Giáo trình Lịch sử các học thuyết pháp lý (Phần 2)
1. Khái quát chung
Nhà nước La Mã xuất hiện tương đối sớm và trải qua một thời kì phát triển lâu
dài. Lịch sử của La Mã cổ đại gắn liền với cuộc đấu tranh gay gắt giữa các tầng lớp xã
hội từ khi các quan hệ thị tộc bộ lạc bước vào giai đoạn tan rã hoàn toàn và sự hình
thành các quan hệ chiếm hữu nô lệ. Tư tưởng chính trị và pháp lý ở La Mã cổ đại được
hình thành trong điều kiện phát triển tột đỉnh của phương thức sản xuất chiếm hữu nô
lệ và sau đó là sự sụp đổ của nó. Các mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô đạt đến độ sâu
sắc nhất đồng thời diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các chủ đất lớn và nhỏ, các tộc
trưởng và thị dân về vấn đề ruộng đất, vấn đề quyền chính trị. K. Marx nhận xét rằng:
"Có thể hoàn toàn coi lịch sử bên trong của nước Cộng hòa La Mã là cuộc đấu tranh
của tiểu điền chủ với đại điền chủ, đương nhiên là dưới dạng thay đổi đặc biệt do chế
độ nô lệ tạo nên"1. Các mâu thuẫn xã hội sâu sắc càng trầm trọng thêm do có cuộc đấu
tranh trong nội bộ thượng tầng giai cấp thống trị - giữa quý tộc thị tộc và quý tộc công
nghiệp thương mại.
Trong tư tưởng thống trị của La Mã cổ đại, các vấn đề về nhà nước: Nguồn gốc,
thiết chế và hình thức của nó; các vấn đề về nô lệ; địa vị pháp lý của các tầng lớp khác
nhau của người tự do; việc bảo vệ sở hữu cá nhân. có vị trí quan trọng. Tư tưởng
chính trị - pháp lý của La Mã cổ đại có nhiều nét giống với Hi Lạp cổ đại, song so với
Hi Lạp, tư duy chính trị của La Mã nghèo nàn hơn nhiều. Theo một số tác giả thì sự
tiếp nhận các quan điểm của Plato và của Aristote của người La Mã rất non yếu và hạn
chế. Sở dĩ như vậy là vì những lý do sau:
Thứ nhất, người La Mã vốn có tinh thần thực tiễn nên nền cộng hòa đã sản sinh
ra những con người cầm quyền nhà nước, những cố vấn pháp lí, những nhà hùng biện,
những quân lính trung thành với các công việc thực tế và các bài học của họ, lo lắng
đến sự kiện hơn là quan tâm soạn thảo các lí thuyết.
Thứ hai, người La Mã rất năng động, lại chịu sự tác động của chiến tranh, bởi
những cuộc hội nghị chính trường và bởi việc theo đuổi những vinh dự đã làm cho họ
xa cách phương hướng nghiên cứu duy lí. Phạm vi lãnh thổ rộng là sản phẩm của
những cuộc chinh phục mà La Mã đã tiến hành trên thế giới cũng không thuận lợi cho
việc nghiên cứu lý luận.
Thứ ba, người La Mã có tính kiêu căng, họ tự tôn sùng họ quá mức nên họ chỉ
quan tâm đến lịch sử của riêng họ mà không quan tâm nghiên cứu các thiết chế của
của các dân tộc khác vì họ cho rằng đó chỉ là những dân tộc bị họ đánh bại hoặc phải
phụ thuộc vào họ nên không đáng tìm hiểu.
Tuy vậy, ở La Mã thời kì này cũng đã xuất hiện nhiều khuynh hướng tư tưởng
đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau như tư tưởng của những người nô lệ
khởi nghĩa, tư tưởng của nền dân chủ chiếm hữu nô lệ, tư tưởng của các luật gia La
Mã
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Lịch sử các học thuyết pháp lý (Phần 2)
63 Chương 4 TƯ TƯỞNG CHÍNH TRỊ LA MÃ CỔ ĐẠI 1. Khái quát chung Nhà nước La Mã xuất hiện tương đối sớm và trải qua một thời kì phát triển lâu dài. Lịch sử của La Mã cổ đại gắn liền với cuộc đấu tranh gay gắt giữa các tầng lớp xã hội từ khi các quan hệ thị tộc bộ lạc bước vào giai đoạn tan rã hoàn toàn và sự hình thành các quan hệ chiếm hữu nô lệ. Tư tưởng chính trị và pháp lý ở La Mã cổ đại được hình thành trong điều kiện phát triển tột đỉnh của phương thức sản xuất chiếm hữu nô lệ và sau đó là sự sụp đổ của nó. Các mâu thuẫn giữa nô lệ và chủ nô đạt đến độ sâu sắc nhất đồng thời diễn ra cuộc đấu tranh gay gắt giữa các chủ đất lớn và nhỏ, các tộc trưởng và thị dân về vấn đề ruộng đất, vấn đề quyền chính trị. K. Marx nhận xét rằng: "Có thể hoàn toàn coi lịch sử bên trong của nước Cộng hòa La Mã là cuộc đấu tranh của tiểu điền chủ với đại điền chủ, đương nhiên là dưới dạng thay đổi đặc biệt do chế độ nô lệ tạo nên"1. Các mâu thuẫn xã hội sâu sắc càng trầm trọng thêm do có cuộc đấu tranh trong nội bộ thượng tầng giai cấp thống trị - giữa quý tộc thị tộc và quý tộc công nghiệp thương mại. Trong tư tưởng thống trị của La Mã cổ đại, các vấn đề về nhà nước: Nguồn