Giáo trình Mâu thuẫn một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Phần 2)
Nhận thức mâu thuẫn gắn liền với việc giải quyết mâu
thuẫn. Mục đích của việc nhận thức mâu thuẫn là để, trên
cơ sở hiểu biết thực chất của từng mâu thuẫn hiện thực cụ
thể, tìm ra con đường, biện pháp giải quyết mâu thuẫn một
cách đúng đắn. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực của sự
phát triển trong chừng mực nó được giải quyết thường
xuyên, kịp thời và hợp quy luật. Trái lại, sự nhận thức và
giải quyết không đúng mâu thuẫn xã hội làm cho mâu thuẫn
bị biến dạng, có thể gây ra những xung đột xã hội không
cần thiết, thậm chí dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ của chế
độ xã hội.
Triết học Mác không dừng lại ở sự giải thích thế giới,
mà mục đích quan trọng hơn của nó là nhằm cải tạo thế
giới. Để có thể cải tạo thế giới một cách hợp quy luật, trước
hết chúng ta phải nhận thức được những quy luật và khả
năng tất yếu khách quan của sự vật, hiện tượng. Không phải
ngẫu nhiên mà Michel Vadée, một nhà triết học Pháp, đã
cho rằng C. Mác là “nhà tư tưởng của cái có thể”; cái có thể158
(le possible) ở đây được tác giả hiểu như là cái khả năng tất
yếu của sự phát triển. Triết học Mác nghiên cứu những quy
luật vận động, phát triển của thế giới, bản chất và những
quy luật của chủ nghĩa tư bản cũng là nhằm tìm ra những
khả năng tất yếu khách quan để cải tạo xã hội đó, vượt qua
xã hội đó.
Mục đích của việc nghiên cứu mâu thuẫn cũng vậy. Nó
không phải chỉ để giúp chúng ta hiểu được tính tất yếu
khách quan của mâu thuẫn rồi chấp nhận chúng như là
những định mệnh đã an bài. Triết học Mác không chỉ thừa
nhận mâu thuẫn mà còn vạch ra khả năng giải quyết từng
bước để đi đến giải quyết triệt để, hoàn toàn những mâu
thuẫn xã hội đang tồn tại. Đúng như Michel Vadée nhận
xét: “Đối với Mác, con người đang có ý thức về quá trình
lịch sử và càng ngày càng phải có ý thức hơn. Trong chừng
mực đó, họ có thể đẩy nhanh việc giải quyết mâu thuẫn
ngay khi mà họ hiểu biết ngày càng nhiều hơn về các động
lực phát triển thực sự trong quá khứ và trong hiện tại.”1
Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Mâu thuẫn một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Phần 2)
157 CHƯƠNG 4 VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN. MỘT SỐ NGUYÊN TẮC PHƯƠNG PHÁP LUẬN CỦA VIỆC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN Nhận thức mâu thuẫn gắn liền với việc giải quyết mâu thuẫn. Mục đích của việc nhận thức mâu thuẫn là để, trên cơ sở hiểu biết thực chất của từng mâu thuẫn hiện thực cụ thể, tìm ra con đường, biện pháp giải quyết mâu thuẫn một cách đúng đắn. Mâu thuẫn chỉ trở thành động lực của sự phát triển trong chừng mực nó được giải quyết thường xuyên, kịp thời và hợp quy luật. Trái lại, sự nhận thức và giải quyết không đúng mâu thuẫn xã hội làm cho mâu thuẫn bị biến dạng, có thể gây ra những xung đột xã hội không cần thiết, thậm chí dẫn đến khủng hoảng và sụp đổ của chế độ xã hội. Triết học Mác không dừng lại ở sự giải thích thế giới, mà mục đích quan trọng hơn của nó là nhằm cải tạo thế giới. Để có thể cải tạo thế giới một cách hợp quy luật, trước hết chúng ta phải nhận thức được những quy luật và khả năng tất yếu khách quan của sự vật, hiện tượng. Không phải ngẫu nhiên mà Michel Vadée, một nhà triết học Pháp, đã cho rằng C. Mác là “nhà tư tưởng của cái có thể”; cái có thể 158 (le possible) ở đây được tác giả hiểu như là cái khả năng tất yếu của sự phát triển. Triết học Mác nghiên cứu những quy luật vận động, phát triển của thế giới, bản chất và những quy luật của chủ nghĩa tư bản cũng là nhằm tìm ra những khả năng tất yếu khách quan để cải tạo xã hội đó, vượt qua xã hội đó. Mục đích của việc nghiên cứu mâu thuẫn cũng vậy. Nó không phải chỉ để giúp chúng ta hiểu được tính tất yếu khách quan của mâu thuẫn rồi chấp nhận chúng như là những định mệnh đã an bài. Triết học Mác không chỉ thừa nhận mâu thuẫn