Giáo trình Mâu thuẫn một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Phần 1)
Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, phổ biến. Lịch
sử xã hội loài người đã sớm phát hiện và tìm cách giải
quyết mâu thuẫn theo những cách tiếp cận khác nhau.
Ở Trung Hoa cổ đại thuyết Âm Dương ra đời rất sớm, về
sau nó đã đạt tới mức hoàn chỉnh trong Kinh Dịch. Tư
tưởng của triết thuyết này được các trường phái triết học
thời Xuân Thu - Chiến Quốc kế thừa và phát triển.
Thuyết Âm Dương đã giải thích khởi nguyên và sự vận
hành của vũ trụ từ sự phân đôi cái thống nhất thành hai mặt
đối lập Dương và Âm và sự phối hợp, tương tác, chuyển hóa
lẫn nhau giữa hai mặt đối lập này.
Dương và Âm lúc đầu dùng để chỉ những thuộc tính đối
lập như khô - ẩm, sáng - tối, cương - nhu, cường - nhược, v.v.,
về sau được dùng một cách phổ biến để chỉ tất cả những
mặt đối lập hợp thành vũ trụ và xã hội con người (như trời -
đất, mặt trời - mặt trăng, ngày - đêm, sống - chết, trên -12
dưới, sấp - ngửa, số chẵn - số lẻ, nam - nữ, vua - tôi, quân tử
- tiểu nhân, v.v.).
Trong hai mặt đối lập tạo thành chỉnh thể, người Trung
Hoa cổ đại luôn luôn nhấn mạnh mặt Dương giữ vai trò chủ
đạo và vượt trội hơn.
Theo Kinh Dịch, vũ trụ từ một thể thống nhất đầu tiên
(Thái cực) được phân ra thành hai mặt đối lập là Dương và
Âm (Lưỡng nghi). Lưỡng nghi sinh ra Tứ tượng (Dương lớn,
Âm nhỏ, Âm lớn, Dương nhỏ). Hai mặt đối lập này tuy có
những thuộc tính trái ngược nhau, nhưng không loại trừ
nhau một cách tuyệt đối. Dương và Âm tồn tại không tách
biệt nhau mà xâm nhập lẫn nhau. Trong mặt này đã chứa
đựng yếu tố của mặt kia. Trong Dương lớn có Âm nhỏ,
trong Âm lớn có Dương nhỏ, chính vì vậy mà Dương biến
đổi thành Âm và ngược lại. Chẳng hạn, trong ngày (Dương
lớn) đã có yếu tố đêm (Âm nhỏ); Dương lớn nhỏ đi và Âm
nhỏ lớn lên và như vậy ngày chuyển thành đêm. Dương và
Âm còn hòa vào nhau. Người là kết quả sự phối hợp, hòa
quyện vào nhau giữa khí dương và khí âm của trời đất mà
tạo thành. Các mặt đối lập này kết hợp với nhau sinh ra Bát
quái (Tám quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn,
Đoài). Bái quái sinh ra vạn vật.
Lão Tử là nhà triết học nổi tiếng với học thuyết về
“đạo”, được coi là người sáng lập ra trường phái triết học
Đạo gia của Trung Quốc cổ đại. Trong chương 42 “Đạo
Đức kinh” ông viết “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh13
ba, ba sinh vạn vật”. “Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương,
điều hòa bằng khí trùng hư”1.
Theo cách giải thích của Nguyễn Hiến Lê, “một” được
hiểu theo những cách khác nhau là “thái cực”, là “nguyên
khí” (khí thống nhất). Về “hai” là Dương và Âm. Còn “ba”
có thể được hiểu là khí trùng hư do khí dương và khí âm
giao hòa với nhau mà sinh ra, hoặc là cái nguyên lý làm cho
âm dương hòa vào nhau. Theo cách giải thích của François
Cheng, nhà văn Pháp gốc Hoa thì “ba” gồm trời, đất, người
biểu hiện của dương khí, âm khí và trùng khí.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Mâu thuẫn một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Phần 1)
5 MỤC LỤC Trang Mở đầu: MÂU THUẪN - MỘT VẤN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ NÓNG HỔI 11 Chương 1: KHÁI NIỆM VÀ KẾT CẤU CỦA MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG 29 1. Khái niệm mâu thuẫn .. 29 1.1. Hai quan niệm về mâu thuẫn ...... 29 1.2. Mâu thuẫn biện chứng 32 2. Khái niệm mặt đối lập .. 34 2.1. Đối lập hay mặt đối lập - cách gọi nào đúng hơn? ... 34 2.2. Các định nghĩa về “đối lập”, “mặt đối lập” ... 35 2.3. Cái gì có thể được xem là “mặt đối lập” ? 36 2.4. Đối lập là quan hệ “động” .. 38 2.5. Đối lập bên trong và đối lập bên ngoài .. 39 3. Kết cấu của mâu thuẫn biện chứng ... 42 3.1. Các quan niệm khác nhau về kết cấu của mâu thuẫn biện chứng 43 6 3.2. Các mặt đối lập và quan hệ giữa chúng như là thành phần chính trong kết cấu của mâu thuẫn biện chứng . 45 3.3. Hai cấp độ của mâu thuẫn biện chứng ... 56 Chương 2: MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG VÀ MÂU THUẪN LÔGÍC HÌNH THỨC. PHÂN LOẠI MÂU THUẪN BIỆN CHỨNG. ĐẶC ĐIỂM CỦA MÂU THUẪN XÃ HỘI . 