gốc, thiết chế và hình thức của nó; các vấn đề về nô lệ; địa vị pháp lý của các tầng lớp khác nhau của người tự do; việc bảo vệ sở hữu cá nhân... có vị trí quan trọng. Tư tưởng chính trị - pháp lý của La Mã cổ đại có nhiều nét giống với Hi Lạp cổ đại, song so với Hi Lạp, tư duy chính trị của La Mã nghèo nàn hơn nhiều. Theo một số tác giả thì sự tiếp nhận các quan điểm của Plato và của Aristote của người La Mã rất non yếu và hạn chế. Sở dĩ như vậy là vì những lý do sau: Thứ nhất, người La Mã vốn có tinh thần thực tiễn nên nền cộng hòa đã sản sinh ra những con người cầm quyền nhà nước, những cố vấn pháp lí, những nhà hùng biện, những quân lính trung thành với các công việc thực tế và các bài học của họ, lo lắng đến sự kiện hơn là quan tâm soạn thảo các lí thuyết. Thứ hai, người La Mã rất năng động, lại chịu sự tác động của chiến tranh, bởi những cuộc hội nghị chính trường và bởi việc theo đuổi những vinh dự đã làm cho họ xa cách phương hướng nghiên cứu duy lí. Phạm vi lãnh thổ rộng là sản phẩm của những cuộc chinh phục mà La Mã đã tiến hành trên thế giới cũng không thuận lợi cho việc nghiên cứu lý luận. Thứ ba, người La Mã có tính kiêu căng, họ tự tôn sùng họ quá mức nên họ chỉ 1 C.Mác v Ph. ngghen , To n t p, t p 28, Ti ng Nga, Nxb. Chính tr qu c gia, M.1962, tr. 238. 64 quan tâm đến lịch sử của riêng họ mà không quan tâm nghiên cứu các thiết chế của của các dân tộc khác vì họ cho rằng đó chỉ là những dân tộc bị họ đánh bại hoặc phải phụ thuộc vào họ nên không đáng tìm hiểu. Tuy vậy, ở La Mã thời kì này cũng đã xuất hiện nhiều khuynh hướng tư tưởng đại diện cho nhiều giai cấp, tầng lớp khác nhau như tư tưởng của những người nô lệ khởi nghĩa, tư tưởng của nền dân chủ chiếm hữu nô lệ, tư tưởng của các luật gia La Mã 2. Tư tưởng chính trị của Nô lệ khởi nghĩa Đồng thời với cuộc khởi nghĩa đầu tiên của các nô lệ ở Sicile đã nổ ra cuộc khởi nghĩa lớn ở Tiểu Á (132 - 129 tr.CN) dưới sự lãnh đạo của Aristonic, trong đó có tầng lớp nghèo khổ tự do và nô lệ tham gia. Aristonic hứa hẹn thành lập "nhà nước mặt trời" (ông vay mượn tư tưởng này từ tác phẩm không tưởng cùng tên của Yambun), nơi có sự ngự trị của tự do, bình đẳng và bác ái. Nói chung, các cuộc đấu tranh của những người nô lệ đã chỉ rõ mong muốn không gì lay chuyển nổi của họ là xóa bỏ áp bức và nô dịch. Đồng thời, mặc dù những người nô lệ đã không thể tạo nên hệ tư tưởng chính trị hài hòa, nhưng những phong trào của họ đã có ảnh hưởng to lớn đến sự phát triển tư tưởng và học thuyết chính trị được hình thành trong xã hội chiếm hữu nô lệ. 3. Tư tưởng chính trị của nền dân chủ Chiếm hữu Nô lệ Trong thời gian các đội quân lê dương La Mã chiến đấu chống những người nô lệ ở Sicile thì ở chính La Mã cũng không bình yên. Một phong trào dân chủ mạnh mẽ của nông dân phá sản đã được triển khai dựa trên cơ sở cuộc đấu tranh của những người tự do sản xuất nhỏ - tiểu nông với đại điền chủ. Người nông dân bị phá sản bắt đầu cuộc đấu tranh đòi phân chia điền địa, gắn cuộc đấu tranh này với đòi hỏi dân chủ hóa Nhà nước La Mã. Tư tưởng của Tiberi phần nhiều trùng hợp với những tư tưởng chính trị của nền dân chủ chiếm hữu nô lệ Hi Lạp, đã được em trai ông là Gai Grakho phát triển trong cuộc đấu tranh với Viện nguyên lão và đã góp phần tạo lập khối liên minh rộng lớn giữa nhân dân nông thôn và thành thị với các hiệp sĩ. Năm 123 TR.CN, khi được bầu làm người đứng đầu tòa án, Gai Grakho đã đưa ra một số dự luật quan trọng trong đó đáng lưu ý là dự luật giảm 50% giá bánh mì, dự luật cho phép người nghèo được đi xem ở nhà hát, dự luật về quyền được trả tô thuế bằng tiền áp dụng cho dân Tiểu Á, dự luật chuyển giao quyền xét xử trong Viện nguyên lão cho tầng lớp các hiệp sĩ... Ý nghĩa quan trọng của các dự luật trên (dù chúng chưa được thực hiện triệt để) là đã thể hiện đầy đủ tư tưởng pháp luật công bằng, phi bạo lực và nó đã có ảnh hưởng 65 lớn tới quá trình hoàn thiện nhà nước theo khuynh hướng dân chủ nảy sinh trong cuộc đấu tranh gay gắt giữa các thế lực chính trị đối kháng ở La Mã. Đặc biệt, ý nghĩa chính trị của đạo luật bánh mì do Gai đưa ra là ở chỗ: Nhà nước có trách nhiệm giúp đỡ về vật chất cho thị dân. Người ta nói rằng, sau khi đạo