Giao tiếp của bác sĩ trong tư vấn khám bệnh bằng tiếng Anh và tiếng Việt: Một so sánh liên nhân tiếp cận từ góc độ sử dụng chủ ngữ
Tóm tắt: Bài báo này phân tích chi tiết về cách sử dụng chủ ngữ khi bác sĩ nói tiếng Anh và tiếng Việt giao tiếp với người bệnh tại phòng khám tư vấn. Mục tiêu của nghiên cứu là dựa vào việc sử dụng chủ ngữ của các bác sĩ để so sánh và luận bàn về tính liên nhân ẩn trong lời thoại của hai ngôn ngữ khám tư vấn. Khung lý thuyết nghiên cứu này chấp nhận sử dụng là hệ thống thức (system of mood) của ngôn ngữ học chức năng hệ thống (SFL) bao gồm bốn loại hình chủ ngữ chính: (1) chủ ngữ hiện, (2) chủ ngữ ẩn, (3) chủ ngữ tương tác, và (4) chủ ngữ không tương tác (Halliday và Matthiessen, 2004; Hoàng Văn Vân, 2017). Số liệu của bài báo được thu thập từ việc ghi âm và ghi chép lại 120 đoạn thoại, 60 đoạn bằng tiếng Anh (được tải xuống từ Youtube) và 60 đoạn bằng tiếng Việt (được ghi âm trực tiếp tại các phòng khám) giữa bác sĩ và người bệnh. Mục đích của nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc tìm ra sự giống và khác biệt của tính liên nhân ẩn sau nguồn tài nguyên từ vựng ngữ-Pháp trong các kênh chủ ngữ được so sánh mà còn khẳng định sự cần thiết trong việc thay đổi diễn ngôn khi sử dụng chủ ngữ nhằm khuyến khích phương thức khám tư vấn lấy người bệnh làm trung tâm
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giao tiếp của bác sĩ trong tư vấn khám bệnh bằng tiếng Anh và tiếng Việt: Một so sánh liên nhân tiếp cận từ góc độ sử dụng chủ ngữ
1. Dẫn nhập1 Theo Ong et al (1995: 903), khái niệm liên nhân trong mối quan hệ bác sĩ và bệnh nhân là một trong những khái niệm phức tạp nhất vì nó được đặt trong một mối quan hệ xã hội không cân bằng. Đồng quan điểm với Ong et al (Ibid), Irwin (1989) đã khẳng định rằng, giao tiếp liên nhân trong khám tư vấn là một vấn đề mang đậm ý nghĩa tình cảm (emotional laden issue) nên được xây dựng trong mối quan hệ giữa bác sĩ và người bệnh. Roter và Hall (1992: 35-37) còn coi tính liên nhân trong giao tiếp y tế là một thành phần ‘gia vị’ không thể thiếu trong chăm sóc y tế, là một công cụ chính để mối quan hệ gắn bó giữa bác sĩ và người bệnh được * ĐT.: 84-982204246 Email: nganguyen102005@yahoo.com tạo dựng và từ đó mọi mục tiêu điều trị cũng đạt được kết quả tốt. Xuất phát từ tính cấp thiết của việc xây dựng tính liên nhân trong giao tiếp của bác sĩ với người bệnh, nhiều nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra những báo cáo, lời khuyên cho bác sĩ khám tư vấn được nhìn từ các góc độ ngôn ngữ khác nhau như ngôn ngữ học xã hội học (sociolinguitics), hội thoại (conversational analysis), ngôn ngữ học phê phán (critical discourse analysis), dụng học (pragmatics) Đặc biệt, song hành với các nhà nghiên cứu theo đường hướng lý thuyết ngôn ngữ nêu trên, các nhà nghiên cứu quan tâm đến ngôn ngữ của bác sĩ theo đường hướng lý thuyết của SFL đã có những đóng góp vô cùng quý báu trong việc xây dựng hệ thống ngôn ngữ giao tiếp mang tính liên nhân trong ngành y GIAO TIẾP CỦA BÁC SĨ TRONG TƯ VẤN KHÁM BỆNH BẰNG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT: MỘT SO SÁNH LIÊN NHÂN TIẾP CẬN TỪ GÓC ĐỘ SỬ DỤNG CHỦ NGỮ Nguyễn Thanh Nga* Học viện Quân y, 160 Phùng Hưng, Phúc La, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam Nhận bài ngày 23 tháng 03 năm 2018 Chỉnh sửa ngày 23 tháng 05 năm 2018; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 05 năm 2018 Tóm tắt: Bài báo này phân tích chi tiết về cách sử dụng chủ ngữ khi bác sĩ nói tiếng Anh và tiếng Việt giao tiếp với người bệnh tại phòng khám tư vấn. Mục tiêu của nghiên cứu là dựa vào việc sử dụng chủ ngữ của các bác sĩ để so sánh và luận bàn về tính liên nhân ẩn trong lời thoại của hai ngôn ngữ khám tư vấn. Khung lý thuyết nghiên cứu này chấp nhận sử dụng là hệ thống thức (system of mood) của