71 1. Mâu thuẫn biện chứng và mâu thuẫn lôgíc hình thức .. 71 1.1. Mâu thuẫn của sự vật và mâu thuẫn trong tư duy .. 72 1.2. Antinômi và mâu thuẫn lôgíc hình thức . 77 1.3. Ý nghĩa của việc nắm vững mâu thuẫn lôgíc hình thức và antinômi . 87 2. Phân loại mâu thuẫn biện chứng 93 1.1. Mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản . 93 1.2. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu 94 1.3. Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài ... 96 3. Đặc điểm và phân loại mâu thuẫn xã hội .. 97 3.1. Đặc điểm của mâu thuẫn xã hội .. 97 3.2. Phân loại mâu thuẫn xã hội . 108 7 Chương 3: PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH MÂU THUẪN VÀ NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA NÓ 118 1. Phương pháp phân tích mâu thuẫn 118 1.1. Mục đích của phân tích mâu thuẫn . 118 1.2. Thực chất của phương pháp phân tích mâu thuẫn ... 120 2. Những nguyên tắc căn bản của phương pháp phân tích mâu thuẫn ................ 121 2.1. Đi từ mâu thuẫn hiện tượng đến mâu thuẫn bản chất 121 2.2. Phân đôi cái thống nhất và nhận thức các mặt đối lập 127 2.3. Thống nhất, đồng nhất của các mặt đối lập ............................................................ 134 2.4. Hiểu rõ nguồn gốc, điều kiện tồn tại và quá trình phát triển của mâu thuẫn .. 143 2.5. Nắm được hệ thống mâu thuẫn của sự vật và quan hệ của mỗi mâu thuẫn trong hệ thống 149 Chương 4: VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN ....... 157 1. Những quan niệm không đúng trong vấn đề giải quyết mâu thuẫn ... 159 8 1.1. Giải quyết mâu thuẫn bị đồng nhất với việc xóa bỏ mâu thuẫn ............ 159 1.2. Thỏa mãn với việc giải quyết mâu thuẫn ở cấp độ hiện tượng .. 161 2. Các cách và hình thức giải quyết mâu thuẫn 163 2.1. Việc giải quyết triệt để, hoàn toàn của mâu thuẫn .. 164 2.2. Việc giải quyết thường xuyên của mâu thuẫn . 168 3. Vai trò của giải quyết mâu thuẫn 174 31. Giải quyết mâu thuẫn là một động lực quan trọng của sự phát triển ... 174 3.2. Vai trò của việc giải quyết thường xuyên và việc giải quyết triệt để, hoàn toàn của mâu thuẫn ... 177 4. Một số nguyên tắc phương pháp luận của việc giải quyết mâu thuẫn 179 4.1. Nguyên tắc thống nhất giữa tuân thủ tính khách quan và phát huy cao độ vai trò của nhân tố chủ quan 180 4.2. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn phù hợp với bản chất và điều kiện tồn tại của mâu thuẫn ... 188 4.3. Nguyên tắc giải quyết mâu thuẫn phù hợp với từng giai đoạn phát triển của mâu thuẫn 192 9 4.4. Nguyên tắc tính hệ thống và tính đồng bộ trong việc giải quyết mâu thuẫn . 198 4.5. Nguyên tắc thống nhất giữa mục đích nhân đạo và biện pháp nhân đạo trong việc giải quyết mâu thuẫn xã hội . 200 Chương 5: NHẬN THỨC VÀ GIẢI QUYẾT MỘT SỐ MÂU THUẪN QUAN TRỌNG TRONG LĨNH VỰC KINH TẾ VÀ XÃ HỘI CỦA THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI 207 1. Nhận thức lại về mâu thuẫn cơ bản của chế độ tư bản và phương pháp giải quyết ... 207 1.1. Bản chất của mâu thuẫn cơ bản của chế độ tư bản .. 208 1.2. Phương pháp giải quyết mâu thuẫn cơ bản của chế độ tư bản ............ 211 2. Mâu thuẫn giữa bóc lột và bị bóc lột .. 219 2.1. Thế nào là bóc lột 219 2.2. Giải quyết mâu thuẫn giữa bị bóc lột và bóc lột .. 220 3. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội 224 3.1. Sự thống nhất và đối lập giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội . 225 3.2. Giải quyết mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội 230 10 4. Mâu thuẫn giữa bình đẳng và bất bình đẳng 237 4.1. Khái niệm công bằng và bình đẳng xã hội .. 237 4.2. Mục tiêu của chủ nghĩa xã hội không chỉ là công bằng xã hội, mà còn là bình đẳng xã hội . 239 4.3. Quan hệ giữa bình đẳng và bất bình đẳng .... 240 4.4. Biện pháp giải quyết mâu thuẫn giữa bình đẳng và bất bình đẳng . 246 KẾT LUẬN 251 TÀI LIỆU THAM KHẢO ... 