từng trường. 
Một số phương pháp bồi dưỡng thường được áp 
dụng như: Giảng dạy online; giảng dạy lí thuyết trên 
lớp; giảng dạy lí thuyết kết hợp với phát vấn, thảo luận, 
thực hành trên lớp và tổ chức thực hành tại các cơ sở 
giáo dục; cung cấp tài liệu từ trước, trên lớp giảng viên 
hướng dẫn tìm hiểu và giải quyết các vấn đề mới và khó 
trong tài liệu; tổ chức các hoạt động tại cơ sở giáo dục, 
hướng dẫn quan sát, đánh giá, rút kinh nghiệm; phân 
nhóm, giao nhiệm vụ học tập và bố trí các nguồn lực 
cần thiết cho các nhóm làm việc, các nhóm báo cáo kết 
quả làm việc. 
2.2.6. Hình thức bồi dưỡng thường xuyên đáp ứng yêu 
cầu phát triển năng lực nghề nghiệp của giáo viên dạy 
tiếng Khmer 
Mỗi trường, mỗi địa phương có tính đặc thù riêng, 
vì vậy phải lựa chọn hình thức bồi dưỡng phù hợp để 
nội dung, chương trình bồi dưỡng đạt hiệu quả tốt nhất. 
Theo đó, phương thức triển khai công tác BDTX đáp 
ứng yêu cầu phát triển năng lực nghề nghiệp của GV 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 441 (Kì 1 - 11/2018), tr 7-12 
11 
dạy tiếng Khmer có thể được thực hiện theo các hình 
thức gồm: 
- BDTX bằng việc tự học của GV dạy tiếng Khmer 
kết hợp với các sinh hoạt tập thể về chuyên môn, nghiệp 
vụ tại tổ bộ môn của nhà trường, liên trường hoặc cụm 
trường. Xã hội càng phát triển thì GD-ĐT cũng phát 
triển theo, đòi hỏi ngày càng cao hơn phẩm chất, năng 
lực của đội ngũ GV. Tự học, tự bồi dưỡng là phương 
thức tốt nhất giúp GV tiến bộ, trưởng thành, có đủ phẩm 
chất và năng lực chuyên môn, nghiệp vụ, hoàn thành 
nhiệm vụ GD-ĐT được giao. Để quá trình tự học, tự bồi 
dưỡng đạt chất lượng, hiệu quả, bản thân GV dạy tiếng 
Khmer cần: 
+ Nhận thức được vị trí, vai trò, trách nhiệm về tự 
học, tự bồi dưỡng. Chỉ khi nhận thức đúng thì bản thân 
mỗi GV dạy tiếng Khmer mới chuyển hóa được nhu cầu, 
đòi hỏi của xã hội thành động cơ mục đích của cá nhân, 
từ đó mới chủ động, tích cực, tự giác phấn đấu tự học, tự 
bồi dưỡng. 
+ Xây dựng cho mình kế hoạch tự học, tự bồi dưỡng, 
chọn và đăng kí nội dung bồi dưỡng. Kế hoạch cần xác 
định rõ mục tiêu, nội dung, hình thức, phương pháp, thời 
gian tự học, tự bồi dưỡng. Nội dung tự học, tự bồi dưỡng 
phải phù hợp với đặc thù bộ môn, với công việc được 
giao và điều kiện, hoàn cảnh của trường. 
+ Phải biết lựa chọn các hình thức bồi dưỡng phù hợp 
với khả năng, sở trường của mình. Hình thức tự học, tự 
bồi dưỡng thông qua hoạt động cá nhân giảng dạy, 
nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu các văn bản liên quan; tự 
học, tự bồi dưỡng thông qua hoạt động sinh hoạt chuyên 
môn, thông qua các hoạt động chính trị, xã hội, thông qua 
đào tạo nâng chuẩn. 
+ Phải biết tự kiểm tra, đánh giá kết quả bồi dưỡng, 
viết báo cáo thu hoạch sau bồi dưỡng. Hoạt động này 
giúp GV dạy tiếng Khmer nhìn nhận lại những việc đã 
làm và chưa làm được trong quá trình tự học, tự bồi 
dưỡng, từ đó kịp thời điều chỉnh, bổ sung kế hoạch nhằm 
đạt mục tiêu bồi dưỡng. 