ngôn ngữ học chức năng hệ thống (SFL) bao gồm bốn loại hình chủ ngữ chính: (1) chủ ngữ hiện, (2) chủ ngữ ẩn, (3) chủ ngữ tương tác, và (4) chủ ngữ không tương tác (Halliday và Matthiessen, 2004; Hoàng Văn Vân, 2017). Số liệu của bài báo được thu thập từ việc ghi âm và ghi chép lại 120 đoạn thoại, 60 đoạn bằng tiếng Anh (được tải xuống từ Youtube) và 60 đoạn bằng tiếng Việt (được ghi âm trực tiếp tại các phòng khám) giữa bác sĩ và người bệnh. Mục đích của nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc tìm ra sự giống và khác biệt của tính liên nhân ẩn sau nguồn tài nguyên từ vựng ngữ-pháp trong các kênh chủ ngữ được so sánh mà còn khẳng định sự cần thiết trong việc thay đổi diễn ngôn khi sử dụng chủ ngữ nhằm khuyến khích phương thức khám tư vấn lấy người bệnh làm trung tâm. Từ khóa: khám tư vấn, giao tiếp bác sĩ-bệnh nhân, tính liên nhân, chủ ngữ, ngôn ngữ học chức năng hệ thống (SFL) 107Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 106-124 (Adam, 2014; Adegbite & Odebunmi, 2006; Luo, 2015). Mặc dù việc sử dụng khung SFL để nghiên cứu về lời thoại của bác sĩ được tiếp cận ở những nước khác nhau, có nền văn hóa khác nhau, các nghiên cứu này đều có chung một công cụ phân tích là dựa vào bằng chứng sử dụng đơn vị từ vựng và ngữ pháp của bác sĩ và người bệnh để luận bàn về tính liên nhân ẩn sâu trong ngữ nghĩa của lời thoại. Điều tất yếu là tính liên nhân trong lời thoại của bác sĩ có thể được phân tích dựa vào các đơn vị từ vựng ngữ pháp khác trong khung lý thuyết SFL. Bài báo này chỉ dừng lại ở việc trả lời một câu hỏi lớn: các đặc tính liên nhân thể hiện như thế nào thông qua các kênh chủ ngữ được sử dụng trong ngôn từ của bác sĩ khi khám tư vấn cho người bệnh? Từ đó, bài báo sẽ đưa ra một vài nhận định cho câu hỏi liệu sự lựa chọn chủ ngữ này có nhằm khẳng định cái tôi, quyền lực, hay vai trò của người bác sĩ? Bài báo này khảo sát 120 đoạn thoại các bác sĩ bản ngữ nói tiếng Anh và tiếng Việt khi giao tiếp với người bệnh tại phòng khám tư vấn. Trong quá trình phân tích chúng tôi xin được gọi tắt bác sĩ-bệnh nhân nói tiếng Anh và tiếng Việt lần lượt là bác sĩ-bệnh nhân Anh và bác sĩ-bệnh nhân Việt. Mục đích của bài báo là dựa vào việc sử dụng chủ ngữ trong lời thoại của bác sĩ, phân tích các đặc tính ngữ pháp-từ vựng, từ đó so sánh tính liên nhân được thể hiện một cách khác biệt giữa hai ngôn ngữ khám tư vấn. Khung lý thuyết mà nghiên cứu này sử dụng là Ngôn ngữ học chức năng hệ thống – Systemic Functional Linguistics (SFL) - một mô hình nổi tiếng trên thế giới dùng để mô tả các nghiên cứu về ngôn ngữ (xem Halliday, 1985/1994; Halliday & Matthiessen, 2004). Trong khuôn khổ của bài viết, các đặc tính từ vựng ngữ pháp, các loại chủ ngữ nằm trong hệ thống thức mà Halliday (Ibid.) đã đưa ra sẽ được khai thác trong diễn ngôn của bác sĩ và người bệnh, từ đó tìm hiểu các đặc tính ngữ vực kiến tạo nên nét chung và riêng biệt của tính liên nhân được thể hiện trong hai ngôn ngữ tư vấn – Anh và Việt. Đặc biệt, nghiên cứu này sẽ dựa vào bốn loại chủ ngữ mà Hoàng Văn Vân (2017) sơ lược lại của Halliday khi phân tích sách Sinh học 8 bao gồm: (1) chủ ngữ hiện, (2) chủ ngữ ẩn, (3) chủ ngữ tương tác, và (4) chủ ngữ không tương tác. Nghiên cứu này được chia làm năm phần chính. Phần 1: Dẫn nhập, Phần 2 giới hạn khung lý thuyết của SFL mà nghiên cứu này sử dụng, đặc biệt chú trọng đến bốn khái niệm phân tích chủ ngữ chủ chốt đã nêu trên ở cấp độ từ vựng và ngữ pháp mà nghiên cứu này thực hiện. Phần 3 đưa ra phương pháp nghiên cứu, tập trung giải thích quá trình lấy số liệu và phân tích số liệu. Phần 4 công bố kết quả tìm được và thảo luận trên kết quả phân tích. Phần 5 dựa vào kết quả nghiên cứu trên bốn loại chủ ngữ và đặc tính ngữ pháp nổi bật kiến tạo nên đặc trưng liên nhân trong lời thoại của bác sĩ nói tiếng Anh và tiếng