Sự chuyển biến bước đầu từ ngữ vựng Hán Nôm sang ngữ vựng quốc ngữ (Khảo sát qua tác phẩm Phép giảng tám ngày của Alecxandre De Rhodes)

Giai đoạn chuyển biến từ hệ thống ngữ vựng Hán-Nôm sang hệ thống ngữ vựng

chữ quốc ngữ diễn ra từ lúc chữ quốc ngữ khai sinh (khoảng giữa thế kỷ XVII)

cho đến thời Gia Định báo (nửa cuối thế kỷ XIX). Qua nghiên cứu tác phẩm

Phép giảng tám ngày chúng tôi thấy sự chuyển biến bước đầu của ngữ vựng

diễn ra trên hai khía cạnh: sự du nhập của từ vựng nước ngoài và sự hình thành

lớp ngữ vựng mới có tính đặc thù, chuyên biệt, và đặc biệt là có tính học thuật.

pdf 11 trang yennguyen 4780
Bạn đang xem tài liệu "Sự chuyển biến bước đầu từ ngữ vựng Hán Nôm sang ngữ vựng quốc ngữ (Khảo sát qua tác phẩm Phép giảng tám ngày của Alecxandre De Rhodes)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự chuyển biến bước đầu từ ngữ vựng Hán Nôm sang ngữ vựng quốc ngữ (Khảo sát qua tác phẩm Phép giảng tám ngày của Alecxandre De Rhodes)

Sự chuyển biến bước đầu từ ngữ vựng Hán Nôm sang ngữ vựng quốc ngữ (Khảo sát qua tác phẩm Phép giảng tám ngày của Alecxandre De Rhodes)
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
51 
SỰ CHUYỂN BIẾN BƯỚC ĐẦU TỪ NGỮ VỰNG 
HÁN NÔM SANG NGỮ VỰNG QUỐC NGỮ 
(KHẢO SÁT QUA TÁC PHẨM PHÉP GIẢNG TÁM 
NGÀY CỦA ALECXANDRE DE RHODES) 
HUỲNH VĨNH PHÚC 
Giai đoạn chuyển biến từ hệ thống ngữ vựng Hán-Nôm sang hệ thống ngữ vựng 
chữ quốc ngữ diễn ra từ lúc chữ quốc ngữ khai sinh (khoảng giữa thế kỷ XVII) 
cho đến thời Gia Định báo (nửa cuối thế kỷ XIX). Qua nghiên cứu tác phẩm 
Phép giảng tám ngày chúng tôi thấy sự chuyển biến bước đầu của ngữ vựng 
diễn ra trên hai khía cạnh: sự du nhập của từ vựng nước ngoài và sự hình thành 
lớp ngữ vựng mới có tính đặc thù, chuyên biệt, và đặc biệt là có tính học thuật. 
Tác phẩm Phép giảng tám ngày của 
linh mục Alexandre De Rhodes (1593 - 
1660) được Bộ Truyền giáo Roma 
xuất bản năm 1651, ngoài phương 
diện tôn giáo, điểm đặc biệt về 
phương diện ngôn ngữ của tác phẩm 
này là nó được viết song ngữ: La ngữ 
và Việt ngữ; và đặc biệt hơn nữa, có 
lẽ đây là tác phẩm đầu tiên được viết 
bằng chữ quốc ngữ mà hiện nay 
chúng ta tìm thấy được. Vì là tác 
phẩm đầu tiên được viết bằng chữ 
quốc ngữ nên hiển nhiên Phép giảng 
tám ngày là tài liệu rất quan trọng để 
nghiên cứu về chữ quốc ngữ ở thời kỳ 
sơ khởi(1). 
1. SỰ DU NHẬP TỪ VỰNG GỐC 
LATINH VÀO HỆ THỐNG NGỮ VỰNG 
TIẾNG VIỆT 
Sự du nhập của từ vựng nước ngoài 
vào hệ thống từ vựng của một nước là 
hiện tượng ngôn ngữ - văn hóa rất 
phổ biến. Trong ngữ vựng của tiếng 
Anh, tiếng Pháp, tiếng Đức... có rất 
nhiều từ được du nhập từ tiếng Latinh 
và tiếng Hy Lạp, trong ngữ vựng của 
tiếng Hán có nhiều từ được du nhập 
từ Ấn Độ. 
Sự du nhập hay là sự vay mượn từ 
ngữ giữa các dân tộc khác nhau là kết 
quả của quá trình giao lưu văn hóa, 
kinh tế, chính trị, xã hội giữa các dân 
tộc. Trong lịch sử phát triển, từ trước 
năm 1651 tiếng Việt cũng đã du nhập 
từ vựng của các nước khác, như 
Trung Quốc, Ấn Độ... Nhưng có lẽ chỉ 
từ năm 1651, khi Phép giảng tám 
ngày được xuất bản, tiếng Việt mới 
bắt đầu du nhập từ vựng có gốc 
Latinh hay gốc Hy Lạp của nền văn 
hóa Kitô giáo xa lạ. 
Khảo sát Phép giảng tám ngày, chúng 
tôi nhận thấy một lượng khá nhiều các 
từ ngữ có gốc Latinh hay gốc Hy Lạp 
Huỳnh Vĩnh Phúc. Tiến sĩ. Trung tâm Văn 
học và Ngôn ngữ học, Viện Khoa học xã 
hội vùng Nam Bộ. 
HUỲNH VĨNH PHÚC – SỰ CHUYỂN BIẾN BƯỚC ĐẦU TỪ„ 
52
tham gia vào cấu trúc văn bản tiếng 
Việt. Sau đây chúng tôi sơ bộ thống 
kê, phân loại và phân tích cách thức 
các từ ngữ này tham gia cấu tạo văn 
bản tiếng Việt. 