255 11 MỞ ĐẦU MÂU THUẪN - MỘT VẤN ĐỀ LỊCH SỬ VÀ NÓNG HỔI Mâu thuẫn là một hiện tượng khách quan, phổ biến. Lịch sử xã hội loài người đã sớm phát hiện và tìm cách giải quyết mâu thuẫn theo những cách tiếp cận khác nhau. Ở Trung Hoa cổ đại thuyết Âm Dương ra đời rất sớm, về sau nó đã đạt tới mức hoàn chỉnh trong Kinh Dịch. Tư tưởng của triết thuyết này được các trường phái triết học thời Xuân Thu - Chiến Quốc kế thừa và phát triển. Thuyết Âm Dương đã giải thích khởi nguyên và sự vận hành của vũ trụ từ sự phân đôi cái thống nhất thành hai mặt đối lập Dương và Âm và sự phối hợp, tương tác, chuyển hóa lẫn nhau giữa hai mặt đối lập này. Dương và Âm lúc đầu dùng để chỉ những thuộc tính đối lập như khô - ẩm, sáng - tối, cương - nhu, cường - nhược, v.v., về sau được dùng một cách phổ biến để chỉ tất cả những mặt đối lập hợp thành vũ trụ và xã hội con người (như trời - đất, mặt trời - mặt trăng, ngày - đêm, sống - chết, trên - 12 dưới, sấp - ngửa, số chẵn - số lẻ, nam - nữ, vua - tôi, quân tử - tiểu nhân, v.v.). Trong hai mặt đối lập tạo thành chỉnh thể, người Trung Hoa cổ đại luôn luôn nhấn mạnh mặt Dương giữ vai trò chủ đạo và vượt trội hơn. Theo Kinh Dịch, vũ trụ từ một thể thống nhất đầu tiên (Thái cực) được phân ra thành hai mặt đối lập là Dương và Âm (Lưỡng nghi). Lưỡng nghi sinh ra Tứ tượng (Dương lớn, Âm nhỏ, Âm lớn, Dương nhỏ). Hai mặt đối lập này tuy có những thuộc tính trái ngược nhau, nhưng không loại trừ nhau một cách tuyệt đối. Dương và Âm tồn tại không tách biệt nhau mà xâm nhập lẫn nhau. Trong mặt này đã chứa đựng yếu tố của mặt kia. Trong Dương lớn có Âm nhỏ, trong Âm lớn có Dương nhỏ, chính vì vậy mà Dương biến đổi thành Âm và ngược lại. Chẳng hạn, trong ngày (Dương lớn) đã có yếu tố đêm (Âm nhỏ); Dương lớn nhỏ đi và Âm nhỏ lớn lên và như vậy ngày chuyển thành đêm. Dương và Âm còn hòa vào nhau. Người là kết quả sự phối hợp, hòa quyện vào nhau giữa khí dương và khí âm của trời đất mà tạo thành. Các mặt đối lập này kết hợp với nhau sinh ra Bát quái (Tám quẻ: Càn, Khảm, Cấn, Chấn, Tốn, Ly, Khôn, Đoài). Bái quái sinh ra vạn vật. Lão Tử là nhà triết học nổi tiếng với học thuyết về “đạo”, được coi là người sáng lập ra trường phái triết học Đạo gia của Trung Quốc cổ đại. Trong chương 42 “Đạo Đức kinh” ông viết “Đạo sinh một, một sinh hai, hai sinh 13 ba, ba sinh vạn vật”. “Vạn vật đều cõng âm mà ôm dương, điều hòa bằng khí trùng hư”1. Theo cách giải thích của Nguyễn Hiến Lê, “một” được hiểu theo những cách khác nhau là “thái cực”, là “nguyên khí” (khí thống nhất). Về “hai” là Dương và Âm. Còn “ba” có thể được hiểu là khí trùng hư do khí dương và khí âm giao hòa với nhau mà sinh ra, hoặc là cái nguyên lý làm cho âm dương hòa vào nhau. Theo cách giải thích của François Cheng, nhà văn Pháp gốc Hoa thì “ba” gồm trời, đất, người biểu hiện của dương khí, âm khí và trùng khí. Theo Lão Tử, Dương và Âm làm tiền đề tồn tại cho nhau, chuyển hóa lẫn nhau. Điều này cũng giống như quan niệm của Hêraclit ở Hy Lạp cổ đại. Trong chương 2, Đạo Đức kinh, Lão Tử viết: “Có và không sinh ra lẫn nhau; dễ và khó tạo nên lẫn nhau; ngắn và dài làm rõ cho nhau; cao và thấp dựa vào nhau; trước và sau theo nhau”. “Ai cũng cho cái đẹp là đẹp, do đó mà sinh ra quan niệm về cái xấu; ai cũng cho điều thiện là thiện, do đó mà sinh ra quan niệm về cái ác”. Cái họa và cái phúc cũng không có ranh giới tuyệt đối; trong phúc có họa, trong họa có phúc. Trong quan niệm về Âm Dương, Lão Tử không xem mặt Âm bao giờ cũng yếu thế thua kém mặt Dương, thậm chí còn ngược lại. Chương 37, Đạo Đức kinh, ông viết: “Nhu nhược thắng cương cường” (mềm yếu thắng cứng mạnh). Ở 1 . Nguyễn Hiến Lê (giới thiệu và chu dịch), Lão Tử: Đạo Đức kinh, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1994, tr. 63. 14 chương 78 ông nhắc lại: “Nhược thắng cường, nhu thắng cương”. Ông đưa ra ví dụ, nước là cái cực mềm nhưng chế ngự được cái cứng là đá; cứng mạnh là cùng loại với cái chết, còn mềm yếu là cùng loại với sự sống (kiên cương dã tử chi đồ, nhu nhược giả sinh chi đồ)1. Tư tưởng về sự phân đôi cái thống nhất thành các mặt đối lập, về sự tồn tại gắn bó không tách rời nhau giữa hai mặt đối lập, về sự xâm nhập lẫn nhau và chuyển hóa lẫn nhau giữa chúng là những thành tựu và đóng góp của thuyết Âm Dương ở Trung Hoa cổ đại vào lý luận về mâu thuẫn. Tuy nhiên, quan điểm về mâu thuẫn ở Trung Hoa cổ đại có những hạn chế nhất định mà về sau phép biện chứng duy vật