Giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thái tại tỉnh Sơn La

Việc giữ gìn bản sắc văn hóa hiện nay đang trở thành vấn đề cấp bách, đặc biệt là đối với dân tộc Thái tại tỉnh Sơn La. Bởi qua quá trình lao động và sản xuất, dân tộc Thái nơi đây đã sáng tạo nhiều giá trị văn hóa tinh thần độc đáo. Những giá trị văn hóa tinh thần ấy được đồng bào gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở Sơn La đang dần bị mai một theo thời gian. Do đó, nhằm bảo tồn những giá trị văn ấy, chúng tôi tiến hành đánh giá thực trạng giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La, qua đó đề xuất một số giải pháp bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đó

pdf 6 trang yennguyen 3420
Bạn đang xem tài liệu "Giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thái tại tỉnh Sơn La", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thái tại tỉnh Sơn La

Giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thái tại tỉnh Sơn La
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
136 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
GIÁ TRỊ VĂN HÓA TINH THẦN 
CỦA DÂN TỘC THÁI TẠI TỈNH SƠN LA
Nguyễn Thị Hạnha
Lù Thị Vân Anhb
Hoàng Văn Quangc
Cao đẳng Sơn La
a Email: hmongdao@yahoo.com.vn
b Email: hanhsla2701@gmail.com
c Email: hoangquangcdsl@gmail.com
Ngày nhận bài: 7/5/2019
Ngày phản biện: 14/5/2019
Ngày tác giả sửa: 27/5/2019
Ngày duyệt đăng: 5/6/2019
Ngày phát hành: 21/6/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/314
Việc giữ gìn bản sắc văn hóa hiện nay đang trở thành vấn đề cấp bách, đặc biệt là đối với dân tộc Thái tại tỉnh Sơn 
La. Bởi qua quá trình lao động và sản xuất, dân tộc Thái nơi 
đây đã sáng tạo nhiều giá trị văn hóa tinh thần độc đáo. Những 
giá trị văn hóa tinh thần ấy được đồng bào gìn giữ và lưu truyền 
qua nhiều thế hệ. Tuy nhiên, trong giai đoạn hiện nay những giá 
trị văn hóa tinh thần của dân tộc Thái ở Sơn La đang dần bị mai 
một theo thời gian. Do đó, nhằm bảo tồn những giá trị văn ấy, 
chúng tôi tiến hành đánh giá thực trạng giá trị văn hóa tinh thần 
của dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La, qua đó đề xuất một số giải pháp 
bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đó.
Từ khóa: Bảo tồn văn hóa; Giá trị văn hóa tinh thần; Giáo 
dục thường xuyên; Văn hóa truyền thống; Dân tộc Thái, tỉnh 
Sơn La.
1. Đặt vấn đề
Sơn La là tỉnh miền núi, vùng cao Tây Bắc, với 
diện tích tự nhiên 14.174 km2, có 250 km đường 
biên giới và 06 huyện giáp nước Cộng hòa Dân chủ 
Nhân dân Lào (đó là các huyện: Sốp Cộp, Sông Mã, 
Yên Châu, Mộc Châu, Mai Sơn và huyện Vân Hồ). 
Trên địa bàn toàn tỉnh có nhiều dân tộc anh em cùng 
sinh sống, bao gồm: dân tộc Thái, Kinh, Mông, 
Mường, Xinh Mun, Dao, Khơ Mú, Lào, Kháng, La 
Ha, Tày, Nùng,... trong đó dân tộc Thái có số lượng 
dân số đông nhất (572.441 người chiếm 53,2% số 
dân toàn tỉnh). Với lịch sử cư trú lâu đời, dân tộc 
Thái ở Sơn La đã sáng tạo nhiều giá trị văn hóa tinh 
thần (GTVHTT) độc đáo và được đồng bào gìn giữ, 
lưu truyền qua nhiều thế hệ. Những GTVHTT ấy vô 
cùng phong phú, bao gồm: ngôn ngữ, chữ viết, các 
làn điệu dân ca, tôn giáo, tín ngưỡng, Tuy nhiên, 
trong giai đoạn hiện nay những GTVHTT của dân 
tộc Thái ở tỉnh Sơn La đang có nguy cơ bị mai một. 
Do vậy, trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân 
tích thực trạng GTVHTT của dân tộc Thái ở tỉnh 
Sơn La. Trên cơ sở đó, nhóm tác giả đề xuất một số 
giải pháp cụ thể nhằm bảo tồn và phát huy những 
giá trị văn hóa đó.
2. Thực trạng giá trị văn hóa tinh thần của 
dân tộc Thái tại tỉnh Sơn La
2.1. Quan niệm về giá trị văn hóa, giá trị văn 
hóa tinh thần 
Giá trị văn hóa: Giá trị văn hóa (GTVH) là “yếu 
tố cốt lõi của văn hóa, được sáng tạo và kết tinh 
trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương 
ứng với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định. 