1.1. Bảng thống kê và phân loại các từ 
ngữ gốc Latinh hay gốc Hy Lạp trong 
văn bản Phép giảng tám ngày: 
Từ chỉ khái niệm: 
angeli (tr.44), gratia (tr.44), gloria 
(tr.44), latria (tr.285), dulia (tr.285), 
hyperdulia (tr.285), Sanctissima 
Trinitas (tr.133), thánh Ecclesia 
Catholica (tr.135), Sanctissima 
Trinidade (tr.136), đức Spiritus 
Sanstus (tr.136) (hay đức Spirito 
Sancto), Sacramento (tr.248), 
Firmamentum (tr.69), Apostolo (tr.177), 
Evangelio (tr.177), limbo (tr.240), 
Deus (tr.58), Crux (tr.217). 
Từ chỉ tên thần thánh, ma quỉ hay tên 
người: 
Assirio (tr.62), Lucifer (tr.65), Satan 
(tr.67), quỉ Alala/quỉ Calala (tr.106), 
Đức thánh Michael (tr.66), ông Adam 
(tr.74), bà Eva (tr.78), bà Sara (tr.125), 
ông Noe (tr.78), ông Abel (tr.94), 
thằng Cain (tr.94), ông Seth (tr.95), 
ông Henoch (tr.95), ông Mathasula, 
Sem/Cam/Japhet (tr.102), Abraham/ 
Isaac (tr.103), David (tr.125), ông 
Joanchim/bà Anna (tr.144), ông 
Joseph (tr.146), bà Elisabeth/ông 
Zacharia/thánh Joan (tr.156), vua 
Augustus Caesar/trấn thủ Cyrino/vua 
Octaviano Augusto/ông Simeon 
(tr.173), ông Moyses (tr.178)/ông 
Pedro (tr.182), đức Chúa Jesu/đức 
Chúa Bà Maria (tr.133), thánh 
Augustinus, Emmanuel (tr.148), đức 
thánh Grabiel (tr.148), Christo/Jesu 
Christo (tr.152), Christum Domini (tr.173). 
Từ chỉ địa danh: 
Armenia (tr.99), Sennaar (tr.102), 
Babilon (tr.102), nước Judaea (tr.104), 
nước India (tr.105), thành Nazareth 
(tr.147), nước Roma, xứ Siria, xứ 
Galilêa, Bethleem (tr.159), thành 
Hierusalem (tr.164), nước Israel 
(tr.173), thành Nain (tr.186). 
 Một số danh từ khác: 
Cây oliva (tr.100), chất Myrrha (mộc 
dược) (tr.165), Coena (phòng tiệc ly) 
(tr.252), Argenteus (tr.209) (tiền Do 
Thái). 
Trước hết, sự du nhập của các danh 
từ chỉ tên gọi (nhân danh hay địa danh) 
phản ánh sự mở rộng phạm vi giao 
lưu của văn hóa bản địa với văn hóa 
của các vùng miền xa xôi khác. Nhìn 
lại những văn bản thịnh hành hiện nay 
cũng viết về những tên gọi này, có thể 
thấy việc du nhập các danh từ loại này 
diễn ra khá dễ dàng. Sau khi du nhập, 
sự hoạt động của nó trong hệ thống 
ngữ vựng mới cũng khá ổn định, ít 
thay đổi, chỉ có một số rất ít những từ 
mà lúc ban đầu gọi chưa chính xác về 
sau được điều chỉnh lại cho đúng. Bên 
cạnh đó, sự gia tăng các danh từ 
nhân danh hay địa danh nước ngoài 
trong hệ thống ngữ vựng, ở chừng 
mực nào đó cũng cho thấy sự gia tăng 
kiến thức về dân tộc học, địa lý học, 
lịch sử... Trong Phép giảng tám ngày, 
các danh từ nhân danh hay địa danh 
phần lớn có nguồn gốc từ Kinh thánh, 
chúng gắn liền với một câu chuyện 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
53 
hay một nội dung nào đó của Kinh 
thánh. Vì vậy, các danh từ này hoạt 
động trong hệ thống ngữ vựng tiếng 
Việt với tính chất danh từ chỉ điển cố, 
tương tự như danh từ chỉ điển cố 
tiếng Hán. 
Ngoài ra, vì Kinh thánh có nội dung 
tôn giáo - thần học nên các danh từ 
nhân danh hay địa danh cũng có 
những ý nghĩa biểu tượng, diễn đạt 
các khái niệm về tôn giáo và thần học, 
do đó các danh từ này cũng tham gia 
vào cấu trúc văn bản Việt ngữ như là 
những danh từ chỉ khái niệm. Ví dụ 
như: ông Adam, bà Eva, sự tạo dựng 
nhân loại và tội nguyên tổ/ông 
Abraham, lòng tin mạnh mẽ, tuyệt đối/ 
ông Joan, sự tiền hô, sự loan báo về 
đấng cứu thế/Bethleem, miền đất an 
lành/Hierusalem, thánh đô vinh quang, 
thánh đô muôn đời/Nazareth, không 
gian của một gia đình hạnh phúc... Sự 
du nhập các danh từ chỉ khái niệm có 
ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát 
triển hệ thống ngữ vựng bản địa. Đây 
là một trong những phương thức chủ 
yếu nhất làm thay đổi hệ thống ngữ 
vựng, kiến tạo nên những danh từ 
mới diễn đạt những quan niệm mới, tri 
thức mới. Vì là danh từ chỉ khái niệm 
có tính trừu tượng cao, và là quan 
niệm của một hệ thống văn hóa khác, 
nên ban đầu chúng cũng rất xa lạ. Khi 
các từ này du nhập vào hệ thống ngữ 
vựng tiếng Việt và tham gia cấu tạo 
văn bản Việt, chúng có hình thức chữ 
viết và âm đọc hoàn toàn như trong 
ngôn ngữ nguồn. Các ý nghĩa của nó 
được diễn giải dần dần bằng các ngữ 
danh từ thường là có cấu trúc dài 
dòng, cách diễn giải phong phú và tùy 
thuộc vào văn cảnh. Sau đó, qua quá 
trình sử dụng lâu dài chúng mới được 
dịch sang Việt văn một cách cụ thể, cố 
định và gọn gàng. Việc dịch các danh 
từ khái niệm là rất khó khăn nên đến 
ngày nay vẫn có những danh từ chưa 
được dịch sang tiếng Việt một cách 
hoàn chỉnh. 