Việt, giải thích và nêu một số kết luận rút ra từ các kết quả thu được. Phần này cũng nêu lên hạn chế của nghiên cứu và đưa ra những gợi ý cho các nghiên cứu sau. 2. Khung phân tích liên quan đến nghiên cứu Trong nhiều năm qua, có rất nhiều học giả ngôn ngữ coi khung lý thuyết SFL như kim chỉ nam hay một công cụ phân tích vô cùng hữu ích trong nghiên cứu ngôn bản. Sở dĩ mô hình ngôn ngữ này luôn thu hút được sự quan tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ là vì nó có thể giúp mô tả nhiều nét nghĩa của ngôn ngữ theo các siêu chức năng khác nhau. Trên thế giới đã có sẵn nhiều công trình nghiên cứu dày công mô tả khung lý thuyết này nhằm phục vụ cho các mục đích nghiên cứu khác nhau. Trong khuôn khổ của nghiên cứu này, tác giả chọn hệ thống Thức của khung lý thuyết SFL làm khung phân tích. Chính vì vậy, mục 2.1 và 2.2 dưới đây sẽ lần lượt trình bày vắn tắt về hệ thống và nêu các đặc điểm khung phân tích Thức được chấp 108 N.T. Nga/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 106-124 2.2. Khung phân tích Hệ thống ngữ pháp cơ bản của Thức trong SFL bao gồm hai thành phần chính là thức (mood) và tình thái (modality). Hai thành phần này kiến tạo nên siêu chức năng liên nhân (Halliday 1985/1994, 2012, Hoàng Văn Vân dịch; Matthiessen, 1995; Halliday & Matthiessen, 2004)1. Thành phần thức trong hệ 1 Hệ thống thức bao gồm thức và tình thái. ‘khác với ngôn ngữ học truyền thống, ngôn ngữ học chức năng hệ thống xem thức và tình thái là hai hệ thống của ngữ pháp tương tác (interactive grammar)’ (Hoàng Văn Vân, 2017: 33). Tuy nhiên, do sự giới hạn của một bài báo nghiên cứu khoa học, nghiên cứu này chỉ tập trung vào cách sử dụng chủ ngữ trong các cú của thức. Phần tình thái trong lời thoại của bác sĩ khi giao tiếp với người bệnh độc giả có thể xem thêm trong Nguyễn Thanh Nga (2017, 2018) thống Thức đóng chức năng liên nhân đã được Hoàng Văn Vân (2017) liệt kê và ứng dụng chung trong cả hệ thống tiếng Việt bao gồm: + Chủ ngữ ^ + Vị ngữ ^ ±Bổ ngữ ^ ± Phụ ngữ (Hoàng Văn Vân, 2017: 33) Trong đó, Chủ ngữ (được biểu thị bằng dấu +) được Hoàng Văn Vân (Ibid: 34) giải thích là thành phần cố hữu và phân biệt chủ ngữ với thành phần bắt buộc. Một thành phần được cho là bắt buộc khi nó phải có mặt trong cú. Trong khi đó, thành phần cố hữu cũng là thành phần bắt buộc nhưng không nhất thiết phải có mặt trong cú. Tác giả lấy dẫn chứng trong nhiều cú cầu khiến không bắt buộc phải xuất hiện chủ ngữ, nhưng rõ ràng chủ ngữ trong câu cầu khiến không đánh dấu chỉ người là thành phần cố hữu. Chủ ngữ được coi như một ‘mấu neo’ (anchor) nhận sử dụng phân tích tính liên nhân thông qua các kênh sử dụng chủ ngữ của bác sĩ. 2.1. Hệ thống Thức Siêu chức năng liên nhân chỉ ra vai trò của những người tham gia trong quá trình tương tác xã hội (Halliday, 2002). Đặc biệt, siêu chức năng này xem cú như một sự trao đổi và có liên quan nhiều nhất đến các hệ thống Thức. Trong mối quan hệ này, Thức xem vai trò của người nói trong vai người tìm kiếm thông tin và vai trò của người nghe trong vai người cung cấp thông tin được yêu cầu (Halliday & Matthiessen, 2004: 106). Halliday (1964, 1978, 1994) gọi loại ‘tương tác’ này là ‘vai tham thể như là một sự trao đổi’ và đặt tên nó là cho và yêu cầu. Hệ thống Thức, điển hình được hiện thực hoá bằng hệ thống từ, được điều chỉnh trong nghiên cứu này để mô tả các quá trình trao đổi cụ thể giữa các bác sĩ và người bệnh trong quá trình khám bệnh. Việc phân tích và mô tả của chúng tôi được tiếp cận bằng ngữ pháp chức năng hệ thống Thức nhằm giải thích các mẫu thức ngữ nghĩa liên nhân xuất hiện trong tương tác giữa bác sĩ- người bệnh. Việc triển khai các lựa chọn thức dựa trên mạng hệ thống Thức có thể được minh họa trong Hình 1 sau đây. Hình 1. Hệ thống Thức (Halliday & Matthiessen, 2004: 23) 109Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 