luật được thông qua, Gai đã nói: "Bằng một cú đánh, tôi đã tiêu diệt Viện nguyên lão"1. Anh em Grakho đã bảo vệ cả tư tưởng mở rộng các quyền của những người tự do nghèo khó, dân chủ hóa quân đội... Phong trào của anh em Grakho đã bị thất bại vì việc duy trì chế độ tiểu điền chủ cố hữu như là một trong những cơ sở của chế độ cộng hòa là không thể được. Sau khi đàn áp xong phong trào này, giới quý tộc đã được tăng cường và cuộc đấu tranh giai cấp ngày càng mạnh mẽ bởi vì với sự phát triển của đại điền chủ tư hữu, quyền chính trị của đa số công dân La Mã ngày càng bị cắt xén và mất dần. 4. Tư tưởng chính trị của Marc Tulli Cicero (106 -43tr.CN) Cicero vừa là nhà tư tưởng, vừa là nhà chính trị và nhà luật học. Các quan điểm chính trị của ông là sự trung hòa các quan điểm của Plato, Aristote và một số nhà tư tưởng khắc kỉ. Ông trực tiếp làm chính trị trong 25 năm, đã từng giữ các chức vụ như pháp quan, quản lí viên thị chính, quan án đô thị, Chấp chính viên tối cao, Tổng đốc Sicile. Giữa những năm 70 - 60 tr.CN, ông lập ra cái gọi là một đảng cộng hòa trung tâm. Ông tập hợp một liên minh gồm những tư nhân tài chính giàu có từ tầng lớp trung lưu, bộ phận ôn hòa của tầng lớp quý tộc và bộ phận ôn hòa của những người bình dân, chính liên minh này đã giúp ông vào được viện chấp chính năm 63. Sau khi xảy ra vụ ám sát Cesar, ông đứng đầu phe đối lập và bị ám sát ngày 12/12/43 tr.CN, đầu rời khỏi thân, tay bị chặt gửi về La Mã và bày ở mũi tàu. Nhận xét về Cicero, Graston Borrissier đã viết: "Cicero đôi khi do dự và quá mềm yếu thì cuối cùng bao giờ cũng là để bảo vệ điều mà ông coi như lợi ích của công lí và pháp quyền... Khi lợi ích đó luôn bị thất bại, ông đã làm tròn sự phục vụ cuối cùng cho lợi ích đó mà nó có thể đòi hỏi những người bảo vệ, ông đã làm vẻ vang nó bằng cái chết của ông”2. Tác phẩm Nước cộng hòa gồm 6 quyển: + Quyển 1: Về những hình thức khác nhau của chính phủ; + Quyển 2: Các thiết chế La Mã; + Quyển 3: Về bản chất con người và công lí trong tất cả các chính phủ; + Quyển 4: Về giáo dục và đời sống gia đình; + Quyển 5: Về các phong tục khắc khổ của thời cổ đại; 1 Xem: “L ch s các h c thuy t chính tr trên th gi i”, sđd, tr. 94. 2 L ch s các t t ng chính tr , S d, tr.142. 66 + Quyển 6: Về những quan hệ của tôn giáo và hạnh phúc của các xã hội. Sau khi nghiên cứu về nhà nước trong Nước cộng hòa, ông lại khảo cứu các luật thích hợp nhất với các nhà nước trong tác phẩm Luật pháp. Tác phẩm này gồm 3 quyền: + Quyển 1: Nghiên cứu nguồn gốc của pháp quyền; + Quyển 2: Các luật tôn giáo; + Quyển 3: Tổ chức chính quyền, đoàn pháp quan và các quy tắc chính trị thực hành. Hai tác phẩm này của Cicero là sự hỗn hợp từ Nền cộng hòa và Luật pháp của Plato, theo sự luận giải của Cicero thì đó là lí tưởng về chính phủ tốt nhất và công dân tốt nhất, được rút ra đồng thời trong mối quan hệ tất yếu của chúng. Vì thế, có người đã chỉ trích ông là ăn cắp văn của Plato, song lại có người nhận xét: "Nước cộng hòa của Cicero không phải là sự ăn cắp văn của Plato, cũng không phải sự biện hộ có dự tính trước cho ngôi hoàng đế mà là một bức vẽ rất tốt về lí tưởng con người nhà nước, do Cicero lấy ở tư duy Hi Lạp với kinh nghiệm cá nhân chín muồi của ông và do đó đã thích ứng với tư duy La Mã và với khuôn khổ chính trị của thành bang cộng hòa"1. Theo Cicero, điều bât hạnh nhất đối với người tốt là bị buộc phải tuân theo người xấu. Nhưng những người ác sẽ thắng lợi một cách tất yếu nếu những người tốt không tham dự vào các công việc chung và nước cộng hòa sẽ bị phân thành nhiều mảnh. Đối với những người tốt thì sẽ là không đủ nếu chỉ quan tâm đến mình mà bỏ qua các việc công cộng. Họ cần phải theo dõi bước đi của việc công hàng ngày và chấp nhận các quy tắc của nó. Chính trị học La Mã bao hàm một con đường đi lớn, nó làm cho người ta liên tiếp phải trải qua các chức pháp quan khác nhau để cuối cùng đi đến việc chấp chính. Theo ông, người công dân tốt nhất là người có văn hóa, có tài năng và quyền uy. Người đó có phẩm chất của người công dân mà Plato gọi là các nhà triết học chấp chính, còn Cicero gọi họ là con người có uy thế tinh thần. Quan niệm của Cicero về quyền lực là quan niệm của một quyền uy tốt bụng, theo ông nhà chính trị tác động tới những người bị cai trị với chức năng phụ trợ và tiết chế, điều hòa. Khi quyền uy thuộc về một vài người được lựa chọn thì người ta nói rằng thành bang được cai trị bởi nhóm ưu tú hay chế độ quý tộc. Cuối cùng, chính phủ nhân dân là chính phủ ở đó tất cả quyền lực thuộc về nhân dân"2. 