Đọc Phép giảng tám ngày, ta thấy có 
những câu cùng lúc xuất hiện nhiều 
danh từ khái niệm gốc Latinh như: “Vì 
vậy đức Chúa trời hóa ra loài thiên 
thần, gọi là angeli, chẳng có mình vóc 
gì, mà những thiêng liêng, lại chịu 
được nghĩa cùng đức Chúa trời, gọi là 
gratia, cùng chịu được glori là thấy 
mặt đức Chúa trời, cho được thông 
vui vẻ cùng đức Chúa trời” (tr.44). 
Câu trên cho thấy sự thâm nhập mạnh 
mẽ của danh từ khái niệm nước ngoài 
vào hệ thống ngữ vựng và cấu trúc 
câu tiếng Việt, bắt đầu từ chữ quốc 
ngữ, chuyển tải vào đó những khái 
niệm mới. Ở đây vấn đề đặt ra là 
bằng phương thức nào các danh từ 
đó “tỏ lộ” ý nghĩa của nó trong cấu 
trúc văn bản Việt? Phương thức đầu 
tiên và đơn giản nhất là danh từ nước 
ngoài B tham gia vào cấu trúc lỏng và 
gián tiếp : “A + gọi là B” hay cấu trúc: 
“B + là A”, trong đó A là một ngữ hay 
là một mệnh đề làm chức năng diễn 
giải cho B. Hầu hết các danh từ khái 
niệm nước ngoài lần đầu tiên tham gia 
vào cấu trúc văn bản Việt đều theo 
phương thức này. Như câu chúng tôi 
trích dẫn ở trên là câu trong đó cả ba 
từ angeli, gratia, glori cùng lúc xuất 
hiện lần đầu tiên, và được định nghĩa 
HUỲNH VĨNH PHÚC – SỰ CHUYỂN BIẾN BƯỚC ĐẦU TỪ„ 
54
ở trong cấu trúc “A + gọi là B”, “B + là 
A”. Tuy nhiên, phương thức này chưa 
lột tả được hết ý nghĩa của B, do đó 
trong những lần xuất hiện kế tiếp B sẽ 
tham gia vào cấu trúc chặt và trực tiếp: 
“a’ + B” hay cấu trúc: “a’ + a” + B”, 
trong đó a’ và a” là từ kết hợp trực tiếp 
với B làm chức năng bổ nghĩa cho B, 
làm sáng tỏ hơn các hàm nghĩa của B. 
Sau đây chúng tôi khảo sát các ví dụ 
về trường hợp từ gratia để minh họa: 
1) “„ huống chi là tính gratia là loài 
trọng gần đức Chúa trời, bởi lòng từ bi 
đức Chúa trời thương vô cùng, mà 
đem ta lên loài tính đức Chúa trời gọi 
là gratia” (tr.54). 
2) “Vì chưng nếu đức Chúa trời chẳng 
cho ta sức riêng, mà ta chịu lấy phép 
gratia (làm cho linh hồn ta nên thánh) 
chẳng được; lại giữ gratia, là nghĩa 
cùng đức Chúa trời, cho đến lọn đời, 
mà đức Chúa chẳng phù hộ ta liên, thì 
chẳng được đâu” (tr.55). 
3) “Khi ấy có chịu sáng biết và nhân 
đức bản sức mình, từ đầu hết khi 
được linh hồn cho sống. Mà lại đức 
Chúa trời đem người lên cho được 
chức gratia, là kết nghĩa cùng đức 
Chúa Cha, cùng cho phúc đức nhiều 
trên sức mình, cho được chịu phúc vô 
cùng vui vẻ đời đời, cùng đức thánh 
thiên thần” (tr.73). 
4) “Mà sự chết ấy, thì phải hay nhất về 
sự linh hồn chẳng hay chết, mà phải 
chết là mất gratia, mất nghĩa cùng đức 
Chúa trời đã cho đầu hết, là sống thật 
linh hồn” (tr.75). 
5) “Mà vậy kẻ muốn chịu đạo dọn 
mình cho được chịu gratia, là nghĩa 
cùng đức Chúa trời, trong phép rửa 
tội” (tr.307) 
Qua 5 câu trên ta thấy cấu trúc lỏng 
và gián tiếp vẫn được sử dụng để 
diễn giải về ý nghĩa của gratia, và qua 
đó gratia được bổ sung các nét nghĩa 
mới. Đồng thời các từ tính, phép, 
chức và các từ chịu, chịu lấy, giữ, 
được, mất trực tiếp kết hợp và bổ 
nghĩa cho gratia, nêu lên 3 hàm nghĩa 
của gratia và các cách thức quan hệ 
giữa gratia và con người: Gratia là 
một tính, một phép, một chức, và con 
người có thể chịu, chịu lấy, giữ, được 
hay mất gratia. 
Gratia là một khái niệm quan trọng, 
nên từ khi xuất hiện lần đầu tiên ở 
trang 44 cho đến khi xuất hiện lần cuối 
cùng ở trang 307 gần cuối cuốn sách, 
từ gratia thường xuyên xuất hiện và 
luôn được định nghĩa bằng công thức 
chúng tôi đã nêu trên. Tuy nhiên, cho 
đến lần xuất hiện cuối cùng từ gratia 
vẫn giữ nguyên hình thức Latinh của 
nó như lần xuất hiện ban đầu. Điều 
này có nghĩa là, tác giả Phép giảng 
tám ngày, linh mục Alexandre De 
Rhodes, mặc dù đã cố gắng diễn giải 
ý nghĩa của khái niệm gartia, nhưng 
ông vẫn chưa tìm được một từ thích 
hợp, tương đương trong ngữ vựng 
tiếng Việt để chuyển dịch. Chúng tôi 
không rõ từ gratia được dịch sang 
tiếng Việt từ khi nào, nhưng theo 
Thuật ngữ thần học của Học Viện 
Đaminh – Gò Vấp thì từ gratia được 
dịch là: Ân sủng, ân huệ, hồng ân, ơn; 
và được diễn giải gồm 6 nét nghĩa. 