106-124 cho cả mệnh đề phán đoán (proposition) hay khiến nghị (proposals) (Chinwe, 2013:53). Chủ ngữ là thành phần chịu trách nhiệm cho mệnh đề có thể là chấp nhận hay từ chối, khẳng định hay phủ định, mong muốn hay không mong mốn. Sự thành công hay thất bại của một mệnh đề được đặt vào (vested on) chủ ngữ (Chinwe, Ibid.). Nghiên cứu này sẽ chỉ ra các hiện tượng chủ ngữ được hiện thực hóa điển hình bằng danh từ, cụm danh từ và hô ngữ xuất hiện trong lời thoại của bác sĩ khi giao tiếp với người bệnh. Nghiên cứu sẽ áp dụng bốn loại chủ ngữ mà Hoàng Văn Vân (2017: 45) đã thống kê lại các kênh chủ ngữ mà Halliday đã đề cập đến trong thức: (1) chủ ngữ hiện, (2) chủ ngữ ẩn, (3) chủ ngữ tương tác, và (4) chủ ngữ không tương tác. Trong đó, chủ ngữ hiện là các chủ ngữ xuất hiện trong ngôn bản; Chủ ngữ ẩn là chủ ngữ cố hữu nhưng không xuất hiện trong ngôn bản (trường hợp thường gặp là trong các câu cầu khiến không có đánh dấu chỉ người); Chủ ngữ tương tác là tham thể tham gia vào đoạn thoại khám tư vấn (cụ thể chủ ngữ tương tác ở đây là bác sĩ và người bệnh); Chủ ngữ không tương tác là tham thể được tái hiện lại nhằm giải thích thành phần chủ ngữ đã được nhắc tới trước đó. Các tiểu thành phần còn lại cũng liên quan đến nghiên cứu này là thành phần cố hữu thứ hai trong cú là Vị ngữ (cũng được biểu thị bằng dấu +). Thành phần vị ngữ được hiện thực hóa bằng các cụm động từ và các tử tình thái (modal operators) hay tác tử chỉ thời gian (temporal operators). Thành phần này cũng đóng chức năng hữu định (finite) trong thành phần Thức và là thành phần có thể ‘khẳng định hay phủ định’ về Chủ ngữ (Wilkes, 2002: 1207). Vị ngữ có thể là không hữu định hay còn được gọi là vô định (non-finite). Cụ thể, có những cú vô định chứa một vị ngữ nhưng lại không có thành phần hữu định (xem thêm Halliday 1994; Halliday, 2012, Hoàng Văn Vân dịch; Halliday & Matthiessen, 2004). Thành phần thứ ba của thức là Bổ ngữ, nằm trong phần Dư (Residue), có tiềm năng là Chủ ngữ nhưng không phải là Chủ ngữ (được biểu thị bằng dấu ±). Bổ ngữ được hiện thực hóa bằng các cụm danh từ. Thành phần cuối cùng của thức là thành phần Phụ ngữ, không có tiềm năng trở thành Chủ ngữ (được biểu thị bằng dấu ±). Phụ ngữ được hiện thực hóa bởi các cụm trạng từ hay giới từ. Có rất nhiều các kiểu phụ ngữ khác nhau như Phụ ngữ chu cảnh (circumstantial Adjunct) nằm trong phần dư của siêu chức năng kinh nghiệm (experiential metafunction), Phụ ngữ tình thái (modal Adjunct) nằm trong Thức của siêu chức năng liên nhân (interpersonal metafunction) và Phụ ngữ liên hợp (conjunctive Adjunct) không có trong cấu trúc Thức của siêu chức năng ngôn bản (textual metafunction). Các tiểu thành phần của thức cho chúng ta hiểu rõ chức năng lời nói trong giao tiếp, trong khi chủ ngữ cung cấp cho chúng ta một sự phán đoán, đó là một cái gì đó mà qua quy chiếu của nó, nhận định có thể được khẳng định hay phủ nhận; ví dụ, chủ ngữ của thức hình thành nên các cặp phân vai (người nói/người nghe hay người viết/người đọc) trong một ngôn cảnh nào đó. Chính sự phân vai diễn này cho ta hiểu được nguyên tắc trách nhiệm của tham thể trong khiến nghị. Chủ ngữ đóng vai trò hiện thực hóa ý nghĩa một đề nghị (offer) hay yêu cầu (command). Vậy, nghiên cứu về chủ ngữ trong đoạn thoại giữa bác sĩ và người bệnh cho ta hiểu rõ ý nghĩa của chủ thể chịu trách nhiệm với sự kiện giao tiếp khám tư vấn. Cùng với ý nghĩa của sự phân tích chủ ngữ, các tiểu thành phần trong thức cũng góp vai trò quan trọng vì nó có chức năng giới hạn một nhận định khi đưa nhận định trở lại thực tế bằng cách quy chiếu nó theo thời gian và không gian. Trong khi quy chiếu về thời gian là quy chiếu thời điểm nói (quy xét theo thì của động từ) thì quy chiếu về không gian là quy chiếu theo đánh giá của người nói (quy xét theo động từ tình