phải khắc phục: - Việc phân chia tất cả sự vật, hiện tượng thành hai mặt đối lập theo một số thuộc tính chung Dương và Âm như đã nói trên là có tính gò bó, gượng ép, không phản ánh được tính đa dạng, muôn màu muôn vẻ của mâu thuẫn trong hiện thực. - Chỉ mới thấy sự thống nhất (gắn bó, xâm nhập, chuyển hóa lẫn nhau) của các mặt đối lập, nhưng chưa thấy sự đấu tranh của chúng, có chăng chỉ thấy mặt này thịnh lên, mặt kia suy đi, chưa thấy sự bài trừ gạt bỏ, chống đối lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Có người nhận xét là thuyết Âm Dương đúng hơn thuyết mâu thuẫn của triết học Mác vì nó 1. Nguyễn Hiến Lê (giới thiệu và chu dịch), Lão Tử: Đạo Đức kinh, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1994, tr. 85 - 86; 113 - 114. 15 chủ trương sự thống nhất hài hòa giữa hai mặt đối lập. Thật ra, quan niệm về sự đấu tranh của các mặt đối lập trong triết học Mác là một thành tựu vượt trội hơn tất cả các lý thuyết về mâu thuẫn trước đó. - Chưa thấy sự chuyển hóa về địa vị của các mặt đối lập, chẳng hạn, nam giới là Dương, mặt chủ đạo; còn nữ giới là Âm, mặt phụ thuộc thì vĩnh viễn cứ như vậy, không thể thay đổi được. Ở phương Tây cổ đại, việc nghiên cứu về mâu thuẫn bao quát được cả hai lĩnh vực: mâu thuẫn trong hiện thực khách quan và mâu thuẫn trong tư duy. Các nhà triết học thời kỳ tiền Xô-crát ở Hy Lạp cổ đại đã có những phát hiện khá lý thú về sự tồn tại của các mặt, các khuynh hướng đối lập trong tự nhiên và xã hội. Hêraclit (Heraclitus, 546 - 480 TCN), đã có tư tưởng về sự thống nhất của các mặt đối lập trong tất cả sự vật hiện tượng. Theo Hêraclit, “từ cái đơn nhất sinh ra tất cả và cái đơn nhất từ cái tất cả mà ra”. Theo ông, tất cả sự vật hiện tượng đều chứa đựng những mặt đối lập, “Thượng đế là ngày và đêm, là mùa hạ và mùa đông, là chiến tranh và hòa bình”. Các mặt đối lập là đồng nhất với nhau: sống và chết, thức và ngủ, trẻ và già, bệnh tật và sức khỏe, đói và no, mệt nhọc và nghỉ ngơi, cái sạch và cái bẩn, cái cao đẹp và cái thấp hèn, v.v., bản chất của chúng là một1. 1. Xem: L.F. Ilichev, P.N. Pheđoxeev, X.M. Covalev và V.G. Panov (chủ biên), Từ điển Bách khoa triết học (Философский энциклопедический словарь), Nxb Bách khoa Xôviết, Matxcơva, 1983, tr. 109 - 110. 16 Trong triết học Hêraclit, các mặt đối lập làm tiền đề cho nhau, có mặt này mới có mặt kia. “Bệnh tật làm cho sức khỏe quý hơn, cái ác làm cho cái thiện cao cả hơn, cái đói làm cho cái no dễ chịu hơn”. Các mặt đối lập có thể chuyển hóa lẫn nhau. Ông nói: “Cái nóng lạnh đi, cái lạnh nóng lên. Cái ướt khô đi, cái khô ướt lại”. Nhiều người đương thời đã không thể hiểu thấu được những tư tưởng biện chứng sâu sắc của Hêraclit nên coi ông là nhà triết học tối nghĩa. Một truyền thống khác trong sự phát triển phép biện chứng ở Hy Lạp cổ đại, đó là việc đi sâu nghiên cứu biện chứng của tư duy, hay theo cách nói của Ph. Ăngghen, “biện chứng chủ quan” (Platôn, Arixtôt). Theo những người sáng lập ra nó thì phép biện chứng có nghĩa là “nghệ thuật tranh luận” tìm ra chân lý thông qua việc khẳng định tính đúng đắn của quan điểm của mình và bác bỏ lập luận của đối phương bằng cách vạch ra “mâu thuẫn” trong quan điểm, tư tưởng của đối phương. Mâu thuẫn theo truyền thống phương Tây cũng vì thế mà có nghĩa là “lời nói trái ngược nhau” (contradiction). Hai phán đoán, một cái khẳng định, một cái phủ định về cùng một thuộc tính của đối tượng trong một quan hệ nhất định, ở một phương diện nhất định thì không thể cùng đúng được. Arixtôt (384-322 TCN), một nhà triết học nổi tiếng có ảnh hưởng rất lớn đối với truyền thống triết học, lôgíc học, 17 khoa học, chính trị học phương Tây, đã có công sáng lập ra Lôgíc học hình thức (Formal Logic). Vì nó ra đời từ thời cổ đại nên còn được gọi là Lôgíc học truyền thống (Tradidional Logic). Trong các quy luật của tư duy lôgíc hình thức mà Arixtôt đưa ra có “quy luật phi mâu thuẫn” (Law of non-contradiction). Theo quy luật này, nếu tư duy chứa đựng mâu thuẫn thì tư duy sẽ không đúng. Quy luật phi mâu thuẫn từ khi ra đời đã thực sự đóng một vai trò rất lớn trong tư duy lôgíc. Nó đảm bảo tính nhất quán