Tự học, tự bồi dưỡng được hình thành trong quá 
trình luyện tập kiên trì có hệ thống, trên cơ sở ý thức 
trách nhiệm, tính tự giác cao. Qua đó, GV dạy tiếng 
Khmer sẽ tìm thấy sự đam mê với nội dung học tập, 
biến chúng thành hiểu biết và chuyển thành niềm tin, 
thế giới quan khoa học, luôn tạo ra được trạng thái phấn 
khởi, hứng thú; biết tranh thủ tận dụng có hiệu quả mọi 
khoảng thời gian có thể để tự học, tự nghiên cứu; luôn 
tìm cách hiểu sâu những nội dung đã biết và khám phá 
những điều chưa biết; hình thành thái độ động cơ phấn 
đấu đúng đắn, để hoàn thiện phẩm chất nhân cách, 
nâng cao năng lực, phương pháp, tác phong công tác và 
uy tín nghề nghiệp, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục 
hiện nay. 
- BDTX tập trung nhằm hướng dẫn tự học, thực hành, 
hệ thống hóa kiến thức, giải đáp thắc mắc, hướng dẫn 
những nội dung BDTX khó đối với GV; đáp ứng nhu cầu 
của GV dạy tiếng Khmer trong học tập BDTX; tạo điều 
kiện cho GV có cơ hội được trao đổi về chuyên môn, 
nghiệp vụ và luyện tập kĩ năng. 
- BDTX theo hình thức học tập từ xa (qua Internet): 
Thông qua các giáo trình, tài liệu hoặc các phương tiện 
công nghệ thông tin để truyền tải kiến thức hỗ trợ công 
tác bồi dưỡng. Hình thức này có thể phù hợp với tất cả 
nhu cầu BDTX GV dạy tiếng Khmer của mỗi trường, 
mỗi địa phương. Hiện tại, Bộ GD-ĐT đã thực hiện 
chương trình “Trường học kết nối” (hình thức bồi dưỡng 
thông minh - trực tuyến), do đó GV dạy tiếng Khmer cần 
tranh thủ khai thác, sử dụng trang mạng này kết hợp với 
chương trình bồi dưỡng ở nhà trường để có thể học tập, 
tự bồi dưỡng một cách tốt nhất. 
2.2.7. Kiểm tra, đánh giá công tác bồi dưỡng thường 
xuyên đáp ứng yêu cầu phát triển năng lực nghề nghiệp 
của giáo viên dạy tiếng Khmer 
Cán bộ quản lí cần thực hiện việc kiểm tra, đánh giá 
trong lúc quá trình thực hiện kế hoạch bồi dưỡng đang 
diễn ra và sau khi hoàn tất việc thực hiện kế hoạch. Trong 
quá trình kiểm tra, cần thu thập các thông tin phản hồi về 
nội dung bồi dưỡng, phương pháp bồi dưỡng, các nguồn 
lực phục vụ cho hoạt động bồi dưỡng... để làm căn cứ 
cho việc điều chỉnh, khen thưởng, phê bình, cải tiến 
nhằm làm cho hoạt động bồi dưỡng ngày càng chất lượng 
hơn. Để thực hiện được nội dung này, cán bộ quản lí cần: 
- Xây dựng hệ thống biện pháp kiểm tra, đánh giá 
nhằm đánh giá đúng khả năng học của GV dạy tiếng 
Khmer có đạt được mục tiêu đã đề ra hay không, nghiêm 
túc trong quá trình học không, GV có tiếp thu được hay 
không, đồng thời cần có nhiều phương pháp kiểm tra 
khác nhau như: Điểm danh, viết bài tại lớp, viết bài thu 
hoạch, thông qua đánh giá của giảng viên bồi dưỡng, dự 
giờ... Bên cạnh đó, cần có chỉ tiêu kiểm tra, đánh giá cho 
từng khóa bồi dưỡng. Mỗi khóa bồi dưỡng có mục đích 
khác nhau, vì vậy cần xây dựng, đổi mới tiêu chí đánh 
giá các hoạt động bồi dưỡng GV, tiêu chuẩn GV ở từng 
khóa bồi dưỡng. Đánh giá kết quả học tập của người học 
theo hướng đánh giá được thực chất năng lực, khả năng 
vận dụng kiến thức vào công việc của người học; nội 
dung kiểm tra vừa bao quát nội dung chương trình, đảm 
bảo mức độ theo yêu cầu cần đạt được về chuẩn kiến 
thức, kĩ năng, vừa có nội dung vận dụng, sáng tạo và có 
tác dụng phân hoá để đánh giá đúng thực chất năng lực 
học tập của học viên và có kế hoạch bồi dưỡng các đối 
tượng học viên chưa đạt yêu cầu. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 441 (Kì 1 - 11/2018), tr 7-12 
12 
- Xây dựng nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá kết quả 
học tập của GV dạy tiếng Khmer sau khóa bồi dưỡng. 