thái). Ý nghĩa của thức không chỉ dừng lại ở sự đánh giá về chủ ngữ trong bài báo này, 110 N.T. Nga/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 106-124 hơn thế nữa, cấu trúc của thức còn cho ta hiểu rõ chức năng lời nói của một cú là thức tuyên bố (declarative mood) (đưa ra nhận định của người nói/viết bằng cách khẳng định với người nghe/đọc về một vấn đề nào đó), thức nghi vấn (interrogative mood) (đưa ra câu hỏi của người nói/viết bằng cách yêu cầu người nghe/ đọc cung cấp thông tin về một vấn đề nào đó) hay thức cầu khiến (imperative mood) (đưa ra cầu khiến của người nói/viết bằng cách yêu cầu người ... ứng tỏ khi ngôn thoại của bác sĩ Anh chú trọng đến việc giải thích và thuyết phục người bệnh ngay tại buổi khám tư vấn, ngôn thoại của bác sĩ Việt khá ‘thẳng’ và ‘trực tiếp’ (direct and straightforward), luôn nhấn mạnh vào việc yêu cầu người bệnh phải nhớ lời dặn dò của bác sĩ. Tuy nhiên, CN không tương tác trong ngôn thoại của bác sĩ Anh ít đa dạng hơn trong tiếng Việt. Các trường hợp sử dụng loại chủ 4 Vì dung lượng của bài báo khoa học có giới hạn, nghiên cứu này chỉ có thể giải thích tóm tắt lý do hình thức CN không tương tác được sử dụng phần lớn trong cú đẳng lập chứ không phải là phụ thuộc. Lý thuyết về các chiến lược liên cú trong tiếng Anh và tiếng Việt xin xem thêm trong Halliday, 1994; Matthiessen,1995; Halliday, 2012, Hoàng Văn Vân dịch. ngữ này được bác sĩ Anh sử dụng với các đại từ thay thế như it (nó), they (chúng nó, họ), he (anh ấy), she (cô ấy) và các đại từ liên hệ như which (cái đó), who (người mà), whom (người mà), when (khi mà), where (nơi mà), that (cái mà), v.v. Ngược lại, trong tiếng Việt, các đại từ được đa dạng hóa tùy thuộc sự phân ngôi của chủ ngữ được nhắc tới trước đó; (15) Các bác sĩ trực phòng bên sẽ kiểm tra lại cho em nhé. [Các em] trực đây đến chiều rồi mới đổi ca cơ. (Tim mạch, BS.08) (16) Bác sĩ Hùng khám cho anh hôm qua đúng không? [Bạn] trẻ trẻ í? (Ung thư, BS.04) (17) |||Có thể anh tham khảo với những bệnh nhân ghép trước, ||[người ta] là phải uống thêm những thuốc chống thải ghép (Nội tiết, BS.08) và nhóm danh từ + các đại từ quan hệ đó, ấy, í, mà, đấy. (18)||ví dụ như là BR- rôn hoặc là Taclirimut ||hoặc là các kiểu. Đấy, [những cái đấy] thì [nó] sẽ làm không đào thải ||nhưng [nó] sẽ có một số cái tác dụng phụ như là nó làm cho mình suy giảm miễn dịch, ||ví dụ [nó] làm giảm cái sức miễn dịch của mình xuống để không đào thải quả thận đấy ra. (Nội tiết, BS.08) 5. Kết luận Nghiên cứu này khảo sát sự xuất hiện và các đặc tính từ vựng ngữ pháp của chủ ngữ ở các cú của thức trong khung lý thuyết của SFL để chứng minh tính liên nhân được hiện thực hóa trong lời thoại của bác sĩ nói tiếng Anh và tiếng Việt. Tất nhiên, có rất nhiều kênh thông tin về từ vựng và ngữ pháp có thể dùng làm bằng chứng cho các đặc tính liên nhân xuất hiện trong ngôn ngữ khám tư vấn. Tuy nhiên, (14) |||you’re taking insulin ||[that] can bring your blood sugar down quickly alright |||and [it] can bring its lower level ||than [it]’s supposed to be thought. (Endocrinology, Dr.03). |||anh đang tiêm insulin ||[loại thuốc] có thể làm giảm đường huyết của anh khá nhanh |||và [nó] có thể làm giảm ở ngưỡng thấp hơn là ||[nó] được hy vọng. (Nội tiết, BS.03). 