GTVH hướng đến thỏa mãn những nhu cầu và khát 
vọng của cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, 
thiện, mỹ), từ đó bồi đắp và nâng cao bản chất 
Người. Giá trị văn hóa luôn ẩn tàng trong bản sắc 
văn hóa, di sản văn hóa, các chuẩn mực, hành vi xã 
hội. Chính vì vậy mà văn hóa thông qua hệ giá trị 
của nó góp phần điều tiết sự phát triển xã hội”1
GTVH của mỗi cộng đồng/dân tộc/quốc gia bao 
giờ cũng là một hệ thống, với ý nghĩa là các giá trị 
ấy nảy sinh, tồn tại trong sự liên hệ, tác động hữu 
cơ với nhau. Để đánh giá GTVH phải đặt trong bối 
cảnh sống của chủ thể sáng tạo văn hóa. Mỗi dân 
tộc dù ở trình độ văn minh cao hay thấp đều có nền 
VH truyền thống với đặc trưng riêng của mình. Hệ 
thống giá trị đó chính là sự kết tinh tất cả những gì 
tốt đẹp nhất được chắt lọc qua nhiều thời đại lịch 
sử để tạo nên bản sắc riêng của một dân tộc. GTVH 
truyền thống được truyền lại cho thế hệ sau và trở 
thành một động lực nội sinh để phát triển đất nước.
Văn hóa tinh thần: Văn hóa tinh thần bao gồm 
“các lĩnh vực như ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo, 
văn học, nghệ thuật dân gian (folklore), lễ hội 
truyền thống, tri thức dân gian và các phong tục, tập 
quán liên quan đến chu kỳ đời người,2
Giá trị văn hóa tinh thần: Những truyền thống 
văn hóa được cộng đồng thừa nhận, đánh giá, thẩm 
1. Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt Nam, Nxb. Giáo 
dục, Hà Nội. 
2. Hoàng Lương (2005), Văn hóa các dân tộc Tây Bắc Việt Nam, 
Trường Đại học Văn hóa, Hà Nội, tr.180
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
137Volume 8, Issue 2
định nghiêm ngặt, khách quan qua những giai đoạn 
lịch sử và được nâng lên ở mức cao trở thành giá 
trị văn hóa truyền thống. Mỗi dân tộc có quá trình 
hình thành và phát triển khác nhau. Trong quá trình 
ấy, các dân tộc đã sáng tạo ra những giá trị văn hóa 
và được lưu truyền qua nhiều thế hệ. Vì vậy, giá trị 
văn hóa tinh thần được hiểu lànhững giá trị tốt đẹp 
và tương đối ổn định, tiêu biểu cho một nền văn hóa 
được chắt lọc, lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ 
khác. Tuy nhiên, những giá trị văn hóa tinh thần có 
sự biến đổi tuỳ thuộc vào điều kiện phát triển kinh 
tế - xã hội của từng quốc gia, khu vực.
2.2. Khái quát về dân tộc Thái ở tỉnh Sơn La
Ở Việt Nam, dân tộc Thái đứng thứ hai về dân 
số trong tổng số 53 dân tộc thiểu số. Địa bàn cư trú 
của dân tộc Thái chủ yếu ở các tỉnh phía Bắc như 
Sơn La, Lai Châu, Điện Biên, Hà Giang, Hòa Bình 
 và các huyện miền Tây của hai tỉnh Thanh Hóa, 
Nghệ An. Về mặt lịch sử, phía Bắc là khu vực cư 
trú lâu đời của người Thái, sau đó họ mới thiên di 
sang khu vực Thanh Hóa, Nghệ An. Đơn vị hành 
chính truyền thống của người Thái là bản (làng) và 
mường (đơn vị xã hoặc huyện tùy theo mường nhỏ 
hay lớn). Ở tỉnh Sơn La, dân tộc Thái có dân số 
đông nhất so với các dân tộc ở toàn tỉnh (572.441 
người chiếm 53,2% số dân toàn tỉnh – số liệu thống 
kê năm 2009). 
Dân tộc Thái có truyền thống làm nông nghiệp 
ruộng nước. Chính vì vậy, họ có nhiều kinh nghiệm 
trong kỹ thuật đắp phai, đào mương, dựng cọn, bắc 
máng lấy nước. Người Thái có hệ thống mương - 
phai - lái - lịn tức là hệ thống thủy lợi được đồng 
bào sáng tạo để canh tác lúa nước. Đối với người 
Thái, lúa nước, đặc biệt là lúa nếp là nguồn lương 
thực chính trong đời sống của họ. Bên cạnh đó, họ 
cũng phát nương, trồng lúa cạn, hoa màu và nhiều 
cây ăn quả khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, 
gia cầm, đan lát, dệt vải và có một số nơi làm đồ 
gốm. Đồ gốm của người Thái Sơn La có chất liệu, 
công nghệ, phương pháp nung rất gần với đồ gốm 
thời Sơ sử của Việt Nam, cách đây trên dưới 2000 
năm. Làng gốm nổi tiếng được nhiều người biết đến 
là gốm Mường Tranh, huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. 
Trước đây, gốm làm ra được bà con gánh đi bán 
khắp nơi trong tỉnh, nhưng hiện nay, chỉ còn một 
hộ gia đình ở xã Mường Tranh làm gốm. Sản phẩm 
làm ra không bán được vì khó có thể cạnh tranh với 
sản phẩm ngoài thị trường, do vậy họ chủ yếu để 
phục vụ nhu cầu sử dụng trong gia đình. 