Hình thức kiểm tra, đánh giá cũng cần được đổi mới, 
phong phú hơn như: Có thể thay thế hình thức làm kiểm 
tra viết, trắc nghiệm bằng hình thức viết bài thu hoạch cá 
nhân với tài liệu mở, nhằm sử dụng vốn hiểu biết và kinh 
nghiệm của GV, tăng khả năng vận dụng, sáng tạo; phát 
động phong trào tự làm đồ dùng dạy học, kết hợp với 
việc khai thác sử dụng có hiệu quả thiết bị dạy học đã 
được trang bị; xây dựng đĩa CD dữ liệu phục vụ quản lí 
và dạy học. 
- Nhằm nâng cao hiệu quả kiểm tra, người cán bộ 
quản lí cần thực hiện đánh giá, khen thưởng đối với kết 
quả bồi dưỡng của mỗi GV dạy tiếng Khmer một cách 
dân chủ, đảm bảo công bằng, khách quan, công khai theo 
các tiêu chuẩn cụ thể. Xây dựng các tiêu chí, mức độ 
khen thưởng phù hợp nhằm tôn vinh GV dạy tiếng 
Khmer có kết quả bồi dưỡng tốt, ứng dụng hiệu quả nội 
dung bồi dưỡng vào quá trình dạy học hoặc có những 
sáng kiến kinh nghiệm hữu ích phục vụ cho sự phát triển 
của nhà trường. Có biện pháp xử lí đối với GV không 
tham gia vào quá trình bồi dưỡng hoặc có thái độ học tập 
không nghiêm túc. 
- Việc bồi dưỡng GV có quan hệ mật thiết với nhiệm 
vụ chính của GV là nâng cao chất lượng giảng dạy. Vì 
thế, cán bộ quản lí ở trường nên sử dụng kết quả bồi 
dưỡng như là một trong những tiêu chí đánh giá GV có 
hoàn thành nhiệm vụ hay không, từ đó giúp cho GV xác 
định động cơ học tập đúng đắn. Đưa vấn đề hoàn thành 
việc bồi dưỡng thành tiêu chí để đánh giá thi đua, xếp 
loại GV trong từng học kì, từng năm học. 