của tư duy và nhất là nó được vận dụng để bác bỏ những quan điểm, tư tưởng không nhất quán, sai lầm. Sử dụng lập luận về mâu thuẫn để phủ nhận hay nghi ngờ tính chân lý, đó là cách làm phổ biến từ thời cổ đại đến nay. Nhà triết học duy vật vô thần nổi tiếng Hy Lạp cổ đại thuộc trường phái nguyên tử luận Êpicuya (Epicurus, 341- 270 TCN) dùng lập luận sau đây để bác bỏ quan niệm về Thượng đế. Theo chủ nghĩa vô thần thì quan niệm tôn giáo về một vị Thượng đế toàn năng, toàn thiện, giàu lòng nhân ái sẽ mâu thuẫn với một thực tế không thể chối cãi được là trong thế giới đang tồn tại đầy rẫy điều ác. Êpicuya lập luận: Nếu Thượng đế muốn loại bỏ điều ác nhưng ngài không làm được thì ngài không phải là toàn năng. Còn nếu ngài có khả năng loại bỏ điều ác nhưng ngài không muốn làm thì ngài không phải người giàu lòng nhân ái. Còn nếu ngài muốn loại bỏ điều ác và ngài hoàn toàn có khả năng làm được thì thử hỏi tại sao điều ác vẫn tồn tại trong thế 18 giới? Trong thế giới tồn tại đầy rẫy điều ác có nghĩa là Thượng đế hoặc không phải là toàn năng, hoặc không phải là giàu lòng nhân ái. Điều này mâu thuẫn với quan niệm về một vị Thượng đế toàn năng, toàn thiện, giàu lòng nhân ái. Tuy nhiên, việc vận dụng luật phi mâu thuẫn cũng gây ra một sự nhầm lẫn đáng tiếc quy mọi mâu thuẫn về sai lầm chủ quan. Tư duy có mâu thuẫn cũng đồng ... p, sđd, t. 20, tr. 390 - 391. 146 Như vậy, sự phân chia xã hội thành giai cấp là có tính khách quan, tất yếu do chế độ tư hữu và quy luật phân công lao động trong điều kiện lực lượng sản xuất thấp và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất. Khi lực lượng sản xuất còn ở trình độ quá thấp phù hợp với chế độ công hữu nguyên thủy thì sự phân công lao động cũng chưa phát triển. Những người quản lý thị tộc, bộ lạc cũng lao động sản xuất như những người khác, chưa hình thành một tầng lớp quản lý tách rời lao động sản xuất. Đồng thời cũng do trình độ quá thấp của lực lượng sản xuất, không có của cải dư thừa nên tình trạng ăn bám, bóc lột cũng không thể tồn tại được. Ở một trình độ phát triển nhất định của lực lượng sản xuất tất yếu hình thành một giai cấp nắm hết tư liệu sản xuất, quản lý sản xuất, từ đó nắm quyền quản lý nhà nước, lợi dụng địa vị trong sản xuất và quản lý nhà nước để “chiếm đoạt lao động” của giai cấp những người lao động. Điều này cũng được V.I. Lênin phân tích trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”. Cũng theo các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác-Lênin, giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh viễn; nó chỉ tồn tại trong những điều kiện lịch sử nhất định. Nếu giai cấp ra đời và tồn tại dựa trên sự phát triển không đầy đủ của lực lượng sản xuất, thì giờ đây nó sẽ bị sự phát triển đầy đủ của lực lượng sản xuất xóa bỏ. “Nhưng nếu do đó sự phân chia thành giai cấp có một tồn tại lịch sử chính đáng nào đó thì nó cũng chỉ có thể có lý do ấy trong một thời kỳ nhất định, trong những điều kiện 147 xã hội nhất định. Nó dựa trên sự sản xuất không đầy đủ; nó sẽ bị sự phát triển đầy đủ của lực lượng sản xuất hiện đại xóa bỏ.”1 Từ việc phân tích sự ra đời và tồn tại của giai cấp, Ph. Ăngghen chỉ ra khả năng và điều kiện xóa bỏ giai cấp. Đó là một trình độ phát triển cao của sản xuất. Bởi vì, với trình độ cao của lực lượng sản xuất thì chế độ tư hữu mới trở thành vật cản trở sự phát triển xã hội, người lao động mới có đủ năng lực và thời giờ tham gia vào các công việc chung. Họ sẽ trở thành người chủ thật sự của xã hội xã hội. Lúc đó, xã hội sẽ không có cần đến một giai cấp đặc biệt chiếm hữu tư liệu sản xuất và nắm độc quyền trong quản lý sản xuất, quản lý nhà nước và xã hội. “Và thật vậy sự xóa bỏ giai cấp xã hội giả định phải có một trình độ phát triển lịch sử trong đó sự tồn tại không chỉ của một giai cấp thống trị nhất định này hay một giai cấp thông trị nhất định khác, mà là của một giai cấp thống trị nói chung, do đó ngay cả sự phân chia giai cấp, cũng đều trở thành một điều không hợp thời đại, trở thành lỗi thời. Do đó sự xóa bỏ giai cấp giả định phải có một trình độ phát triển cao của sản xuất, trong đó việc một giai cấp đặc biệt chiếm hữu tư liệu sản xuất và sản phẩm, và do đó, chiếm cả quyền thống trị chính trị, độc quyền giáo dục và chỉ đạo tinh thần, không những trở nên thừa mà còn cản trở sự phát triển kinh tế, chính trị và tinh thần nữa.”2 1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 20, tr. 391. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 20, tr. 391. 148 Sự bất bình đẳng nam nữ cũng được Ph. Ăngghen phân tích một cách khoa học trong tác phẩm “Nguồn gốc của gia đình, của sở hữu tư nhân và nhà nước”. Dựa trên những tài liệu khoa học do các nhà xã hội sưu tập, Ph. Ăngghen chỉ ra rằng, chế độ mẫu quyền tồn tại phổ biến trong các thị tộc nguyên thủy. Khi trồng trọt và chăn nuôi ra đời và cùng với sự phát triển của chế độ tư hữu thì sự bất bình đẳng nam nữ lại chuyển sang một cực khác: đưa địa vị người đàn ông lên hàng chủ yếu và địa vị người phụ nữ xuống hàng thứ yếu. “Chế độ mẫu quyền bị lật đổ là sự thất bại lịch sử có tính chất toàn thế giới của giới phụ nữ.”1 Do trình độ phát triển thấp của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội mà người phụ nữ chịu sự thua kém về nhiều mặt so với nam giới. Từ sự phân tích đó, Ph. Ăngghen chỉ ra điều kiện để xóa bỏ sự bất bình đẳng nam nữ: “Sự thống trị của người đàn ông trong hôn nhân chỉ đơn thuần là kết quả của sự thống trị của họ về kinh tế, và sẽ tiêu vong cùng với sự thống trị về kinh tế.”2 “Chỉ có thể giải phóng được người phụ nữ khi người phụ nữ có thể tham gia sản xuất trên quy mô xã hội rộng lớn và chỉ phải làm công việc trong nhà rất ít. Nhưng chỉ với nền đại công nghiệp hiện đại, là nền công nghiệp không những thu nhận lao động của phụ nữ trên quy mô lớn, mà còn trực tiếp đòi hỏi phải có lao động phụ nữ và 1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 21, tr. 93. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 21, tr. 127. 149 ngày càng có xu hướng hòa tan lao động tư nhân của gia đình trong nền sản xuất công cộng, thì mới có thể thực hiện được điều nói trên.”1 2.5. Nắm được hệ thống mâu thuẫn của sự vật và quan hệ của mỗi mâu thuẫn trong hệ thống. Mâu thuẫn trong tự nhiên và trong xã hội đều tồn tại với những hệ thống nhất định. Mỗi mâu thuẫn là một tiểu hệ thống nằm trong một hệ thống lớn bao gồm nhiều mâu thuẫn. Do đó, việc xem xét mâu thuẫn trong hệ thống của nó cũng là một trong những nguyên tắc của phương pháp phân tích mâu thuẫn. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Phải phân tích rõ ràng và có hệ thống, phải biết rõ cái nào là mâu thuẫn chính, cái nào là mâu thuẫn phụ.”2 Cách tiếp cận cấu trúc-hệ thống đối với mâu thuẫn áp dụng không chỉ đối với cấu trúc nội tại của từng mâu thuẫn, mà còn cho cả hệ thống mâu thuẫn của sự vật. Cụ thể là: - Vạch ra tất cả các mâu thuẫn vốn có của sự vật. - Chỉ ra đặc điểm (đối kháng hay không đối kháng ...), vị trí (mâu thuẫn bên trong hay mâu thuẫn bên ngoài) của từng mâu thuẫn. 1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 21, tr. 241. 2. Hồ Chí Minh, Toàn tập, sđd, t. 5, tr. 302. 150 - Vạch ra mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu trong hệ thống. - Chỉ ra sợi dây liên hệ giữa các mâu thuẫn trong toàn bộ hệ thống. - Ngoài ra, cần nghiên cứu đầy đủ mối liên hệ của mâu thuẫn của sự vật với môi trường bên ngoài, với điều kiện không gian, thời gian của sự tồn tại của sự vật. Khi phân tích hệ thống mâu thuẫn của sự vật, như mâu thuẫn của một chế độ xã hội, của một thời kỳ lịch sử, trước hết chúng ta phải chỉ ra tất cả những mâu thuẫn của nó trên tất cả các mặt: kinh tế, chính trị, xã hội, tư tưởng, v.v.. Đồng thời phải xác định tính chất của từng mâu thuẫn, như đối kháng - không đối kháng, cơ bản - không cơ bản, chủ yếu - thứ yếu ... Việc xác định mâu thuẫn đối kháng hay không không đối kháng giúp ta có thái độ đúng đắn đối với từng mâu thuẫn cụ thể, phân biệt đâu là bạn, đâu là thù. Trong cách mạng dân tộc dân chủ, mâu thuẫn giữa lực lượng cách mạng với các thế lực thực dân, đế quốc và tay sai (trong đó có giai cấp tư sản mại bản) là mâu thuẫn đối kháng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mâu thuẫn giữa lực lượng cách mạng với các thế lực thù địch là mâu thuẫn đối kháng; nếu quên điều này sẽ rơi vào ảo tưởng. Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, mâu thuẫn giữa công nhân với những người quản lý doanh nghiệp tư nhân không còn là mâu thuẫn đối kháng như trong xã hội tư bản nữa. Các doanh nhân không phải là đối tượng của cách 151 mạng, mà họ là một trong những lực lượng quan trọng của cách mạng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cạnh tranh kinh tế là mâu thuẫn không đối kháng, những đối thủ cạnh tranh không phải là những “kẻ thù” của nhau; bởi vì những đối thủ đang cạnh tranh đều có chung lợi ích căn bản và đều cần phải tuân thủ những nguyên tắc chung về kinh doanh, về luật pháp, về đạo đức. Do đó, việc sử dụng bạo lực hoặc thủ đoạn hèn hạ để cạnh tranh trong bất cứ tình huống nào cũng đều trái với nguyên tắc kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, mâu thuẫn về tư tưởng và tín ngưỡng tuy vẫn còn nhưng không phải là mâu thuẫn đối kháng, cho nên các mặt đối lập chỉ có thể đấu tranh với nhau bằng tranh luận, chứ không thể bằng biện pháp áp đặt, lại càng không thể bằng bạo lực được. Ở một số nước tiên tiến hiện nay, người ta tổ chức những cuộc tranh luận trên internet và trong các trường đại học giữa những đại biểu thần học và vô thần về rất nhiều vấn đề liên quan đến tôn giáo và chủ nghĩa vô thần. Hai bên đưa ra những lập luận lôgíc để chứng minh quan điểm của mình, bác bỏ quan điểm đối phương trước sự tham dự và bỏ phiếu tán thành hay không tán thành của hàng nghìn thính giả. Những cuộc tranh luận như vậy giúp cho mỗi bên có điều kiện hiểu biết lẫn nhau, phát triển lý luận của mình và nhất là qua đó đề cao tư duy lôgíc, khắc phục niềm tin mù quáng trong quần chúng. Việc phân loại mâu thuẫn bản chất và mâu thuẫn không bản chất, mâu thuẫn cơ bản và mâu thuẫn không cơ bản, 152 mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn không chủ yếu giúp ta nắm được những mâu thuẫn giữ vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng. Chẳng hạn, mâu thuẫn bản chất núp đằng sau những hiện tượng khủng bố, ném bom liều chết, v.v., đang diễn ra hằng ngày trên thế giới là gì? Từ một bài báo công bố năm 1993 trên Tạp chí Ngoại giao (Mỹ), đến năm 1996, S.P. Huntington cho ra đời một cuốn sách có nhan đề “Sự đụng độ giữa các nền văn minh và sự thiết lập lại trật tự thế giới”, trong đó luận điểm cơ bản là cuộc đụng độ giữa các nền văn minh là mâu thuẫn chính của thế giới hiện nay. Ông chia thế giới thành nhiều nền văn minh: văn minh phương Tây, văn minh Khổng giáo, văn minh Nhật Bản, văn minh Hồi giáo, văn minh Hinđu, văn minh Chính thống giáo Xlavơ, văn minh Mỹ Latin và có thể là văn minh châu Phi, trong đó có hai nền văn minh quan trọng nhất đối lập với phương Tây là nền văn minh Hồi giáo và nền văn minh châu Á. S.P. Huntington viết: “Giả thuyết của tôi là nguồn gốc cơ bản của sự xung đột trong thế giới mới trước hết sẽ không phải là vấn đề ý thức hệ hay kinh tế. Những sự chia rẽ to lớn trong nhân loại và nguồn gốc chủ yếu của xung đột sẽ là văn hóa... những xung đột chính của nền chính trị toàn cầu sẽ diễn ra giữa các quốc gia và những nhóm có nền văn hóa khác nhau.”1 1. S.P. Huntington, Sự đụng độ giữa các nền văn minh (The Clash of Civilizations), Tạp chí Ngoại giao (Foreign Affairs), 1993, Mùa Hè, t. 72, số. 3, tr. 7 - 9. 153 Quan điểm của S.P. Huntington được nhiều học giả hoan nghênh nồng nhiệt, được coi là “một trong những sự giải thích khoa học tốt nhất”. Nhất là sau vụ “11 tháng Chín” và cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ nhằm vào Afganistan, Iraq, càng có nhiều người thán phục “sự tiên tri”, “dự báo thiên tài” của Samuel P. Huntington. Thật ra, sự đụng độ giữa các nền văn minh, hay nói đúng hơn là giữa các nền văn hóa chỉ là mâu thuẫn hiện tượng, còn bản chất của nó vẫn là mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và các dân tộc bị áp bức, mâu thuẫn giữa các thế lực đơn phương, đơn cực, bá quyền với các lực lượng chống lại. Những mâu thuẫn này một phần bị biến dạng thành các cuộc khủng bố chống Mỹ và những thế lực thân Mỹ. Giữa các nền văn hóa cũng có mâu thuẫn