1 L ch s các t t ng chính tr , S d, tr.143. 2 L ch s các t t ng chính tr , S d, tr.150. 67 Như vậy, Cicero khẳng định rằng: - Bản chất nhân loại, lí tính chính nghĩa công bằng phát ra những mệnh lệnh phải được tôn trọng bởi người nghe những mệnh lệnh ấy. - Những mệnh lệnh ấy của lí tính công bằng không thể bị thay đổi bởi pháp quyền thực chứng và các quyền lực công cộng phải bất lực ngay trong môi trường của chúng. - Những biểu hiện của lí tính công bằng đó phải có một tính chất vĩnh hằng và phổ biến. Người nào không biết đến ba nguyên tắc đó sẽ không biết đến bản chất con người trong bản thân mình. Nói chung, Cicero đã viện dẫn đến pháp luật tự nhiên để chống lại luật pháp thành văn của nhà nước lúc đó, đó là thứ pháp luật tồn tại trước những văn bản, trước pháp luật của pháp quan, trước những lời nghị án của các quan tòa. 5. Tư tưởng chính trị của Thiên chúa giáo Sự khủng hoảng của chế độ chiếm hữu nô lệ ngày càng tăng đã dẫn tới sự cùng cực của quần chúng lao động. Những người nông dân và thợ thủ công bị phá sản và biến thành "những người nghèo khổ tự do" không còn phương tiện sinh sống. Đặc biệt là tình cảnh khốn cùng của những người nô lệ bị chủ nô bóc lột tàn nhẫn. ở nhiều nơi của đế quốc La Mã đã bùng nổ các cuộc khởi nghĩa của nô lệ và nhân dân bị áp bức, nhưng tất cả họ đều bị nhà nước chiếm hữu nô lệ đàn áp dã man. Sự bất lực của quần chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh với bọn bóc lột đã dẫn tới sự gia tăng tâm lí tín ngưỡng, sự tìm kiếm "niềm an ủi tinh thần" trong tôn giáo. Sứ mệnh của quyền lực là làm cho công bằng ngự trị, chính trong mục đích đó mà uy lực đã được đem lại cho ông vua. Công bằng bản thân nó có trước quyền lực, không thay đổi, vĩnh hằng, tối thượng chung trong không gian và trong thời gian, nó áp đặt cho tất cả các ý thức. Theo Augustin, uy lực không phải là một điều xấu mà so với công bằng, nó không phải là cái thứ nhất mà là cái thứ hai. Quyền lực, bản thân nó có tất cả cái phải sợ nếu tách xa sự công bằng. Ông viết: "Các vương quốc không có công bằng là gì nếu không phải là những việc tham nhũng, cướp bóc". Vậy công bằng nằm ở đâu? Nó cốt ở chỗ làm bổn phận của mình với sự đúng đắn nhất, trả lại cho mỗi người cái mà mình mắc nợ. Nhiệm vụ thứ ba của người thủ lĩnh là phải cố vấn cho nhân dân mình. Họ phải đặt quyền uy của họ vào việc phục vụ nhân dân họ. Có thể thấy các quan điểm của kinh phúc âm thể hiện khá rõ trong lập luận của Augustin. Theo ông, chỉ huy là một mặt của lòng từ thiện; thần dân là những người anh em nên việc áp đặt ý chí đối với họ 68 cũng là điều tốt vì để thực hiện được việc chỉ huy họ. Do đó, "quyền uy phải được chấp nhận như là một sự phục vụ và được yêu thích như là một việc làm phúc". Với sự công bằng làm gốc và việc từ thiện làm ngọn, thành bang tạo ra hạnh phúc cho các công dân. Cương lĩnh của Augustin về thành bang là trật tự, đoàn kết, hòa bình, trật tự giành được bằng đoàn kết và đoàn kết được thực hiện bằng hòa bình. Về mối quan hệ giữa nhà nước và nhà thờ, Augustin cho rằng, quyền lực nhà nước và quyền lực nhà thờ là rất khác nhau và độc lập với nhau. Mỗi loại quyền lực chỉ phụ thuộc vào bản thân mình và vào Thượng đế, vận động trên những phương diện khác nhau. Do vậy, mọi sự can thiệp của quyền lực này vào quyền lực khác vừa là phạm tội vừa là nguy hiểm cho lợi ích chung hoặc cho chính nó. Nói chung, Augustin đặt lòng tin sâu sắc vào các hoàng đế Thiên chúa giáo và cũng chú ý đến việc đồng nhất nhà nước với nhà thờ thông qua việc tuyên bố vai trò của nhà nước như là điều mong muốn của Thượng đế là để duy trì trật tự và khẳng định sự tất yếu phải phục tùng các thiết chế ấy để vâng theo những số phận thiên mệnh ngay cả khi các vua chúa hay các hoàng đế thay đổi tôn giáo hay là người phi đạo. Ông khẳng định rằng chế độ nô lệ cũng là do Chúa định. Mặc dù mọi người