Dân tộc Thái ở Sơn La có 2 ngành, bao gồm Thái 
Trắng (Tày Khao) và Thái Đen (Tày Đăm). Người 
Thái Trắng (Tày Khao) cư trú chủ yếu ở các huyện 
Quỳnh Nhai, Bắc Yên, Phù Yên, Mộc Châu. Người 
Thái Đen (Tày Đăm) cư trú ở các huyện Thuận 
Châu, Yên Châu, Sông Mã, thành phố. Người Thái 
Sơn La có kho tàng văn hóa dân gian vô cùng phong 
phú và đa dạng với nhiều thể loại khác nhau như: 
thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện thơ, ca 
dao, Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của dân tộc 
Thái được đồng bào lưu giữ cho tới nay như Xống 
chụ xon xao, Khun Lù nàng ủa, Ý nọi Nang Xưa,  
Tiếng Thái là ngôn ngữ đơn tiết, có thanh điệu, 
thuộc ngữ hệ Tai – Kadai. Người Thái sớm có chữ 
viết nên nhiều vốn cổ văn học, luật tục được ghi 
chép lại trên giấy bản và lá cây. Đồng thời, dân tộc 
Thái rất thích ca hát, đặc biệt là Khắp tay - lối ngâm 
thơ hoặc hát theo lời thơ, có đệm đàn và múa. Nhiều 
điệu múa như múa xòe, múa sạp, ném còn đã trở 
thành những di sản văn hóa phi vật thể nổi tiếng của 
cộng đồng này.
2.3. Giá trị văn hóa tinh thần dân tộc Thái tại 
tỉnh Sơn La
Văn hóa tinh thần là lĩnh vực rất rộng, bao gồm 
ngôn ngữ, tín ngưỡng, tôn giáo, văn học, nghệ thuật 
dân gian (folklore), lễ hội truyền thống, tri thức dân 
gian và các phong tục, tập quán liên quan đến chu 
kỳ đời người, Trong bài viết, chúng tôi chỉ đề cập 
đến năng lực sử dụng ngôn ngữ, chữ viết, các làn 
điệu dân ca, lễ hội của đồng bào Thái ở tỉnh Sơn 
La. Nhóm tác giả sử dụng phương pháp phỏng vấn 
vấn sâu, điều tra qua 100 bảng hỏi tại bản Áng 2 
(xã Đông Sang, huyện Mộc Châu), bản Hụm (xã 
Chiềng Xôm, thành phố Sơn La) và thu được những 
kết quả nhất định.
Về năng lực sử dụng ngôn ngữ 
Năng lực sử dụng ngôn ngữ là khả năng sử dụng 
ngôn ngữ (bao gồm các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết 
ở các mức độ khác nhau) của một cá nhân hay cộng 
đồng nào đó. Khi nghiên cứu về năng lực sử dụng 
ngôn ngữ của dân tộc Thái ở Sơn La, chúng tôi khảo 
sát, phân tích, giải mã những kỹ năng nghe, nói, 
đọc, viết tiếng mẹ đẻ của họ trong giai đoạn hiện 
nay. 
Nhóm nghiên cứu tiến hành khảo sát với nội 
dung câu hỏi: Ông/Bà nói được những ngôn ngữ 
nào? Và đã thu được kết quả là năng lực sử dụng 
ngôn ngữ của người Thái đối với tiếng mẹ đẻ chiếm 
tỷ lệ 85%. Có nghĩa là đa số những người dân được 
hỏi đều nói được tiếng Thái. Kết quả đó cho thấy, 
người Thái đã bảo tồn, gìn giữ được tiếng nói của 
dân tộc mình. Bên cạnh đó, đối với ngôn ngữ phổ 
thông (tiếng Việt) - phương tiện giao tiếp chủ yếu 
giữa các dân tộc thì 100% người dân được hỏi đều 
sử dụng được. Tuy đồng bào Thái nói tiếng Thái 
khá tốt, nhưng có đến 15% là thế hệ nhỏ tuổi (dưới 
12 tuổi) không nói được tiếng của dân tộc mình. 
Nguyên nhân ở đây là trong gia đình bố mẹ không 
hay nói tiếng phổ thông với các con và họ quan 
niệm tiếng Thái là tiếng mẹ đẻ, các cháu lớn lên có 
thể tự học, dần dần sẽ nói được. Trên thực tế, nếu 
cháu nào không có ý thức tự học hỏi thì sẽ không 
thể nghe và nói được tiếng của dân tộc mình. 
Khả năng nói tiếng Thái và tiếng phổ thông của 
người Thái ở Sơn La cũng thể hiện những mức độ 
khác nhau. Với câu hỏi Khả năng nói tiếng phổ 
thông và tiếng Thái của Ông/Bà như thế nào? Kết 
quả chúng tôi thu được 60% số người được hỏi là 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
138 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
thành thạo cả hai thứ tiếng, 40% chỉ thành thạo một 
thứ tiếng (tiếng Thái hoặc tiếng phổ thông). Những 
người thành thạo tiếng Thái chủ yếu là người cao 
tuổi hoặc những người ít tiếp xúc với người Kinh, 
số còn lại là các cháu học sinh đang trong độ tuổi 
đi học thì chỉ thành thạo tiếng phổ thông. Đối với 
người Thái ngay từ khi mới sinh ra các cháu nhỏ 
đã được nuôi dưỡng trong một môi trường văn hóa 
Thái, được nghe những lời ru ngọt ngào của bà, của 
mẹ bằng tiếng Thái và được nghe những câu chuyện 
cổ tích của dân tộc mình, Do vậy, khi lớn lên các 
cháu nghe ông, bà, cha, mẹ nói chuyện với nhau thì 
hiểu được một phần nội dung nhưng việc giao tiếp 
còn khó bởi các cháu không nói được nhiều (chỉ nói 
được số ít từ quen thuộc). Đặc biệt là những cháu 
nhỏ sống ở thành phố, không có nhiều cơ hội tiếp 
xúc với tiếng Thái thì đa số không nói được tiếng 
Thái. 