Trong 6 nét nghĩa này, chúng tôi nhận 
thấy có ít nhất 4 nét nghĩa đã được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
55 
diễn giải trong Phép giảng tám ngày, 
đó là: 1) Ơn bất tạo (Uncreated grace); 
2) Ơn thụ tạo (Created grace); 3) Ơn 
thường sủng (Habitual grace). 4) Ơn 
hiện sủng (Actual grace) (Học viện 
Đaminh, 2014, tr. 149). Qua so sánh 
này, chúng tôi không nhằm nêu lên 
vấn đề nội dung và ý nghĩa thần học 
của từ gratia đã được tiếp nhận như 
thế nào, mà muốn nhấn mạnh đến 
khả năng diễn đạt cao của chữ quốc 
ngữ ngay từ khi nó mới khai sinh. 
Thêm nữa, chúng tôi muốn lưu ý việc 
du nhập các danh từ khái niệm nước 
ngoài và những cố gắng diễn giải nó 
đã rèn luyện khả năng biểu đạt của 
tiếng Việt. 
1.2. Như trên chúng ta thấy linh mục 
Alexandre De Rhodes đã không dịch 
được từ gratia cũng như nhiều từ 
khác nữa sang tiếng Việt, nhưng cũng 
có nhiều từ được ông dịch sang tiếng 
Việt bằng cách đặc biệt là dùng những 
từ “bình dân” trong ngữ vựng tiếng 
Việt. Các từ về chủ đề thần học thờ 
phượng latria, dulia và hyperdulia 
cùng xuất hiện lần đầu ở trang 285), 
ngay tại đây linh mục Alexandre De 
Rhodes đã dịch từ latria là “phép thờ 
nhất”, và diễn giải đây là phép thờ 
dành cho đức Chúa trời, từ dulia là 
“phép hạ”, và diễn giải đây là phép thờ 
dành cho các thánh, riêng từ 
hyperdulia thì ông không dịch mà 
dùng cấu trúc “A+gọi là B, là C” để 
diễn giải đây là phép thờ đức Mẹ, 
phép thờ dưới phép thờ đức chúa trời 
nhưng trên phép thờ các thánh. Ngày 
nay, các từ này được Thuật ngữ thần 
học dịch là: 
1) Latria: Sự thờ phượng, tôn thờ, 
việc tôn thờ dành riêng cho Thiên 
Chúa (adoration) 
2) Dulia (HL): tôn kính, tôn sùng 
(veneration), việc tôn kính dành cho 
các thánh 
3) Hyperdulia: Biệt kính, thuật ngữ tỏ 
lòng sùng kính đặc biệt đối với Đức 
Maria 
Chúng ta thấy cách dịch của Thuật 
ngữ thần học là dùng các từ “thờ”, 
“kính”, “sùng” để phân định các cấp 
bậc, cách dịch này có thể “hay” hơn 
cách dịch của Phép giảng tám ngày; 
và ngày nay các từ “tôn thờ”, “tôn 
kính”, “tôn sùng” được dùng phổ biến 
trong các văn bản của Công giáo, 
trong khi đó “phép thờ nhất”, “phép 
hạ” không còn được sử dụng. Tuy 
nhiên, trong cách dịch của Alexandre 
De Rhodes có hai điểm ngôn ngữ 
đáng chú ý: 1) Alexandre De Rhodes 
dùng cấu trúc “nhất - hạ” để phân định 
cấp bậc mà không dùng cấu trúc 
“thượng - hạ”; 2) Các từ nhất, hạ là 
những từ rất “bình dân” đã được sử 
dụng để diễn đạt khái niệm thần học. 
Về điểm thứ nhất, chữ “nhất” trong 
ngôn ngữ hằng ngày chỉ số đầu tiên 
trong hệ thống số đếm, và trong ngôn 
ngữ triết học nó có các hàm nghĩa 
hình nhi thượng như chỉ về đạo, chỉ 
về nguồn gốc khai thủy của vạn vật 
(Vĩ Chính Thông, 2009, tr. 1-3) và 
chính trên nền tảng ý nghĩa đó, từ 
nhất được Alexandre De Rhodes 
dùng để nói về đức Chúa trời. Như 
vậy, cấu trúc “nhất - hạ” của Phép 
giảng tám ngày không chỉ là cấu trúc 
HUỲNH VĨNH PHÚC – SỰ CHUYỂN BIẾN BƯỚC ĐẦU TỪ„ 
56
ngôn ngữ mà còn là cấu trúc văn hóa 
phản ánh sự hội nhập với văn hóa 
dân tộc ngay trong những ngày đầu 
của Kitô giáo. Về điểm thứ 2), có thể 
nói đây là phương cách được 
Alexandre De Rhodes đặc biệt sử 
dụng để tạo nên từ ngữ có tính khái 
niệm như các từ: “một cả” , “người cả”, 
“nhất thật”/“thật nhất”. Từ “thật 
nhất”/“nhất thật” xuất hiện ở các trang 
53, 280, 307 nhằm diễn đạt khái niệm 
đức Chúa trời là đấng chân thật, 
quyền năng vô biên, biết rõ mọi sự 
nên không ai có thể lừa dối được 
Chúa trời, và vì Chúa trời là đấng rất 
trung tín nên không bao giờ lừa dối ai: 