bình đẳng theo tự nhiên nhưng "kẻ nô lệ phải là nô lệ vì những tội lỗi của mình", "kẻ nô lệ phải là nô lệ vì có lỗi" trước Chúa và bởi vậy nô lệ phải hoàn toàn cam chịu phục vụ chủ của mình. Theo ông, sở hữu cá nhân, bất công xã hội, sự tồn tại kẻ giàu, người nghèo là "ý Chúa". Ông viết: "Ai đã tạo ra những thứ đó? Chúa! Sinh ra người giàu là để giúp người nghèo, sinh ra người nghèo là để thử thách người giàu...". CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 4: 1. Đánh giá một số giá trị tiêu biểu của tư tưởng chính trị La Mã cổ đại? 2. Nội dung tư tưởng chính trị của Thiên chúa giáo? 69 Chương 5 CÁC HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ TÂY ÂU TRUNG CỔ 1. Khái quát chung Sau khi chế độ chiếm hữu nô lệ Lamã sụp đổ vào thế kỷ V-VI ở Tây Âu đã xuất hiện các nhà nước, chế độ phong kiến dần hình thành. Nền tảng của chế độ phong kiến là sở hữu ruộng đất của lãnh chúa phong kiến. Xã hội chia thành hai giai cấp chính: các chúa phong kiến nắm hầu hết ruộng đất và nông dân bị bần cùng hoá, lệ thuộc vào các chúa phong kiến. Tới thế kỷ IX chủ nghĩa phong kiến hình thành xong ở tất cả các nước ở Tây Âu. Đồng thời vào thời gian này, Tây âu bị chia nhỏ thành các quốc gia phong kiến, không lệ thu ... Minh. Trong tư tưởng lập hiến của Hồ Chí Minh, có những tư tưởng, quan điểm manh tính chất chỉ đạo cho việc tổ chức quyền lực nhà nước, xác lập mối quan hệ giữa quốc quyền và dân quyền. Những tư tưởng, quan điểm đó khởi xuất từ thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đoàn kết dân tộc. Đối với Hồ Chí Minh, đoàn kết là sức mạnh quyết định sự thành công của cách mạng Việt Nam. Người nói : “ Đoàn kết là sức mành của chúng ta”1; “ Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công.”2; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công !”3 Biểu hiện cao nhất của đoàn kết là đoàn kết dân tộc. Người cho rằng đoàn kết dân tộc mới chiến thắng được kẻ thù, giành độc lập dân tộc và phát triển dân tộc. Đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đoàn kết rộng rãi, không phân biệt bất cứ ai, miễn là người dân Việt Nam tán thành cách mạng. Tại đại hôi thống nhất mặt trận Việt Minh - Liên Việt (3/1951), Người nói : “ Trong đại hội này, chúng ta có đại diện đầy đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, già có, trẻ có, nam có, nữ có, thật là một gia đình tương thân, tương ái. Chắc chắn rằng sau đại hội, mối đoàn kết thân ái sẽ phát triển và củng cố khắp toàn dân.”4 Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở của mô hình Nhà nước cách mạng Việt Nam. Nói cách khác, đối với Hồ Chí Minh, việc tổ chức quyền lực Nhà nước phải được đặt trên cơ sở khối đại đoàn kết dân tộc. Người nói : “Chính phủ sau đây phải là một Chính phủ toàn dân đoàn kết và tập hợp nhân tài không đảng phái” . “ Chính phủ này tỏ rõ cái tinh thần quốc dân liên hiệp”; “ Chính phủ này là Chính phủ toàn quốc, có đủ nhân tài Trung, Nam ,Bắc tham gia.”5 Trong thực tiễn tổ chức Nhà nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tinh thần đại đoàn kết dân tộc của mình qua việc thu nhận nhân sĩ, tri thức lớn, kể cả quan lại cao cấp của chế độ cũ tham gia Chính phủ. Đặc biệt là việc Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị với Quốc hội được thành lập sau Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946, mở rộng số đại biểu ra thêm 70 người nữa, 70 người này dành cho các vị ở 1 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr392. 2 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 11. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr154. 3 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 10. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr607. 4 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 6. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr182. 5 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 4. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr. 227, 430. 