Trong giao tiếp hành chính tại địa phương, 
chúng tôi tiến hành khảo sát với câu hỏi Ông/Bà 
sử dụng ngôn ngữ nào trong các cuộc họp xã, họp 
bản? Kết quả thu được là: Trong những buổi họp 
xã có 97% ý kiến cho rằng họ sử dụng tiếng phổ 
thông, chỉ có tỷ lệ khiêm tốn 2-3% cho biết sử dụng 
cả tiếng phổ thông, tiếng Thái. Theo người dân nơi 
đây, trong cuộc họp xã nếu những nội dung diễn đạt 
bằng tiếng phổ thông khó hiểu thì họ sử dụng tiếng 
Thái. Ngược lại, đối với các cuộc họp bản thì có 
98% ý kiến cho rằng họ sử dụng tiếng Thái trong 
cuộc họp. Như vậy, có thể nói ở phong cách hành 
chính thì vai trò của tiếng Thái và tiếng phổ thông 
không giống nhau. Nếu ở cấp bản, tiếng Thái đóng 
vai trò quan trọng nhất thì ở cấp xã tiếng Thái chỉ 
chiếm vị trí thứ hai thay vào đó là vai trò quan trọng 
của tiếng phổ thông.
Với câu hỏi Ông/Bà thích dùng tiếng Thái hay 
tiếng phổ thông? Chúng tôi thu được kết quả là 
100% những người được khảo sát đều trả lời họ 
thích nói tiếng Thái hơn tiếng phổ thông. Đó cũng 
là điều dễ hiểu bởi tiếng Thái là tiếng mẹ đẻ gắn bó 
với họ từ khi lọt lòng. Khi đồng bào nói tiếng Thái 
họ cảm thấy tự tin hơn các ngôn ngữ khác. Người 
Thái học tiếng phổ thông nhằm trang bị cho bản 
thân một hành trang, một công cụ để có thể giao 
tiếp với cộng đồng khi hội nhập với xã hội chứ đây 
không phải là bản sắc của họ. 
So với các dân tộc thiểu số tại Sơn La, người 
Thái là một trong số ít dân tộc có chữ viết riêng. 
Chữ viết là công cụ giao tiếp trong cộng đồng người 
Thái, nó ghi chép và phản ánh một cách đầy đủ và 
chân thực nhất những tư tưởng, tình cảm, tâm hồn 
của con người nơi đây thông qua các hoạt động 
lao động, sản xuất, vui chơi hoặc qua các cuộc đấu 
tranh chống giặc ngoại xâm. Đồng thời, chữ viết 
Thái lưu lại nhiều tác phẩm thơ ca, các phong tục 
tập quán truyền thống, Hiện nay, ở Sơn La còn 
trên 2000 tác phẩm được ghi chép bằng chữ Thái cổ 
và đang lưu giữ tại thư viện tỉnh và một số tác phẩm 
đang được bà con lưu giữ rải rác tại các bản làng.
Mặc dù chữ viết Thái có từ lâu nhưng cho đến 
nay vẫn chưa ai biết rõ thời điểm ra đời của chữ 
Thái. Văn bản cổ nhất còn lưu giữ lại là “Văn bia 
thời Rama Khamheng I vào thế kỷ thứ 13 sau Công 
nguyên”3Chữ viết cổ của người Thái hiện nay có 
nhiều kiểu chữ: “Chữ của người Thái Đen ở Lai 
Châu, Sơn La, Hòa Bình, Yên Bái, Lào Cai; chữ của 
người Thái Trắng ở huyện Phong Thổ (Lai Châu); 
chữ của người Thái Trắng ở huyện Mường Lay, 
Mường Tè, một bộ phận ở huyện Quỳnh Nhai (Sơn 
La); chữ của người Thái Trắng huyện Phù Yên (Sơn 
La); chữ của người Thái Trắng ở Mộc Châu (Sơn 
La), Mai Châu, Đà Bắc (Hòa Bình); chữ của người 
Thái ở Quỳ Châu Nghệ An4.Ngoài ra, người Thái 
còn có chữ Thái của 7 tỉnh Tây Bắc và Bắc Trung 
Bộ của Việt Nam bao gồm: Hòa Bình, Sơn La, Lai 
Châu, Điện Biên, Thanh Hóa, Nghệ An, Yên Bái. 
Do không có sự thống nhất nên chữ Thái đã qua một 
số lần cải tiến. 
Trước đây, đồng bào Thái tự truyền dạy cho 
nhau, người biết dạy cho người chưa biết, người 
biết nhiều dạy cho người biết ít, Do vậy, chữ Thái 
được gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Sau 
cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, phong 
trào dạy và học chữ Thái diễn ra sôi nổi. Tháng 11 
năm 1954, khu tự trị Thái mèo được thành lập (sau 
đổi tên là khu tự trị Tây Bắc), bộ chữ Thái được 
dùng cho công tác xóa nạn mù chữ, dùng trong các 
văn bản hành chính, trên phương tiện thông tin đại 
chúng,  Đến năm 1963, chữ Thái cải tiến được sử 
dụng để dạy cho học sinh cấp I vùng dân tộc Thái 
của tỉnh Sơn La và Lai Châu. Đến năm 1969, Chính 
phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chỉ 
đạo tạm dừng việc dạy chữ Thái do chữ Thái cải 
tiến có nhiều điểm chưa hợp lý nên chưa được nhiều 
người đón nhận (Quyết định số 153 ngày 20/8/1969 
của Phó Thủ tướng về việc xây dựng, cải tiến và 
sử dụng chữ viết các dân tộc thiểu số). “Đến năm 
1981 phương án chữ Thái La tinh được phê chuẩn ở 
tỉnh Lai Châu”5. Tuy nhiên chữ Thái La tinh không 
thể hiện đầy đủ một số âm của tiếng Thái nên cũng 
không được bà con sử dụng. 