“Vì chưng đức Chúa trời là thật nhất, 
mà chẳng có ai dối được đấy, vì đã 
biết hết, dù mà chưa có; lại đức Chúa 
trời dối ai chẳng được, vì là rất lành” 
(tr.280-281). Nếu so sánh với các 
danh từ thần học High Christology 
(Kitô học từ cao, đặt nền tảng trên 
thiên tính của Chúa Kitô) và Low 
Christology (Kitô hạ khởi, đặt nền tảng 
trên nhân tính của Chúa Kitô), ta thấy 
“high” và “low” cũng là hai từ rất “bình 
dân” củ ...  và lưu loát, mà còn là một 
phương pháp tạo từ rất có ý nghĩa về 
mặt học thuật. Về sau, chúng ta thấy 
Gia Định báo đã tiếp nối sử dụng 
phương pháp này để tạo ra từ mới 
trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã 
hội. Ví dụ: Nhà nước, lời nghị, giấy 
thuế, sổ thâu, phép tiện nghi, lệ phép 
riêng, quyền làm đầu,„ 
2. SỰ HÌNH THÀNH LỚP TỪ VỰNG 
MỚI CÓ TÍNH ĐẶC THÙ, CHUYÊN 
BIỆT, HỆ THỐNG VÀ HỌC THUẬT 
Kitô giáo là tư tưởng đến từ một nền 
văn hóa khác nên cần một hệ thống từ 
vựng mới để diễn đạt các quan niệm 
và tư tưởng mới. Phép giảng tám 
ngày trình bày nhiều chủ đề thần học 
Kitô giáo, trong đó có những chủ đề 
rất gay cấn như: sự hiện hữu của đức 
Chúa trời và sự sáng tạo vũ trụ; đức 
Chúa trời ba ngôi; sự tự do lựa chọn 
hành vi của con người. Đọc Phép 
giảng tám ngày, chúng tôi nhận thấy 
linh mục Alexandre De Rhodes là nhà 
truyền giáo có tài hùng biện. Ông đã 
sử dụng một cách thành thạo, lưu loát 
và dễ dàng ngôn ngữ Việt để trình bày 
một cách sáng rõ, mạch lạc các chủ 
đề thần học Kitô. Trong khi dùng ngôn 
ngữ Việt để thuyết giảng về đạo Kitô 
ông đã tạo ra một hệ thống từ vựng 
đặc thù và chuyên biệt để diễn đạt tư 
tưởng thần học Kitô. Và có lẽ đây là 
lần đầu tiên trong lịch sử ngôn ngữ, 
lịch sử văn hóa, hệ thống ngữ vựng 
tiếng Việt đã xuất hiện một lớp từ 
vựng có tính hệ thống và tính học 
thuật về một lĩnh vực tư tưởng và tri 
thức mới. 
Phép giảng tám ngày đã tạo ra một 
lớp ngôn ngữ riêng của một cộng 
đồng xã hội-tôn giáo. Các từ vị tiếng 
Việt trong cấu trúc ngôn ngữ - văn hóa 
mới đã mang những ý nghĩa rất riêng. 
Ví dụ như: “Lời vô cùng” (tr.138)/ “Lời 
đức Chúa trời hằng có vậy” (tr.138); 
con chiên rất lành (tr.218)/ con chiên 
rất hiền (tr.220)/ con chiên con (tr.225). 
Ý nghĩa của những từ này là chỉ Ngôi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
57 
Hai Thiên Chúa, một ngôi vị trong ba 
ngôi Thiên Chúa của Kitô giáo. 
Trong ngôn ngữ - văn hóa Việt, từ vị 
“lời” có một số cấu trúc như: 
- Lời Hoa phong (lời chúc tụng tốt 
lành): 
Non nam làu chúc tuổi trời, 
Dâng câu Thiên bảo bày lời Hoa 
phong. 
- Lời kim ngọc (lời hẹn hò gắn bó bền 
vững): 
Đương khi lở nhịp cầu Lam, 
Mừng lời kim ngọc kể làm trọng thay. 
- Lời non nước (lời thề bền chặt của 
trai gái): 
Tóc thề đã chấm ngang vai, 
Nào lời non nước nào lời sắt son. 
- Lời phàm (lời nói của người đời) 
Lời phàm thấu cửu trùng thiên, 
Hỏi qua Vương Mẫu sự duyên thế nào 
(Nguyễn Thạch Giang, 2000, tr. 781-
782). 
Và từ vị “chiên” có một số cấu trúc sau: 
Ăn chiên (ăn giống chư con chiên): Ăn 
chiên chẳng quản đói cùng no; áo 
chiên (áo làm bằng lông con chiên): 
Đông sang tuyết đợm áo chiên 
(Nguyễn Quang Hồng, 2006, tr. 142)... 
Tra cứu các tự điển chữ Nôm, chúng 
tôi nhận thấy từ vị “lời” trong mọi kết 
hợp từ tổ đều có ý nghĩa là lời nói, và 
từ “chiên” cũng đều có ý nghĩa là một 
loại động vật. Như vậy, từ vị “lời” và từ 
vị “chiên” trong văn cảnh ngôn ngữ - 
văn hóa Kitô giáo đã có một ý nghĩa 
rất riêng và chuyên biệt, hoàn toàn 
khác hẳn; và sự chuyên biệt này đã 
làm phong phú thêm sự diễn đạt của 
tiếng Việt. 