122 N.T. Nga/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 106-124 vì sự giới hạn không gian của một bài báo khoa học, nghiên cứu này chỉ dừng lại ở việc đưa ra những minh chứng về tần số sử dụng và một số đặc điểm ngữ pháp - từ vựng của chủ ngữ gắn trong các cú của thức kiến tạo nên nét chung và riêng được thể hiện trong tính liên nhân của ngôn thoại khám tư vấn. Từ kết quả của nghiên cứu, bài báo đưa ra một số kết luận như sau: Thứ nhất, tính liên nhân ẩn sau lời nói của bác sĩ tại phòng khám là sự thể hiện ‘quyền lực’, khẳng định vai trò và trách nhiệm của bác sĩ khi giao tiếp với người bệnh. Tuy vậy, cách thức thể hiện quyền lực trong hai ngôn ngữ khám tư vấn có những nét tương đồng và dị biệt. Nét tương đồng thể hiện ở tỉ lệ sử dụng CN tương tác lớn nhất so với ba loại hình chủ ngữ còn lại. Điều này phản ánh rất sát với thực tế khi công tác khám tư vấn xảy ra trực tiếp (face-to-face) giữa bác sĩ và người bệnh. Chính vì vậy, hai tham thể này đương nhiên phải được đề cập đến nhiều nhất. Tuy nhiên, những phân tích chi tiết về ý nghĩa sử dụng từ vựng thông qua bốn kênh chủ ngữ so sánh đã cho thấy nét dị biệt khá lớn trong hai ngôn ngữ. Đối với ngôn thoại tư vấn của bác sĩ Anh, chúng tôi đã tìm thấy nhiều bằng chứng chứng minh cho sự dịch chuyển diễn ngôn theo đường hướng lấy người bệnh làm trung tâm trong tư vấn khám chữa bệnh. Kết quả này tiếp tục khẳng định những phát hiện trước đây của chúng tôi (Nguyễn Thanh Nga, 2017, 2018). Cụ thể, việc phân tích tỉ lệ các đặc tính từ vựng-ngữ pháp của bốn loại chủ ngữ cho thấy bác sĩ Anh đã khai thác rất hiệu quả nguồn tài nguyên ngữ pháp trong ngôn thoại của mình để không những nâng cao được tính độc lập, tự chủ cho người bệnh mà còn thể hiện tính quyền lực lịch sự khi luôn hướng tới người bệnh, lấy người bệnh làm trung tâm. Nói một cách khác, để làm tròn trách nhiệm của mình, ẩn sau ngôn từ của bác sĩ Anh là một phương châm giao tiếp lịch sự, gần gũi và thân thiện. Đối với ngôn thoại tư vấn của bác sĩ Việt, chúng tôi cũng tìm thấy các bằng chứng chứng minh bác sĩ hướng tới người bệnh, nhưng lấy kết quả điều trị của người bệnh làm trung tâm. Dựa vào nguồn tài nguyên ngữ pháp về chủ ngữ trong ngôn từ cho thấy bác sĩ Việt có xu hướng thể hiện quyền lực khá trực tiếp trước người bệnh. Khoảng cách trong mối quan hệ của bác sĩ Việt với người bệnh vẫn còn tương đối lớn. Thứ hai, cũng giống như các nghiên cứu trước, chúng tôi một lần nữa khẳng định rằng các nguồn tài nguyên về ngữ pháp có đóng góp rất lớn trong việc nâng cao chất lượng lời nói của bác sĩ khi giao tiếp với người bệnh đặc biệt là việc sử dụng hiệu quả các kênh chủ ngữ trong ngôn từ. Thứ ba, vì ngôn ngữ của bác sĩ nằm trong một hệ thống ngôn ngữ của xã hội mà nó thuộc về. Cụ thể, ngôn ngữ của các bác sĩ trong nghiên cứu đương nhiên chịu ảnh hưởng trực tiếp của hệ thống ngôn ngữ tiếng Anh và tiếng Việt. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xin phép nhắc lại là không đưa ra những kết luận ‘đóng khung’ như Nguyễn Quang (2018: 16). Tuy nhiên, những kết luận có bằng chứng khách quan tính trong nghiên cứu này cho thấy bác sĩ Việt nên hướng tới sự chuyển dịch diễn ngôn lấy người bệnh làm trung tâm hơn nữa nhằm tạo khoảng cách gần gũi và thân thiện với người bệnh trong công tác khám chữa bệnh tư vấn trực tiếp. Nghiên cứu này chỉ khảo sát trên phạm vi hẹp về cách sử dụng chủ ngữ ở các cú của thức trong khung lý thuyết của SFL nhưng đây cũng là một sự khẳng định về tính hiệu quả và giá trị nhân văn trong việc trau dồi kỹ năng giao tiếp lấy người bệnh làm trung tâm. Nghiên cứu cũng đồng tình với những gì mà Aarrons (2005: 18) đã kêu gọi, đó là việc xác định hai yếu tổ ‘điều trị’ và ‘quan tâm’ (‘cure’ and ‘care’) là không thể tách rời trong công tác khám tư vấn. Trong đó, yếu tố ‘quan tâm’ được tác giả này đánh giá là các kỹ năng liên nhân (interpersonal skills) mà bác sĩ sử dụng trong khi giao tiếp cùng người bệnh. Thay đổi trong diễn ngôn của bác sĩ nên hướng tới tính lịch sự, ân cần, hay nói như Hall et al (1994: 31), ‘patients need for both cure 123Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 106-124 and care when visiting their doctors (the need to know and understand [cure], and the need to feel known and understood [care]) (Tạm dịch là: người bệnh cần nhận được cả sự điều trị và quan tâm khi được bác sĩ khám bệnh. Nhu cầu biết và hiểu [điều trị], và nhu cầu