Trong ... ghị Quốc gia về Thái 
học Việt Nam lần thứ VIII, Nghệ An, Tr.188,Tr. 192.
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
139Volume 8, Issue 2
thông. Trong năm học 2016 – 2017, thực hiện Kế 
hoạch số 46 ngày 11/4/2016 về việc tổ chức dạy 
học thí điểm tiếng dân tộc Thái trong các trường 
tiểu học và TTGDTX trên địa bàn tỉnh Sơn La, Sở 
Giáo dục và Đào tạo tỉnh Sơn La đã triển khai dạy 
học thí điểm tiếng dân tộc Thái cho gần 400 học 
sinh tiểu học từ lớp 3 đến lớp 5 của 4 trường tiểu 
học: Trường Tiểu học Chiềng Ly, Tiểu học Thôm 
Mòn, Tiểu học Mường Giàng, Tiểu học Nậm Ét và 
gần 100 học sinh lớp 10 đến lớp 12 của TTGDTX 
huyện Mai Sơn.
Ngoài ra, trường Cao đẳng Sơn La và TTGDTX 
tỉnh Sơn La tổ chức các lớp dạy tiếng Thái cho 
cán bộ công chức, viên chức của các cơ quan, ban, 
ngành, các chiến sĩ công an trong tỉnh, cán bộ quản 
lý giáo dục, giáo viên các trường phổ thông dân tộc 
nội trú, trường mầm non, tiểu học và các TTGDTX 
ở vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Kết quả 
là “tỉnh Sơn La đã mở được hơn 85 lớp học cho hơn 
3500 học viên, đã cấp chứng chỉ tiếng Thái và bồi 
dưỡng nâng cao cho 40 giáo viên tiểu học, giáo viên 
các trường nội trú và trung tâm GDTX hoàn thành 
được cấp chứng chỉ giáo viên dạy tiếng Thái”6
Đồng thời, chúng tôi tiến hành khảo sát năng 
lực sử dụng chữ viết của người Thái tại bản Áng 2 
(xã Đông Sang, huyện Mộc Châu) và bản Hụm (xã 
Chiềng Xôm, thành phố Sơn La). Kết quả cho thấy 
là: Chỉ có tỷ lệ rất khiêm tốn người dân biết chữ 
Thái (0,6%), chủ yếu là những người cao tuổi (trên 
70 tuổi) họ vừa đọc vừa viết rất tốt. Còn lại 94% 
người Thái không biết đọc, viết chữ Thái. Vì không 
biết chữ Thái cho nên họ không thể phân biệt được 
chữ Thái cổ truyền hay chữ Thái La tinh. Đặc biệt, 
đối với bản Áng 2, xã Đông Sang, huyện Mộc Châu 
thì cả bản không có ai biết chữ Thái. Đây là một 
dấu hiệu báo động về hiện trạng năng lực chữ Thái 
của người Thái ở Sơn La. Bởi lẽ, nếu như sau Cách 
mạng tháng Tám năm 1945 số người biết đọc, biết 
viết tiếng phổ thông với số lượng rất ít thì hiện nay 
đa số đồng bào đã sử dụng tốt tiếng phổ thông. Tuy 
nhiên, một bất cập đặt ra là ngày nay khi tỷ lệ người 
biết chữ quốc ngữ càng tăng thì số người biết chữ 
Thái càng giảm. 
Tiếp đó, chúng tôi khảo sát với nội dung câu 
hỏi: Thế hệ trẻ có thích học chữ Thái không và sự 
cần thiết mở lớp truyền dạy chữ Thái cho thế hệ trẻ 
dân tộc Thái thì thu được kết quả là 95% ý kiến cho 
rằng thế hệ trẻ rất thích học chữ Thái nhưng không 
có lớp để đăng ký học. Cho nên 100% ý kiến trả lời 
rất cần thiết mở lớp truyền dạy chữ Thái cho bà con 
tại địa phương, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Một 
bất cập đặt ra là trong những năm qua, tỉnh Sơn La 
mở rất nhiều lớp dạy chữ Thái nhưng người Thái 
tại địa phương không được học bởi lẽ các lớp học 
này chỉ dành cho cán bộ. Tại xã, bản không có lớp 
nào dành cho người dân nên họ không có cơ hội 
6. Lò Mai Cương (2017), Giữ gìn, bảo tồn và phát triển chữ viết dân 
tộc Thái Việt Nam trong thời kỳ hội nhập, Hội nghị Quốc gia về Thái 
học Việt Nam lần thứ VIII, Nghệ An, Tr.188,Tr. 192.