Đọc Phép giảng tám ngày, chúng tôi 
nhận thấy có một hệ thống rất phong 
phú những từ ngữ có ý nghĩa chuyên 
biệt như vậy: sinh thì (tr.231), rửa tội 
(tr.248/307), một cả (tr.14), người cả 
(tr.150/284), sáng thiêng (tr.59), sáng 
biết (tr.64), sáng bề trên (tr.134), sáng 
gloria (tr.142), trời mới và đất mới 
(tr.267), hình tượng thiêng liêng 
(tr.298), đền vui vẻ (tr.59), vườn tốt 
lành (tr.71), tòa vui vẻ trên trời/ tòa 
cực trọng cực vui (tr.82), con mắt linh 
hồn (tr.233), con mắt thiêng liêng 
(tr.26), con mắt thịt (tr.27), tính có 
cùng / tính vô cùng (tr.43), ra không 
(tr.37), về không (tr.40), có chủ ý mình 
và có sáng biết (tr.64), phép trí/phép 
có chủ ý mình (tr.118), phú quí vô 
cùng (tr.160), phúc thương xót 
(tr.93)„ 
Vậy hệ thống từ vựng chuyên biệt này 
đã được Alexandre De Rhodes tạo lập 
theo phương thức nào? Theo chúng 
tôi, hệ thống từ vựng này đã được tạo 
lập bằng phương thức Chuyển dịch và 
mở rộng nghĩa từ. Các từ sáng thiêng, 
sáng biết, sáng bề trên, sáng gloria 
hay các từ con mắt linh hồn, con mắt 
thiêng liêng, con mắt thịt như chúng 
tôi đã liệt kê ở trên cũng đã cho chúng 
ta thấy có một sự chuyển dịch và mở 
rộng nghĩa từ để diễn đạt các ý niệm 
mới về “sáng” và “con mắt”. Và bằng 
phương thức chuyển dịch và mở rộng 
nghĩa từ như trên, Alexandre De 
Rhodes đã đem các từ bình dân trong 
ngữ vựng tiếng Việt đặt vào trong cấu 
trúc ngôn ngữ mới và biến các từ đó 
HUỲNH VĨNH PHÚC – SỰ CHUYỂN BIẾN BƯỚC ĐẦU TỪ„ 
58
trở thành từ chỉ khái niệm của một 
nền văn hóa mới. Xét trên phương 
diện ngôn ngữ - văn hóa, phương 
thức này rất có ý nghĩa vì nó đã “kích 
hoạt sự hoạt động” hay “gia tăng hoạt 
tính” của hệ thống ngữ vựng tiếng Việt. 
Sau đây chúng tôi xin đơn cử các ví 
dụ cho thấy sự kết hợp phong phú và 
linh hoạt của các từ “cả”, “vô cùng”, 
“cội rễ” trong cấu trúc ngôn ngữ mới: 
- Từ “cả”: Đức Thợ cả (tr.34)/ (tr.39), 
Chúa cả (tr.60), Thầy cả (tr.179), Cha 
cả (tr.296). 
- Từ “vô cùng”: Phép vô cùng (tr.33), 
sự vô cùng (tr.36), phép tắc vô cùng 
(tr.37), hay biết vô cùng (tr.42), tính 
thiêng liêng vô cùng (tr.42), vui vẻ 
thanh nhàn vô cùng (tr.43), tính vô 
cùng (tr.44), công bằng vô cùng (tr.50, 
chết vô cùng (tr.50), lửa vô cùng 
(tr.273), hằng bền vững vô cùng 
(tr.65). 
- Từ “cội rễ”: cội rễ (tr.28), cội rễ đầu 
(tr.38), cội rễ đầu mọi phép (tr.41), cội 
rễ đầu mọi sự sống (tr.215), cội rễ mọi 
sự lành (tr.270). 
Ngoài việc tạo ra một ý nghĩa hoàn 
toàn mới, tính chuyên biệt còn được 
thể hiện trong phong cách ngôn ngữ 
hay tập quán ngôn ngữ. Phép giảng 
tám ngày đã tạo ra phong cách ngôn 
ngữ/ tập quán ngôn ngữ của người 
Kitô giáo, phong cách và tập quán 
ngôn ngữ đó ngày nay vẫn còn được 
thể hiện trong các văn bản của giáo 
hội Công giáo. Ví dụ như từ “khiêm 
nhường” và từ “sâu nhiệm” trong các 
văn bản hiện nay của Công giáo, xét 
về mặt ý nghĩa thì không khác lắm với 
ý nghĩa thông thường, nhưng xét về 
phong cách hay tập quán ngôn ngữ 
thì cho thấy có sự khác biệt hay 
chuyên biệt trong sự diễn đạt. Từ 
“khiêm nhường” trong văn thơ Nguyễn 
Trãi chúng ta thấy có các diễn đạt: 
Ngõ ốc nhường khiêm là mỹ 
đức/Khiêm nhường ấy mới biều quân 
tử (Nguyễn Quang Hồng, 2006, tr. 
531). So sánh với Phép giảng tám 
ngày chúng ta thấy có các diễn đạt: 
Lòng khiêm nhường (tr.54), khiêm 
nhường cầu tha (tr.57), khiêm nhường 
sâu lắm (tr.151), lạy xuống khiêm 
nhường (tr.163), khiêm nhường cầu 
khẩn (tr.167), sự lạ trong việc khiêm 
nhường và trong việc chịu lụy (tr.171), 
chớ chê chớ tránh việc khiêm nhường 
(tr.175), khiêm nhường xưng mình là 
dại dột (tr.200), rất khiêm nhường và 
rất thật (tr.213). Với từ “sâu nhiệm”, 
chúng tôi không tra thấy từ này trong 
tự điển chữ Nôm, nhưng tra các vị từ 
sâu và nhiệm thì chúng tôi thấy có một 
số kết hợp diễn đạt như sau: Dễ hay 
ruột bể sâu cạn/ Gốc dữ đã sâu mống 
họa hầu dấy/ Nghĩa sâu đành trả ơn 
sâu/ Tưới ra đã khắp thấm vào đã sâu 
v.v. Nhiệm màu túi gấm đủ trăm điều/ 
Thần cơ bất trắc trí toan nhiệm màu/ 
Ấy là cơ tạo nhiệm màu v.v. (Nguyễn 
Quang Hồng, 2006, tr. 813, 1007). 