133 hải ngoại về : Việt Nam Quốc Dân Đảng và Việt Nam cách mạng Đồng Chí Hội.1 Đây là hai đảng phái phản động quyết liệt chống đối chính quyền cách mạng, nhưng Hồ Chí Minh đã chủ trương dành 70 ghế đại biểu Quốc hội cho họ, không những đẻ vô hiệu hoá, mà còn thể hiện một tinh thần đoàn kết dân tộc, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ được vì lợi ích lâu dài của cách mạng dân tộc. Cần nhận thức rằng đại đoàn kết dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện ở việc tổ chức quyền lực Nhà nước không phải là một sách lược nhất thời mà là chiến lược lâu dài mang tính tất yếu của cách mạng Việt Nam xuất phát từ điều kiện cách mạng đặc thù của dân tộc. Do đó, có thể nói đại đoàn kết dân tộc trong tổ chức Nhà nước là một vấn đề có tính nguyên tắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Lời nói đầu Hiến pháp 1946 ghi nhận “ đoàn kết toàn dân không phân biệt giống nòi, gái trai, tôn giáo” là một nguyên tắc của việc xây dựng Hiến pháp - văn bản pháp lý quy định mô hình tổ chức quyền lực Nhà nước . Dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không phải là một khái niệm trừu tượng, chung chung, phi lịch sử, phi giai cấp. Người chỉ ra nhân dân là nền tảng của đại đoàn kết dân tộc: “ Để làm tròn trách nhiệm lãnh đạo cách mạng, Đảng ta phải dựa vào giai cấp công nhân, lấy liên minh công nông làm nền tảng vững chắc để đoàn kết các tầng lớp khác trong nhân dân.”2 Sau này, Người nêu thêm, lấy liên minh công - nông - lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân.3 Chủ quyền nhân dân Nhân dân - nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc- là chủ thể của quyền lực Nhà nước, quyền lực Nhà nước bắt nguồn từ nhân dân. Tất cả quyền lực trong nước thuộc về nhân dân. Nhà nước chỉ là tổ chức do dân lập ra để thực hiện quyền lực nhân dân. Hồ Chí Minh nói: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng, từ người quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch một nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân.” Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “ Nước ta là nước dân chủ ... Bao nhiêu quyền hạn đều của dân .... quyền hành và quyền lực đều ở nơi dân.”4 Hiến pháp 1946 đã thể chế hoá quan điểm này; “ Tất cả quyền hành trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt giống nòi, gái trai, giầu nghèo, giai cấp, tôn giáo.” Nếu tất cả quyền lực là của nhân dân, bắt nguồn tư nhân dân thì quyền lực phải thống nhất vào nhân 1 Văn phòng Quốc hội. Lịch sử Quốc hội Việt Nam (1946-1960), Nxb. chính trị quốc gia, H, 1994, tr69. 2 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 10. Nxb. Chính trị quốc gia, H, 2000, tr. 605. 3 Đại tướng Võ Nguyên Giáp (Chủ biên). Tư tưởng Hồ Chí Minh và con đường cách mạng Việt Nam.NXB Chính trị quốc gia, H,1998, tr.165. 4 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr698. 134 dân vì nhân dân trong Nhà nước cánh mạng Việt Nam như Hồ Chí Minh đã chỉ ra bao gồm quảng đại quần chúng và lợi ích của nhân dân về cơ bản là thống nhất.. Do đó, Nhà nước chỉ là một tổ chức do nhân dân lập ra để thực hiện quyền lực nhân dân : “ Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương đều do nhân dân cử ra.”1 Bầu cử là phương thức nhân dân uỷ thác quyền lực của mình cho Nhà nước. Khi quyền lực nhân dân đã được uỷ thác cho Nhà nước, trở thành quyền lực nhà Nước,thì quyền lực Nhà nước cũng là thống nhất và phải có sự phân công minh bạch giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lực Nhà nước. Trong đó Quốc hội là một cơ quan quyền lực Nhà nước tối cao thể hiện sự thống nhất quyền lực Nhà nước. Xét về bản chất ,sự thống nhất trong lợi ính của nhân dân là tiền đề của sự thống nhất quyền lực nhân dân và sự thống nhất quyền lực Nhà nước,và điều này chỉ có trong Nhà nước xã hội chủ nghĩa .Tư tưởng thống nhất quyền lực của Chủ tịch Hồ Chí Minh được thể hiện rõ qua cách thức cơ cấu quyền lực Nhà nước trong hai bản Hiến pháp 1946,1959. Quyền công dân Đấu tranh vì các các quyền và tự do của con người là một trong những nội dung trọng yếu của tư tưởng lập hiến Hồ Chí Minh. Một ham muốn tột bậc của Bác là làm làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Triết lý hiến chính của Hồ Chí Minh là “ Không có gì quý hơn độc lập, tự do”- một triết lý đã trở thành quốc hiệu. Như đã nói ở trên từ những ngày còn hoạt động các mạng ở Pháp, người đã đề cập đến việc nến được độc lập thì Việt Nam sẽ xếp đặt