được học. Đồng bào Thái nơi đây nhận thức rằng 
chữ Thái có vai trò vô cùng quan trọng, nếu chữ 
Thái mất đi là mất một giá trị văn hóa lớn mà cha 
ông để lại. Do vậy, họ mong muốn gìn giữ và bảo 
tồn chữ viết của dân tộc mình trong giai đoạn hiện 
nay. Từ thực trạng nêu trên tỉnh Sơn La rất cần có 
những giải pháp phù hợp nhằm “khôi phục lại sức 
sống của chữ Thái”7 để chữ Thái không bị mai một 
và mất đi trong xã hội hiện đại.
Về các làn điệu dân ca
Nếu người Việt có làn điệu dân ca quan họ Bắc 
Ninh dịu dàng, sâu lắng thì người Thái Sơn La có 
những điệu khắp say đắm lòng người, trong đó tiêu 
biểu là những làn điệu dân ca giao duyên: 
Gió à gió ơi !
Gió thổi ngược hay là thổi xuôi
Gió thổi xuôi ta xin gửi gói muối
Gió thổi ngược ta xin gửi gói cơm
Gió thổi quẩn quanh ta xin gửi lời yêu thương 
em ơi
Hoặc những điệu khắp được hát trong đám cưới:
Không tưởng với không ngờ
Không ngờ từ xa xưa cho đến ngày nay
Ta mới có dịp ngồi ăn cùng mâm
Mới có dịp ngồi cùng phòng
Mới có dịp gặp mặt anh em từ xa đến thăm
Đến từ khi nào sáng hay chiều
Đến sáng ta chưa được chào
Đến chiều vẫn chưa được hỏi
(Nguồn: Tác giả sưu tầm)
Có thể nói rằng, người Thái đã sáng tạo những 
làn điệu vô cùng độc đáo, đi vào lòng người. Trước 
đây, đồng bào Thái ai cũng thuộc, cũng hát những 
làn điệu của dân tộc mình và cứ truyền từ thế hệ này 
qua thế hệ khác. Ngoài thời gian lao động vất vả, 
thanh niên nam nữ dân tộc Thái ở Sơn La hò hẹn 
tâm tình hát làm quen trong những buổi sinh hoạt 
“hạn khuống” vui vẻ. Qua tiếng hát họ hiểu nhau 
hơn và tình yêu chớm nở từ những lời ca tiếng hát 
của những chàng trai, cô gái Thái. Nhiều người đã 
nên vợ, nên chồng sống đến đầu bạc răng long. Tuy 
nhiên, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy hiện nay 
chỉ có những người cao tuổi còn thuộc các làn điệu 
ấy, thế hệ trẻ người Thái không ai biết hát những làn 
điệu của dân tộc mình, cũng không còn những buổi 
hát hạn khuống như xưa. Vì thế hệ trẻ không thuộc 
những làn điệu ấy nên họ cũng không thích nghe, 
không thích tìm hiểu.Thay vào đó, thế hệ trẻ người 
Thái chỉ thuộc các bài hát nhạc trẻ của người Kinh. 
Nếu không có sự truyền dạy thì những làn điệu ấy 
sẽ dần mất đi và đến một thời điểm nào đó người 
Thái sẽ không còn ai biết đến các làn điệu dân ca cổ 
truyền của dân tộc. Trong xu thế hội nhập hiện nay, 
sự giao lưu tiếp biến giữa các nền văn hóa của các 
dân tộc là điều không tránh khỏi, nhưng việc tiếp 
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
140 JOURNAL OF ETHNIC MINORITIES RESEARCH
biến ấy nhằm làm giàu bản sắc văn hóa của dân tộc 
chứ không phải chúng ta quên hẳn bản sắc truyền 
thống để đi theo cái mới, cái chung của các dân tộc 
khác. Do vậy, tỉnh Sơn La cần có những giải pháp 
để bảo tồn nét đẹp VHTT này để nó không bị mai 
một, mất đi theo thời gian. 
Về lễ hội
Trong truyền thống, người Thái ở Sơn La có 
nhiều lễ hội khác nhau như lễ hội Kin Pang Then, lễ 
hội Hạn khuống, lễ hội Xên lẩu nó, lễ hội Hết Chá, 
lễ hội đua thuyền, lễ hội cầu an, lễ hội Xên mường 
(lễ hội hoa ban), lễ hội Xên bản xên mường (cúng 
bản cúng mường),trong đó lễ hội Xên bản Xên 
mường là lễ hội truyền thống quan trọng nhất của 
người Thái vì ở lễ hội này tất cả người dân đều tham 
gia và đóng góp về vật chất. Lễ hội này thường được 
tổ chức vào tháng 3,4 âm lịch hàng năm và được 
tiến hành cùng một thời điểm từ huyện đến xã. Lễ 
hội thường kéo dài năm ngày, gồm phần lễ và phần 
hội. Trong phần lễ, người dân cầu xin trời đất phù 
hộ cho họ một mùa vụ làm ăn thuận lợi, mưa thuận 
gió hòa, cây cối xanh tốt, không bị thiên tai dịch 
bệnh. Tiếp đó đến phần hội vui chơi với các trò chơi 
dân gian như ném còn, tó mák lẹ,và nhiều hoạt 
động nghệ thuật dân gian như múa xòe, múa sạp, 
hát đối đáp,Trong ngày hội, người Thái nơi đây 
kiêng giã gạo, làm nhà, vào rừng lấy củi, săn bắn, 
Tuy nhiên, qua khảo sát chúng tôi nhận thấy một 
vấn đề đặt ra là hiện nay một số lễ hội của người 
Thái ở Sơn La đang bị mai một dần và chỉ còn trong 
ký ức của người dân. Hàng năm ở đây không còn 
lễ hội Xên bản xên mường tổ chức khắp vùng như 
trong truyền thống đồng bào Thái đã thực hiện. Do 
đó, người Thái nơi đây không có nhiều cơ hội để 
tham gia ngày hội cộng đồng, người dân không còn 
sự háo hức mong chờ ngày hội diễn ra vào mỗi độ 
xuân về như xưa. Tuy nhiên, với hoạt động du lịch 
cộng đồng được Ủy ban nhân dân tỉnh chú trọng 
đầu tư phát triển thì một số lễ hội đã được phục 
dựng để quảng bá với khách du lịch trong nướcvà 
quốc tế như lễ hội đua thuyền, lễ hội Xên bản, lễ 
hội Hết Chá,Nhưng so với lễ hội truyền thống 
thì những lễ hội này còn được tổ chức chưa nhiều. 