Trong Phép giảng tám ngày có các 
diễn đạt sau: Công bằng và sâu nhiệm 
(tr.50, có ý sâu nhiệm (tr.67), sự sâu 
nhiệm (tr.124), rất sâu nhiệm cùng rất 
cao (tr.133), điều chẳng cùng và rất 
sâu nhiệm (tr.142), sâu nhiệm ta suy 
chẳng đến (tr.142), chẳng thông sự 
sâu nhiệm ấy (tr.157), nói ra sự sâu 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
59 
nhiệm ấy (tr.158), sự sâu nhiệm một 
đức Chúa trời ba ngôi (tr.170, lời khôn 
ngoan sâu nhiệm (tr.174). 
Ngoài tính đặc thù và chuyên biệt, đặc 
điểm quan trọng và có nhiều ý nghĩa 
hơn của hệ thống ngữ vựng tiếng Việt 
trong Phép giảng tám ngày đó là tính 
hệ thống và tính học thuật. Ở đây 
chúng tôi không đi sâu vào lĩnh vực 
tôn giáo và thần học, chỉ xin giới thiệu 
một số từ ngữ thần học Kitô trích 
trong Phép giảng tám ngày để cho 
thấy trong chừng mực nào đó tính hệ 
thống và tính học thuật trong văn bản. 
Điều này có ý nghĩa là bởi lớp từ vựng 
có tính hệ thống và tính học thuật luôn 
luôn là cơ sở cho sự phát triển của 
văn hóa, văn học, khoa học của một 
quốc gia, dân tộc. 
1) Thần học về Thiên Chúa: Chúa trời, 
Chúa cả, Chúa trời đất, đức Cha 
(tr.137), đức con (tr.137), Lời vô cùng 
(tr.138), Con người (tr.267), Đức 
Spirito Sancto (tr.137), một đức Chúa 
trời ba ngôi (tr.170), Đức Thợ cả 
(tr.34)/(tr.39), Chúa cả (tr.60), Thày cả 
(tr.179), Cha cả/ Chúa cả (tr.296), 
hằng có (tr.184), hằng sống (tr.207), 
rất thánh và rất trọng (tr.146), cực 
trọng (tr.63), cực trọng và rất sáng 
láng (tr.64), hằng có (tr.236), nhân 
lành (tr.148), lòng lành đức Chúa trời 
(tr.43), lòng lành vô cùng (tr.46), công 
bằng vô cùng (tr.137). 
2) Thần học về sự cứu rỗi và thần học 
về giáo hội: cứu thế (tr.126), chuộc tội, 
(tr.145), rửa tội (tr.248/307), tin lành 
(tr.145), được rỗi (tr.234), phép lạ 
(tr.154), sự thánh (tr.190, đạo Chúa, 
đạo thánh đức Chúa trời, đạo thật, lẽ 
thật (chân lý về chúa trời), thánh 
Ecclesia Catholica (tr.135). 
3) Thần học về thiên đàng: đền vui vẻ 
(tr.59), vườn tốt lành (tr.71), tòa vui vẻ 
trên trời/ tòa cực trọng cực vui (tr.82), 
nơi vui vẻ thanh nhàn (tr.241), vui vẻ 
thanh nhàn (tr.154), an hòa (tr.163), 
vui mừng (tr.208), vui vẻ vô cùng 
(tr.46), hằng sống vui vẻ (tr.283), phúc 
vui vẻ đời đời ở trên trời (tr.47). 
4) Thần học về ngày cánh chung: tận 
thế (tr.215), phán xét (tr.68), ngày 
phán xét (tr.256), chịu phán xét chung 
(tr.262), phạt (tr.69), chịu hình khốn 
nạn/phải chết vô cùng (tr.155), lửa giải 
tội (tr.239), chết vô cùng (tr.171), địa 
ngục (tr.171), chịu hình khốn nạn đời 
đời (tr.46), thưởng phạt vô cùng 
(tr.47). 
5) Thần học về Đức Maria: Mẹ đức 
Chúa trời (tr.145), đồng thân (tr.145), 
rất thánh đức Chúa Bà Maria (tr.146), 
trọn đời đồng thân (tr.146), đồng thân 
sạch sẽ (tr.147), rất thánh đồng thân 
(tr.147), đồng thân chịu thai (tr.148), 
phúc lạ (tr.150). 
6) Thần học về đời sống Kitô hữu: cậy 
(tr.52), trông cậy (tr.55), cầu khẩn 
(tr.145), cầu và cậy (tr.114), lòng tin 
(tr.280), bởi lòng tin (tr.281), trông cậy 
(tr.282), lòng tin (tr.186), tin kính 
(tr.204), phải lạy mà thờ, phải kính, 
phải suy lẽ (tr.50), cám ơn (tr.56), ái 
mộ (tr.56), kính mến (tr.56), khen ngợi 
(tr.63), lòng yêu thật (tr.56), thật kính 
mến (tr.56), khiêm nhường (tr.145), 
vâng lời (tr.151), vâng ý đức Chúa trời 
(tr.46), vâng phép đức chúa trời 
(tr.47)/ cãi phép đức Chúa trời (tr.46), 
HUỲNH VĨNH PHÚC – SỰ CHUYỂN BIẾN BƯỚC ĐẦU TỪ„ 
60
giữ lời răn (tr.47)/ chẳng giữ lời răn 
(tr.46), làm giương (tr.171)/ làm 
giương tốt lành (tr.172), làm chứng 
(tr.177), phải giục lòng (tr.56), chầu 
chực (tr.62), cám dỗ (Lucifer) (tr.67), 
sa cám dỗ (tr.86), phạm răn (tr.88), 
phạm tội (tr.148), lỗi nghĩa (tr.155), 
dọn mình (tr.306), lo buồn ăn năn 
(tr.317), lo buồn (tr.57), ăn năn tội 
(tr.57), giải tội (tr.93), tội tổ tông (tr.170), 
chịu lụy đức Chúa trời cho lọn (tr.60). 