2.2.8. Xây dựng môi trường, tạo động lực cho đội ngũ 
giáo viên dạy tiếng Khmer bồi dưỡng phát triển năng lực 
nghề nghiệp theo đặc thù dân tộc Khmer 
Đề xuất được các nhu cầu, điều kiện, môi trường làm 
việc thuận lợi vừa đảm bảo tính hợp lí về cơ chế, chính 
sách; tính xã hội hóa và tính đồng thuận trong tổ chức, 
nhằm tạo động lực, phát huy năng lực cá nhân và vai trò 
của ĐNGV ở các trường PTDTNT cấp tỉnh khu vực 
ĐBSCL. Khai thác các năng lực tiềm ẩn trong mỗi GV 
thành “sức mạnh vật chất” hay năng lực thực hiện được 
các hoạt động như giảng dạy, nghiên cứu, hoạt động xã 
hội, cộng đồng nhằm phát huy lao động sáng tạo ở mỗi 
GV của nhà trường. Vận dụng kết quả nghiên cứu trên, 
trong bối cảnh hiện nay: Nội dung của giải pháp tạo động 
lực làm việc cho GV ở các trường PTDTNT cấp tỉnh khu 
vực ĐBSCL cần phải tập trung vào 3 nội dung cơ bản 
sau như: Các yếu tố chủ quan liên quan tới lợi ích bản 
thân GV; các yếu tố thuộc về nhiệm vụ kì vọng ở mỗi 
người GV; các yếu tố thuộc về giá trị trách nhiệm nghề 
nghiệp mỗi GV ở các trường PTDTNT cấp tỉnh. Như 
vậy, phát triển ĐNGV ở các trường PTDTNT cấp tỉnh 
khu vực ĐBSCL theo tiếp cận năng lực là chú ý nâng cao 
năng lực nghề nghiệp cho mỗi GV, gắn với trách nhiệm 
chung của toàn đội ngũ, đồng thời phát triển ĐNGV phải 
được bắt đầu từ yếu tố liên quan tới lợi ích bản thân người 
GV thì mới khai thác tiềm năng, động lực ở mỗi cá nhân 
GV đó chính là yếu tố hình thành tạo động lực phát triển. 
3. Kết luận 
Trong bối cảnh đổi mới giáo dục, cần bồi dưỡng 
ĐNGV sau đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tiễn. 
Chính vì vậy, để đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục nói 
chung và cách tân, hoàn thiện ĐNGV dạy tiếng Khmer 
nói riêng, các trường PTDTNT cấp tỉnh coi việc đào tạo, 
bồi dưỡng nâng cao phẩm chất và năng lực người GV có 
ý nghĩa chiến lược, đảm bảo sự tồn tại và tính thống nhất 
để phát triển. ĐNGV dạy tiếng Khmer cần phải được 
phát triển theo hướng đủ năng lực và phẩm chất đáp ứng 
việc đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho đất nước. 
Do vậy, nâng cao phẩm chất và năng lực đối với ĐNGV 
dạy tiếng Khmer cần phải được quan tâm đúng mực, phải 
thực hiện tốt các nội dung đào tạo, bồi dưỡng từ các nhà 
trường sư phạm, cũng như trong quá trình giảng dạy của 
GV, biến quá trình đào tạo thành tự đào tạo của mỗi GV. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Ban Chấp hành Trung ương (2013). Nghị quyết số 
29-NQ/TW ngày 04/11/2013 về đổi mới căn bản, 
toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập 
quốc tế. 
[2] Bộ GD-ĐT (2016). Thống kê GD-ĐT từ năm học 
2011-2012 đến 2015-2016. 
[3] Trần Bá Hoành (2006). Vấn đề giáo viên - Những 
nghiên cứu lí luận và thực tiễn. NXB Đại học Sư phạm. 
[4] Nguyễn Ngọc Khương (2017). Thực trạng và giải 
pháp quản lí nâng cao chất lượng công tác bồi 
dưỡng thường xuyên giáo viên các cấp tỉnh Vĩnh 
Long. Tạp chí Giáo dục, số 397, tr 9-12. 
[5] Bộ GD-ĐT (2009). Thông tư số 30/2009/TT-
BGDĐT ngày 20/10/2009 về Ban hành quy định 
Chuẩn nghề nghiệp giáo viên trung học cơ sở, trung 
học phổ thông. 
[6] Bộ GD-ĐT (2011). Thông tư số 30/2011/TT-BGDĐT 
ngày 08/8/2011 về Ban hành Chương trình bồi dưỡng 
thường xuyên giáo viên trung học phổ thông. 
[7] Nguyễn Hữu Hạnh (2006). Một số vấn đề về giáo 
dục ở vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh Kiên 
Giang. Tạp chí Khoa học giáo dục, Viện Khoa học 
Giáo dục Việt Nam, số 15, tháng 12/2006, tr 51-52.

File đính kèm:

  • pdfdoi_moi_cong_tac_boi_duong_thuong_xuyen_theo_dinh_huong_phat.pdf