được biết và được hiểu [quan tâm]). Cũng giống như những nghiên cứu trước, bài báo này hy vọng đóng góp thêm một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ ngành y và là nguồn tài liệu tham khảo hữu ích cho các sinh viên y khoa đang còn ngồi trên ghế nhà trường và đội ngũ nhân viên y tế đang trực tiếp phục vụ người bệnh đạt hiệu quả cao. Hạn chế của nghiên cứu này là không khai thác được nguồn ‘dữ liệu thô’ (primary data) trong tiếng Anh vì vậy việc so sánh với nguồn dữ liệu tự nhiên trong tiếng Việt sẽ làm độ tin cậy của nghiên cứu bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, nghiên cứu đã khắc phục bằng cách lựa chọn những nguồn ngữ liệu tiếng Anh được tái hiện lại ít tính sân khấu hóa nhất để hai nguồn ngữ liệu Anh - Việt mang tính tương đồng cao trong so sánh. Hơn nữa, nghiên cứu chỉ tập trung vào phát hiện và so sánh các đặc tính từ vựng và ngữ pháp trong ngôn từ của bác sĩ mà không đi xa nghiên cứu các yếu tố văn hóa hay thành tố giao tiếp nào đã tác động đến việc lựa chọn từ vựng - ngữ pháp đó. Nếu có thể tìm được hai nguồn ngữ liệu thô tương đồng, nghiên cứu sẽ đi xa hơn để tìm hiểu về các tàng ẩn văn hóa ảnh hưởng đến việc lựa chọn từ vựng ngữ pháp, kiến tạo nên ngôn từ của bác sĩ tại phòng khám tư vấn. Để có sự so sánh toàn diện và đánh giá chi tiết về tính quyền lực được ẩn sâu trong giao tiếp liên nhân của bác sĩ Anh và Việt, cần phải có thêm các bằng chứng được hiện thực hóa trong ý nghĩa của ngôn từ của bác sĩ. Cụ thể, trong hệ thống Thức nói riêng, tìm hiểu thêm về ngữ pháp và từ vựng của thức và tình thái (mood and modality) cũng có tiềm năng đưa ra nhiều bằng chứng về tính liên nhân trong giao tiếp bác sĩ - người bệnh. Ngoài ra, các yếu tố giao tiếp khác như lượt lời (turns), cặp thoại (pairs), chỉnh sửa lời (repairs) ứng dụng trong phân tích hội thoại, hệ tư tưởng (ideology) trong ngôn ngữ học phê phán, hành vi ngôn ngữ (speech act) trong dụng học đều là những nguồn tài nguyên lý thuyết hữu ích giúp khám phá thêm tính liên nhân tàng ẩn trong ngôn từ tư vấn của bác sĩ với người bệnh tại phòng khám tư vấn. Nghiên cứu này cũng mới chỉ dừng lại ở việc đặt ngôn ngữ của người bác sĩ vào bối cảnh giao tiếp với người bệnh để tìm hiểu tính liên nhân trong ngôn từ của bác sĩ. Nếu có thể đi xa hơn, các nghiên cứu tiếp theo nên tìm hiểu tính liên nhân được kiến tạo trong ngôn từ của cả bác sĩ và người bệnh. Điều này sẽ mô tả được bức tranh giao tiếp bác sĩ - người bệnh tại phòng khám tư vấn một cách toàn diện và sâu sắc hơn. Tài liệu tham khảo Tiếng Việt Halliday, M. A. K, (2012). Dẫn luận ngữ pháp chức năng (2nd ed). Hoàng Văn Vân dịch. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Nguyễn Thanh Nga (2018). Giao tiếp của bác sĩ và bệnh nhân tại phòng khám tư vấn – một nghiên cứu trường hợp tại Australia. Nghiên cứu Nước ngoài, 34(1), 154-177. Nguyễn Quang (2018). Chủ quan tính và khách quan tính trong hệ thống xưng hô Việt và Anh. Nghiên cứu Nước ngoài, 34(1), 17-34. Hoàng Văn Vân (2005). Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt: Mô tả theo quan điểm chức năng hệ thống. In lần thứ hai. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội. Hoàng Văn Vân (2017). Ngôn ngữ của sách giáo khoa phổ thông: Khảo sát đặc điểm ngữ pháp-từ vựng của 7 bài học (ngôn bản) trong Sinh học 8 từ bình diện liên nhân. Ngôn ngữ, 9(340), 28-54. Tiếng Anh Aarrons, D. (2005). Doctor-patient communication in government hospital in Jamaica: Empiric and ethical dimensions of a socio-cultural phenomenon. PhD thesis, University of McGill, Pécs, Montreal. Adam, Q. A. (2014). Study of power relations in doctor- patient interactions in selected hospital in Lagos State, Nigeria, Advances in Language and Literary Studies, 5(2), pp. 177-184. Adegbite, W. & Odebunmi, A. (2006). “Discourse tact in doctor-patient