3. KẾT LUẬN 
Phát triển là hiện đại hóa. Hiện đại 
hóa là sự chuyển dịch, sự biến đổi 
của truyền thống để thích ứng với bối 
cảnh mới. Vì vậy, quan sát tiến trình 
hiện đại hóa chính là quan sát sự 
chuyển động của truyền thống. Trên 
cơ sở lý luận đó, nghiên cứu văn học 
Hán Nôm Nam Bộ trong góc nhìn liên 
hệ giữa ba yếu tố truyền thống, giao 
lưu và phát triển cho thấy: Dưới sự 
tác động của 3 yếu tố trên - đặc biệt là 
trong mối liên hệ với phương Tây - 
tiến trình hiện đại hóa văn học Việt 
Nam nói chung và văn học Nam Bộ 
nói riêng chính là quá trình chuyển 
biến từ văn học Hán Nôm sang văn 
học chữ quốc ngữ. Và giai đoạn 
chuyển biến từ hệ thống ngữ vựng 
Hán-Nôm sang hệ thống ngữ vựng 
chữ quốc ngữ là giai đoạn mở đầu 
cho tiến trình này, tạo tiền đề cho 2 
giai đoạn tiếp theo là giai đoạn hình 
thành và phát triển của câu văn xuôi 
quốc ngữ và giai đoạn phát triển các 
thể loại văn học. 
Trong văn học Hán Nôm truyền thống, 
hai hệ thống ngữ vựng tiếng Hán (viết 
bằng chữ Hán, đọc bằng âm Việt) và 
hệ thống ngữ vựng tiếng Việt (hay 
ngữ vựng Nôm, viết bằng chữ Nôm) 
tồn tại song song và tương đối độc lập 
với nhau. Vì thế, dưới góc độ ngữ 
vựng, văn học Hán Nôm có ba bộ 
phận hay là ba hình thức văn bản văn 
học khác nhau: 1) Văn bản văn học 
thuần túy ngữ vựng Hán, hoàn toàn 
không có sự tham gia cấu tạo văn bản 
của yếu tố ngữ vựng Nôm; 2) Văn bản 
văn học thuần túy ngữ vựng Nôm, 
hoàn toàn không có sự tham gia cấu 
tạo văn bản của yếu tố ngữ vựng Hán; 
3) Văn bản văn học kết hợp ngữ vựng 
Nôm-Hán, yếu tố ngữ vựng Nôm giữ 
vị trí chủ yếu trong việc cấu tạo văn 
bản, yếu tố ngữ vựng Hán tham gia 
cấu tạo văn bản trong một mức độ và 
phạm vi giới hạn. Sở dĩ hai hệ thống 
ngữ vựng Hán và Nôm tồn tại song 
song và tương đối độc lập với nhau là 
vì, ngoài yếu tố ngữ pháp, hai hệ 
thống đó được ghi chép bởi hai loại ký 
tự khác nhau. Sau này, trong mối giao 
lưu với phương Tây, ký tự Latinh 
được du nhập và trở thành phương 
tiện có thể ghi chép cả ngữ vựng Nôm 
lẫn ngữ vựng Hán, và nhờ đó có tác 
dụng thống nhất ngữ vựng Nôm và 
ngữ vựng Hán thành một hệ thống 
ngữ vựng duy nhất. Trong các văn 
bản tiếng Việt được ghi chép bởi ký tự 
Latinh, các yếu tố ngữ vựng Nôm và 
Hán có vị trí đồng đẳng và kết hợp với 
nhau rất hài hòa trong chức năng cấu 
tạo văn bản. Sự kết hợp giữa hai hệ 
thống ngữ vựng Hán và ngữ vựng 
Nôm đã tạo thành hệ thống ngữ vựng 
chữ quốc ngữ. Điều này có ý nghĩa rất 
sâu sắc về mặt văn hóa và tạo điều 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
61 
kiện cho sự phát triển của văn học 
Việt Nam. Ngữ vựng là yếu tố ở bình 
diện “chìm” có chức năng cấu trúc nên 
những bình diện “nổi” của văn học 
như tác phẩm, thể loại, đề tài, tư 
tưởng„ Nó cung cấp những tiền đề, 
những điều kiện cần thiết để văn học 
truyền thống được hiện đại hóa về 
hình thức văn học (thể loại) và nội 
dung (tư tưởng, đề tài văn học). Và 
như vậy, sự chuyển biến từ hệ thống 
ngữ vựng Hán Nôm sang hệ thống 
ngữ vựng chữ quốc ngữ là bước khởi 
đầu làm nền tảng cho sự hiện đại hóa 
văn học, từ đó khai sinh một nền văn 
học mới: văn học chữ quốc ngữ.  
CHÚ THÍCH 
(1) Bản Phép giảng tám ngày theo lối viết và đọc chữ quốc ngữ hiện đại được Tinh Việt văn 
đoàn xuất bản năm 1961 tại Sài Gòn. Năm 1993 kỷ niệm 400 năm ngày sinh của Alexandre 
De Rhodes, Tủ sách Đại kết dựa trên bản của Tinh Việt văn đoàn, có một số điều chỉnh và 
xuất bản lại. Bài viết của chúng tôi là dựa vào bản năm 1993 của Tủ sách Đại Kết. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Học viện Đaminh. 2014. Thuật ngữ thần học. TPHCM: Nxb. Tôn giáo. 
2. Nguyễn Quang Hồng. 2006. Tự điển chữ Nôm. Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội: 
Nxb. Giáo dục. 
3. Nguyễn Thạch Giang. 2000. Từ điển văn học quốc âm. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông 
tin. 
4. Alexandre De Rhodes. 1993. Phép giảng tám ngày. TPHCM: Tủ sách Đại Kết xuất 
bản. 
5. Vĩ Chính Thông. 2009. Từ điển triết học Trung Quốc. Trung Quốc: Nxb. Cát Lâm. 

File đính kèm:

  • pdfsu_chuyen_bien_buoc_dau_tu_ngu_vung_han_nom_sang_ngu_vung_qu.pdf