Chính vì vậy, thế hệ trẻ người Thái ở Sơn La không 
cảm nhận được nhiều về giá trị lễ hội truyền thống 
của dân tộc mình như trước đây.
3. Một số giải pháp bảo tồn và phát huy giá 
trị văn hóa tinh thần của người Thái, tỉnh Sơn 
La 
- Một là, dạy chữ Thái cho người dân. Trong 
những năm qua tỉnh Sơn La đã mở rất nhiều lớp 
dạy chữ Thái và cấp chứng chỉ cho người học sau 
khi kết thúc khóa học. Tuy nhiên, những lớp này 
chủ yếu là cán bộ đi học, chưa có lớp học dành cho 
người dân địa phương tại các xã, bản. Do vậy, tỉnh 
Sơn La cần đa dạng hóa hình thức đào tạo. Có nghĩa 
là vừa mở các lớp dành cho cán bộ đi học, vừa mở 
lớp dành cho người dân tại các xã, bản. Người trực 
tiếp giảng dạy tại xã, bản là các cụ cao tuổi biết chữ 
Thái với kinh phí tổ chức được xã hội hóa. Hình 
thức tổ chức như vậy sẽ khuyến khích được đông 
đảo người dân đi học, đặc biệt là thế hệ trẻ.
- Hai là, dạy tiếng Thái cho các em là người 
dân tộc thiểu số trong các trường phổ thông. Trong 
những năm qua tỉnh Sơn La đã triển khai dạy thí 
điểm chữ Thái ở một số trường tiểu học dành cho 
học sinh từ khối lớp 3 đến khối lớp 5. Tuy nhiên, số 
lượng đó vẫn còn rất ít so với tỷ lệ học sinh là dân 
tộc Thái trên địa bàn tỉnh. Để giúp các em học sinh 
biết nhiều chữ Thái thì các trường tiểu học và phổ 
thông nên áp dụng hình thức tự chọn học ngoại ngữ. 
Nếu các em học tiếng Thái thì được miễn học ngoại 
ngữ khác hoặc có thể thiết kế một tuần 1 tiết trong 
chương trình học của học sinh trong trường. Có như 
vậy, các em học sinh dân tộc thiểu số mới có cơ hội 
được học và yêu thích chữ viết của dân tộc mình.
- Ba là, cần mở mã ngành đào tạo giáo viên dạy 
tiếng dân tộc thiểu số tại các trường chuyên nghiệp 
trên địa bàn tỉnh chưa có. Do vậy, để có nhiều giáo 
viên có thể dạy được tiếng dân tộc thiểu số, các 
trường chuyên nghiệp trên địa bàn tỉnh cần mở mã 
ngành đào tạo, xây dựng chương trình phù hợp để 
có thể đào tạo được một đội ngũ giáo viên đạt chuẩn 
đáp ứng nhu cầu của địa phương trong giai đoạn 
hiện nay. 
- Bốn là, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần tổ chức 
biên soạn sách giáo khoa chữ Thái phù hợp với đối 
tượng người học là học sinh các trường phổ thông, 
học viên các trung tâm giáo dục thường xuyên,... 
Nội dung cần tập trung hướng dẫn học chữ cái, cách 
ghép vần, tập đọc, tập viết. Tiếp đó là giới thiệu 
các câu ca dao, tục ngữ, câu đố, bài đồng dao. Khi 
người học đã có vốn hiểu biết chữ Thái cao hơn 
thì giới thiệu các tác phẩm văn học nổi tiếng, các 
phong tục tập quán truyền thống của dân tộc  Có 
như vậy mới phù hợp với nhu cầu của người học, 
với cán bộ công tác ở vùng đồng bào dân tộc thiểu 
số và miền núi. Qua đó cũng là cách bảo tồn văn 
hóa truyền thống của dân tộc Thái.