interactions in English: An analysis of diagnosis in medical communication in Nigeria.” Nordic Journal of African Studies, 15(4), pp. 499-519. Chinwe, R. E. (2013). Critical discourse analysis of interpersonal meaning and power relations in 124 N.T. Nga/ Tạp chí Nghiên cứu Nước ngoài, Tập 34, Số 3 (2018) 106-124 selected inaugural political speeches in Nigeria. Unizik Journal of Arts and Humanities, pp. 46-65. Eggins, S & Slade, D. (1997). Analyzing Casual Conversation. London: Continuum. Hall, J. A., Irish. J. T., Roter, D.L., Ehrlich, C.M., Miller, L.M. (1994). Satisfaction, gender, and communication in medical visits. Med Care, 32 (12), pp. 12-31. Halliday, M. A. K. (1978). Language as Social Semiotic: The Interpretation of Language and Meaning. London: Edward Arnold. Halliday, M. A. K. (1985). Spoken and Written Language. Geelong, Vic: Deakin University Press. Halliday, M. A. K . (1994). An Introduction to Functional Grammar (2nd ed). London: Edward Arnold. Halliday, M. A. K. (2002). On Language and Linguistics. London: Continuum. Halliday, M. A. K., McIntosh, A & Strevens, P. (1964). The Linguistic Sciences and Language Teaching. London: Longman. Halliday, M. A. K & Matthiessen, C. M. I. M. (2004). An Introduction to Functional Grammar (3rd ed). London: Edward Arnold. Irwin W. G., McClelland, R. and Love, A. H. G. (1989). Communication skills training for medical students: an integrated approach. Med. Educ, 23, pp. 387-391. Luo, X. (2015). Patients’ Interrogative Choices in Chinese Doctor-Patient Conversations. Studies in Sociology of Science, 6 (4), pp. 65-69. Matthiessen, C. (1995). Lexicogrammatical Cartography: English Systems. Tokyo: Tokyo International language Science Publishers. Nguyễn Thanh Nga (2017). Doctor-patient power relation: a systemic functional analysis of a doctor- patient consultation. VNU Journal of Foreign Studies, 33(3), pp. 24-43. Ong L. M., de Haes, J. C. J. M., Hoos, A. M. & Lammes, F. B. (1995). Doctor-patient communication: A review of the literature. Social Science and Medicine, 40, pp. 903-918. Roter, D. L & Hall, J. A. (1992). Doctor talking with patients/Patients talking with doctors. London: Auburn House. Wilkes, G. A. (2002). The Collins English Dictionary: Australian Edition. Sydney/Aucland/Glasgow, Collin. DOCTOR TALK AT CONSULTANCY IN ENGLISH AND VIETNAMESE: AN INTERPERSONAL COMPARISON APPROACHED FROM THE PERSPECTIVE OF SUBJECT USES Nguyen Thanh Nga Vietnam Military Medical University, 160 Phung Hung, Phuc La, Ha Dong, Hanoi, Vietnam Abstract: This paper includes a detailed analysis of subject deployments realized in English and Vietnamese doctor talks at consulations with patients. The focus is to base on doctor’s uses of subject to compare interpersonal meanings hidden behind doctors’ consultation of the two selected languages. The theoretical framework used in the current study is the mood system of SFL (systemic functional linguistics) which includes four main types of subject: (1) subject explicits, (2) subject implicits, (3) subject interactants, and (4) subject non-interactants (Halliday & Matthiessen, 2004; Hoang Van Van, 2017). The data was collected by note taking and recording of 120 conversations (60 English conversations downloaded from Youtube; and 60 Vietnamese conversation recorded from real sites of consultation). This study not only finds out the similarities and differences of interpersonal meanings hidden behind doctors’ uses of subject but also confirms the necessity of change of subject deployments in medical discourse that lead to the movement of patient-centeredness mood. Keywords: consultation, doctor-patient consultation, interpersonal meanings, Systemic Functional Linguistics (SFL)
File đính kèm:
- giao_tiep_cua_bac_si_trong_tu_van_kham_benh_bang_tieng_anh_v.pdf