một nền hiến pháp theo như lý tưởng dân quyền. Trong bản Yêu sách của nhân ân An Nam, Người đã yêu cầu một cách toàn diện về dân quyền: 1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị; 2. Cải cách công lý ở Đông dương bằng cách cho dân bản xứ cũng được hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu Châu; xoá bỏ hoàn toàn và triệt để các toà án đặc biệt dùng làm công cụ khủng bố và áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam; 3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận; 4. Tự do lập hội và hội họp; 5. Tự do cư trú ở nước ngoài và xuất dương; 1 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 5. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr698. 135 6. Quyền Tự do học tập, thành lập các trường kỹ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả các tỉnh cho người bản xứ; 7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật; 8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của người bản xứ. 1 Các quyền chính trị: quyền bình đẳng về mọi phương diện (Điều thứ 6); quyền bình đẳng trước pháp luật, quyền được tham gia chính quyền (Điều thứ 7); quyền của quốc dân thiểu số được giúp đỡ về mọi phường diện để chóng tiến kịp trình độ chung (Điều thứ 8); quyền bình đẳng nam nữ (điều thứ 9); những người ngoại quốc tranh đấu cho dân chủ và tự do mà phải trốn tránh thì được trú ngụ trên đất Việt Nam (điều thứ 16). Đặt biệt trong các quyền chính trị có các quyền bầu cử, quyền ứng cử (Điều thứ 18); quyền bãi miễn các đại biểu dân cử (điều thứ 20); quyền phúc quyết về Hiến pháp và những vấn đề liên quan đến vận mệnh quốc gia (Điều thứ 21); Các quyền tự do cá nhân: tự do ngôn luận, tự do xuất bản, tự do tổ chức và hội họp, tự do tín ngưỡng, tự do cư trú, đi lại trong nước và nước ngoài (Điều thứ 10); quyền tự do thân thể; quyền bất khả xâm phạm nhà ở và thư tín trái pháp luật (Điều thứ 11); Các quyền kinh tế- xã hội: quyền tham gia vào công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình (Điều thứ 7); quyền tư hữu tài sản (Điều thứ 12); quyền được bảo đảm quyền lợi của giới cần lao trí thức và chân tay (Điều thứ 13); quyền được giúp đỡ của người già cả hoặc tàn tật; quyền được chăm sóc về mặt giáo dưỡng của trẻ con. (Điều thứ 14); Các quyền về văn hoá: quyền được giáo dục ở bậc sơ học không phải trả học phí, quyền của quốc dân thiểu số được học bằng tiếng của mình ở các địa phương, học trò nghèo được Chính phủ giúp; trương tư được mở tự do và phải dạy theo chương trình Nhà nước (Điều thứ 15). Các dân quyền này trong Hiến pháp được thiết kế theo nguyên tắc dân quyền xuất phát từ nhân quyền. Chính vì dân quyền có nguồn cội từ nhân quyền nêu đó là những quyền tự nhiên của con người. Nhà nước không tạo ra những quyền đó. Nhà nước không ban cho người dân những quyền đó vì đó là những quyền vốn có của của con người. Tư duy lập hiến thể hiện ở đây là Hiến pháp tôn trọng các quyền của con người đồng thời bảo đảm thực hiện và cam kết các quyền con người không thể tuỳ tiện 1 Hồ Chí Minh.Toàn tập , t. 4, Nxb. Chính trị quốc gia,H,2000, tr.435-436 136 vi phạm. Thực ra việc hiến pháp liệt kê ra các quyền nói trên chính là xác định một ranh giới cho sự hoạt động của công quyền. Nhà nước không có mục đích tự thân. Nhà nước tồn tại vì con người. Định hướng xã hội chủ nghĩa. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đối với Người, sự lựa chọn tối ưu của loài người về một con đường đi bảo đảm thực hiện lý tưởng nhân văn, bảo đảm cho mội người phát triển đúng nghĩa của từ chỉ có thể là con đường xã hội chủ nghĩa.1 Hồ Chí Minh quan niệm chủ nghĩa xã hội là sự phát triển tất yếu của xã hội loài người: “ Con đường tiến tới chủ nghĩa xã hội của các dân tộc là con đường chung của thời đại, của lịch sử, không thể ai ngăn cản nổi.”2 Trung thành với những luận điểm của Marx và F. Engels, Lênin khẳng định “ Chế độ cộng hòa dân chủ là con đường ngắn nhất đưa đến chuyên chính vô sản.” Bản chất của chế độ dân chủ này là “ Dân chủ đối với tuyệt đại đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, nghĩa là tước bỏ dân chủ đối với bọn chúng: Đó là sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kì quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội.”3 Đến Hồ Chí Minh, cộng hoà dân chủ nhân dân là hình thức chính trị của chuyên chính vô sản, dân chủ với quảng đại quần chúng nhân dân, trấn áp kẻ thù của cách mạng, bảo đảm sự phát triển của xã hội Việt Nam theo khuynh hướng tối ưu mà người đã lựa chọn - xã hội xã hội chủ nghĩa. Người nói : “ Mục tiêu của cách mạng là xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, tự do, giầu mạnh, làm cho nhân dân được hạnh phúc và xây dựng một xã hội sung sướng, vẻ vang.”4 Do đó, tổ chức Nhà nước cách mạng Việt Nam theo hình thức chính thể cộng hoà dân chủ là một nhân tố chính trị đảm bảo sự phát triển của xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của chính thể cộng hoà dân chủ nhân dân không thể thoát ly khỏi sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với việc tổ chức quyền lực Nhà nước. Để đảm bảo cho sự thành công của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh xác định : “ Phải có đường lối cách mạng đúng đắn có Đảng của giai cấp vô sản lãnh đạo đúng. Đường lối ấy chỉ có thể là đường lối của chủ nghĩa Marx-Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của dân tộc. ở Việt Nam đường lối ấy chỉ có thể là 1 Nguyễn Văn Huyên (chủ biên). Triết lí phát triển C.Mac. Ph.Ănghen, V.I.Lênin,Hồ Chí Minh. NXB KHXH, H, 2000, tr181. 2 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 8. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr449. 3 V.I.Lênin. toàn tập, tập 33, NXB Tiến bộ Mat-xcơ va,1976, tr87, 109. 4 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 7. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr220. 137 đường lối của giai cấp vô sản và Đảng đó là Đảng lao động Việt Nam."1 Tại Đại hội đảng bộ tỉnh Hà Bắc, Người nói: “ Đảng ta là một Đảng cách mạng theo chủ nghĩa Marx- Lênin... Đảng ta là một Đảng lãnh đạo.”2 Sự lãnh đạo của đảng bao gồm sự lãnh đạo Nhà nước nói chung và tổ chức quyền lực Nhà nước nói riêng. Nghiên cứu cách mạng Nga, Người nhận thấy, sau khi cách mạng thành công “Đảng Cộng sản cầm quyền, tổ chức ra Chính phủ công- nông- binh ...”3 Như vậy ở đây Hồ Chí Minh đã xác lập quan điểm Đảng Cộng sản lãnh đạo việc tổ chức Nhà nước. Những nhà tư tưởng thời cách mạng tư sản như Montesqueu, Rousseau khi đưa ra những lí thuyết về tổ chức quyền lực Nhà nước chưa giải quyết vấn đề này vì học thuyết Marxist chưa xuất hiện. Đến thời kì Marx, Engels, sau đó là Lênin có đề cập đến mối quan hệ Nhà nước và Đảng công sản, song còn ở dạng chung.4 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa nên có cơ sở thực tiễn để trình bầy nhiêu ý tưởng cụ thể về mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước trong đó có qua niệm về sư lãnh đạo của Đảng cộng sản đói với việc tổ chức quyền lực Nhà nước. Xây dựng Nhà nước đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản nghĩa là Đảng cộng sản Việt Nam, đưa ra những quan điểm, đường lối mang tính định hướng cho việc tổ chức quyền lực Nhà nước để đảm bảo mục tiêu phát triển xã hội theo con đường xã hội chủ nghĩa. Tư tưởng chính trị là một bộ phận cơ bản cấu thành hệ tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng chính trị của Hồ Chí Minh đã hình thành và phát triển qua các giai đoạn phát triển của cách mạng, dựa trên cơ sở truyền thống, kinh nghiệm tổ chức Nhà nước Việt Nam trong lịch sử, các học thuyết chính trị và thực tiễn tổ chức Nhà nước ở các quốc gia hiện đại, lý luận Marxxit về chính trị, thực tiễn hoạt động cách mạng và nhân cách Hồ Chí Minh . CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 11: 1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN? 2. Phương hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay? 1 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 11. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr493. 2 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 11. NXB Chính trị quốc gia, H, 2000, tr154. 3 Hồ Chí Minh. Toàn tập, tập 2. NXB Chính trị quốc gia, H, 1995, tr280. 4 Viện nghiên cứu khoa học pháp lí, Bộ tư pháp. Kỉ yếu Hội thảo “Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp luật”, H, 1993, tr142.
File đính kèm:
- giao_trinh_lich_su_cac_hoc_thuyet_phap_ly_phan_2.pdf