- Năm là, tổ chức các câu lạc bộ liên thế hệ, 
truyền dạy các làn điệu dân ca giao duyên của dân 
tộc Thái. Thế hệ trẻ người Thái ở Sơn La hiện nay 
đa số không thuộc và không biết đến các làn điệu 
dân ca của dân tộc mình. Vì vậy, tại các xã, bản cần 
tổ chức các câu lạc bộ liên thế hệ để những người 
cao tuổi có thể truyền dạy được cho các cháu những 
bài hát truyền thống của dân tộc Thái, đặc biệt là 
những làn điệu dân ca giao duyên đối đáp giữa nam 
và nữ, các bài hát hát trong đám cưới, lễ hội, 
- Sáu là, khuyến khích thế hệ trẻ học tiếng dân 
tộc. Thế hệ trẻ người Thái (dưới 12 tuổi) nói được 
tiếng Thái không nhiều. Để giúp các cháu nói được 
tiếng Thái nhiều hơn, trong sinh hoạt gia đình bố 
mẹ vừa nói tiếng phổ thông, vừa dạy tiếng Thái để 
cho các cháu hiểu và nói được. Cần khuyến khích 
các cháu vừa học tiếng phổ thông và vừa học tiếng 
dân tộc mình,
VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG VÀ PHÁT TRIỂN
141Volume 8, Issue 2
Tài liệu tham khảo
Đoàn Văn Phúc (2015), Cần làm gì khi một dân 
tộc thiểu số ở Việt Nam có quá nhiều bộ chữ 
viết, Hội nghị Quốc gia Thái học Việt Nam 
lần thứ VII, Lai Châu.
Hoàng Lương (2005), Văn hóa các dân tộc Tây 
Bắc Việt Nam, Trường Đại học Văn hóa, Hà 
Nội.
Lò Mai Cương (2017), Giữ gìn, bảo tồn và phát 
triển chữ viết dân tộc Thái Việt Nam trong 
thời kỳ hội nhập, Hội nghị Quốc gia về Thái 
học Việt Nam lần thứ VIII, Nghệ An.
Phan Lương Hùng (2015), Vị thế, chức năng 
tiếng thái và các biện pháp bảo tồn và phát 
triển tiếng nói, chữ viết Thái ở Sơn La, Hội 
nghị quốc gia Thái học Việt Nam lần thứ VII, 
Lai Châu, Nxb. Thế giới.
Nguyễn Thị Hạnh (2012) Những đặc trưng văn 
hóa của dân tộc Thái ở Sơn La, Tạp chí 
Đông Nam Á, số 91.
Trần Ngọc Thêm (1998), Cơ sở văn hóa Việt 
Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội. 
- Bảy là, chính quyền địa phương cần có kế 
hoạch phục dựng các lễ hội truyền thống của dân 
tộc và tổ chức thường niên. Thông qua việc tổ chức 
lễ hội tại địa phương, người dân được tham gia và 
am hiểu nhiều hơn về giá trị văn hóa cổ truyền của 
dân tộc. Đó là cách giáo dục giá trị văn hóa tinh 
thần cho thế hệ trẻ vô cùng hiệu quả. Thông qua các 
lễ hội, thể hệ trẻ người Thái ở Sơn La sẽ biết trân 
trọng và gìn giữ những bản sắc văn hóa của dân tộc 
mình hơn.
4. Kết luận
Trong các dân tộc cư trú tại Sơn La, hiện nay 
cộng đồng dân tộc Thái có số lượng dân số đông 
nhất. Trong quá trình lao động sản xuất, đồng bào 
dân tộc ở Sơn La đã sáng tạo nhiều giá trị văn hóa 
tinh thần độc đáo, tiêu biểu là tiếng nói, chữ viết, 
các làn điệu dân ca. Ngày nay, trong xu thế hội nhập 
quốc tế, các dân tộc ở Sơn La nói chung và dân tộc 
Thái nói riêng đã tiếp biến và giao thoa văn hóa với 
nhiều dân tộc trên thế giới để làm giàu truyền thống 
văn hóa của mình. Nhưng quá trình tiếp biến văn 
hóa ấy cũng sẽ làm cho các giá trị văn hóa truyền 
thống ngày càng bị mai một nếu như các dân tộc ở 
Sơn La, đặc biệt là thế hệ trẻ không nâng cao ý thức 
gìn giữ. Do vậy, để giữ gìn bản sắc văn hóa của 
cha ông để lại và không bị mai một theo thời gian, 
các cấp chính quyền tại Sơn La cần có những chủ 
trương thiết thực nhằm khuyến khích đồng bào dân 
tộc Thái nâng cao ý thức trách nhiệm, không ngừng 
học tập, rèn luyện góp phần giữ gìn, bảo tồn và phát 
huy những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc 
mình trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
SPIRITUAL CULTURAL VALUES OF THAI PEOPLE 
IN SON LA PROVINCE
Nguyen Thi Hanha
Lu Thi Van Anhb
Hoang Van Quangc
Son La College
a Email: hmongdao@yahoo.com.vn
b Email: hanhsla2701@gmail.com
c Email: hoangquangcdsl@gmail.com
Received: 7/5/2019
Reviewed: 14/5/2019
Revised: 27/5/2019
Accepted: 5/6/2019
Released: 21/6/2019
DOI:
https://doi.org/10.25073/0866-773X/314
Abstract: Preserving cultural identity today is becoming an 
urgent issue, especially for the Thai people in Son La province. 
By the process of labor and production, Thai people here 
have created many unique cultural and spiritual values. These 
cultural and spiritual values are preserved and handed down by 
the people through many generations. However, in the current 
period, the cultural and spiritual values of the Thai people in 
Son La are gradually eroded over time. Therefore, in order to 
preserve these cultural values, we conducted an assessment of 
the current state of the cultural and spiritual values of the Thai 
people in Son La province, thereby proposing some solutions to 
preserve and promote those cultural values
Keywords: Preservation of culture; Cultural values; 
Continuing education;Traditional culture; Thai ethnic, Son La 
province.

File đính kèm:

  • pdfgia_tri_van_hoa_tinh_than_cua_dan_toc_thai_tai_tinh_son_la.pdf