nhất định. Các dân tộc có nền văn hóa khác nhau thường có khuynh hướng học tập lẫn nhau để bổ sung, phát triển nền văn hóa của dân tộc mình; đồng thời cũng sẵn sàng khước từ và chống đối lại sự du nhập những yếu tố văn hóa nước khác không phù hợp hoặc có hại cho văn hóa của dân tộc mình. Tuy nhiên, mâu thuẫn văn hóa không phải là mâu thuẫn đối kháng nên không thể dẫn đến những cuộc xung đột đẫm máu. Việc nắm vững mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng trong tính hệ thống, xác định đâu là mâu thuẫn cơ bản, mâu thuẫn chủ yếu; đâu là là mâu thuẫn phái sinh giúp ta thấy được mối liên hệ quy định lẫn nhau giữa các mâu thuẫn. Chẳng hạn mâu thuẫn dân tộc, mâu thuẫn tôn giáo bị quy 154 định bởi mâu thuẫn giai cấp. Khi đối kháng giai cấp trong nội bộ một dân tộc mất đi thì sự thù địch giữa các dân tộc, các tôn giáo cũng sẽ mất theo. Trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản”, C. Mác và Ph. Ăngghen viết: “Hãy xóa bỏ nạn người bóc lột người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng sẽ bị xóa bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự sự thù địch giữa các dân tộc cũng mất theo.”1 Mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp, các lực lượng xã hội đến lượt nó lại bị quy định bởi mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất mới và quan hệ sản xuất lỗi thời, mâu thuẫn giữa sở hữu và lao động (giữa chế độ tư hữu và lao động làm thuê). Như vậy, việc giải quyết một mâu thuẫn nhất định phải lấy việc giải quyết những mâu thuẫn khác làm tiền đề. Chẳng hạn, việc khắc phục tình trạng khủng bố hiện nay trên thế giới sẽ không thể thực hiện được nếu không giải quyết mâu thuẫn giữa các dân tộc bị áp bức với các thế lực đế quốc, mâu thuẫn cá nhân và xã hội, mâu thuẫn giữa các giai cấp, sắc tộc, tôn giáo v.v., trong nội bộ một dân tộc cũng như giữa các dân tộc trên thế giới. Ngoài việc phân loại, đánh giá vị trí, vai trò của các mâu thuẫn của sự vật, hiện tượng, việc phân tích hệ thống 1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 4, tr. 624. 155 mâu thuẫn còn đòi hỏi phải tính đến các yếu tố điều chỉnh của mâu thuẫn. Nghiên cứu giới sinh vật và xã hội, người ta thấy có sự tồn tại của những yếu tố tự điều chỉnh và điều chỉnh. Những yếu tố này ra đời và tồn tại một cách khách quan nhằm đảm bảo mối liên hệ hài hòa giữa các mặt đối lập. Chẳng hạn, não bộ và hệ thần kinh là yếu tố điều chỉnh mâu thuẫn giữa các yếu tố trong cơ thể sinh vật và mối quan hệ giữa sinh vật với môi trường; thị trường là yếu tố điều chỉnh mâu thuẫn giữa sản xuất và tiêu dùng; đạo đức là yếu tố điều chỉnh mối quan hệ giữa cá nhân và xã hội; nhà nước, luật pháp là những yếu tố điều chỉnh chung cho tất cả các mặt của đời sống xã hội trong xã hội có giai cấp. Khi một cơ thể sinh vật không còn khả năng tự điều chỉnh được mối liên hệ giữa hai mặt đồng hóa và dị hóa thì cũng có nghĩa là nó không còn khả năng hoạt động bình thường nữa. Khi một nhà nước không còn khả năng điều những mâu thuẫn trong xã hội thì xã hội sẽ rơi vào khủng hoảng. Các yếu tố điều chỉnh và tự điều chỉnh có vai trò rất quan trọng trong việc giải quyết thường xuyên đối với mâu thuẫn, đảm bảo sự kết hợp hài hòa các mặt đối lập. Tóm lại, phương pháp phân tích mâu thuẫn đòi hỏi chúng ta trước hết phải xác định đúng bản chất của từng mâu thuẫn thông qua vô số những mâu thuẫn hiện tượng; tiếp đến là phải phân tích cụ thể để nắm được cấu trúc của từng mâu thuẫn (phân đôi cái thống nhất và nhận thức các mặt đối lập); phải nắm các mặt đối lập trong mối quan hệ 156 giữa chúng (trong sự thống nhất, đồng nhất của chúng); phải hiểu rõ nguyên nhân, điều kiện tồn tại của mâu thuẫn và quá trình phát triển của mâu thuẫn; cuối cùng phải nắm được hệ thống mâu thuẫn của sự vật và mối liên hệ của mỗi mâu thuẫn trong hệ thống đó. Phân tích mâu thuẫn là điều kiện quyết định trong việc nhận thức mâu thuẫn cũng như nhận thức sự vật, hiện tượng nói chung. Có phân tích mâu thuẫn một cách đúng đắn thì mới tìm ra phương pháp đúng đắn để giải quyết mâu thuẫn.
File đính kèm:
- giao_trinh_mau_thuan_mot_so_van_de_ly_luan_va_thuc_tien_phan.pdf