mà còn vạch ra khả năng giải quyết từng bước để đi đến giải quyết triệt để, hoàn toàn những mâu thuẫn xã hội đang tồn tại. Đúng như Michel Vadée nhận xét: “Đối với Mác, con người đang có ý thức về quá trình lịch sử và càng ngày càng phải có ý thức hơn. Trong chừng mực đó, họ có thể đẩy nhanh việc giải quyết mâu thuẫn ngay khi mà họ hiểu biết ngày càng nhiều hơn về các động lực phát triển thực sự trong quá khứ và trong hiện tại.”1 Để hiểu một cách thấu đáo vấn đề giải quyết mâu thuẫn, trước hết cần làm rõ khái niệm khoa học này, sau đó cần nghiên cứu kỹ những nguyên tắc chung của việc giải quyết mâu thuẫn. Trong chương này, chúng tôi cũng chủ yếu đề cập đến mâu thuẫn trong đời sống xã hội. 1. Xem Michel Vadée, Marx nhà tư tưởng của cái có thể (gồm 2 tập), Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996, t. 1, tr. 4; t. 2, tr. 333 - 334. 159 1. NHỮNG QUAN NIỆM KHÔNG ĐÚNG TRONG VẤN ĐỀ GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN Những thiếu sót được trình bày sau đây, tuy phần lớn đã được khắc phục trong quá trình đổi mới ở nước ta, nhưng dù sao việc nhìn lại chúng một cách có hệ thống có thể sẽ bổ ích cho việc xây dựng một cách tiếp cận mới đối với việc giải quyết những mâu thuẫn nảy sinh trong xã hội ta hiện nay. 1.1. Giải quyết mâu thuẫn bị đồng nhất với việc xóa bỏ mâu thuẫn Trong thời gian trước đây cũng như hiện nay, nhiều khi khái niệm “giải quyết mâu thuẫn” bị đồng nhất với việc xóa bỏ mâu thuẫn. Cách hiểu này xuất phát từ quan niệm không thừa nhận tính tất yếu, khách quan của mâu thuẫn, cho rằng bất kỳ mâu thuẫn nào cũng đều không bình thường, trái tự nhiên, cũng đều xấu và tiêu cực. Theo quan niệm này, mâu thuẫn cản trở, kìm hãm sự phát triển; do đó chỉ có loại bỏ mâu thuẫn mới làm cho sự vật phát triển được. Chúng tôi hoàn toàn đồng ý với quan điểm của G.X. Batisev trong tác phẩm “Mâu thuẫn với tính cách là phạm trù của lôgíc học biện chứng” . Tác giả viết : “Giải quyết mâu thuẫn biện chứng không có gì chung với việc “loại bỏ” nó” , “Loại bỏ mâu thuẫn biện chứng là hoàn toàn không có khả năng. Ở đây nguyện vọng và ý chí của bất kỳ ai đều không có vai trò gì hết”... “Giải quyết mâu thuẫn biện chứng là giành thắng lợi đối với vấn đề, “giải quyết” nó một 160 cách giả tạo bằng cách “loại bỏ” là chạy trốn một cách nhục nhã, thậm chí là lẩn tránh ngay cả cách đặt vấn đề.”1 Trong thời gian trước đây, việc giải quyết mâu thuẫn bị đồng nhất với việc loại bỏ mâu thuẫn và thường được thực hiện bằng cách tiêu diệt, loại bỏ một trong hai mặt hợp thành mâu thuẫn. Mặc dù tính vô căn cứ của cách giải quyết mâu thuẫn như vậy đã bị nhiều nhà lý luận phê phán, nhưng trên thực tế, nó vẫn vô tình hay hữu ý được áp dụng một cách tương đối phổ biến. Cách làm này xuất phát từ sự đánh giá không đúng vai trò của mỗi mặt đối lập tạo nên chỉnh thể. Toàn bộ tính đa dạng, phong phú của mâu thuẫn xã hội bị quy kết một cách giản đơn về mâu thuẫn giữa cái mới và cái cũ, cái tốt và cái xấu và cuộc đấu tranh của hai mặt đối lập tất yếu sẽ dẫn đến mặt này thắng mặt kia, tức cái mới thắng cái cũ. Những thí dụ về cách giải quyết mâu thuẫn như vậy có thể tìm thấy trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước đổi mới, như giải quyết mâu thuẫn giữa hai hình thức sở hữu - sở hữu xã hội và sở hữu tư nhân, giữa độc quyền và cạnh tranh, giữa kế hoạch và thị trường, giữa lợi ích xã hội và lợi ích cá nhân, v.v.. Hậu quả của việc giải quyết mâu thuẫn bằng cách loại bỏ một mặt và giữ lại mặt kia, trên thực tế là biến một mặt vốn là cái phiến diện thành cái toàn diện, cái bộ phận thành 1. G.S. Batisev, Mâu thuẫn với tính cách là phạm trù của lôgic học biện chứng (Противоречие как категория диалектической логики), Nxb Đại học, Matxcơva, 1963, tr. 80, 83, 85. 161 cái toàn thể, cái tương đối thành cái tuyệt đối. Tất nhiên, quá trình phát triển của sự vật không loại trừ khả năng cái lúc đầu chỉ là bộ phận về sau biến thành cái toàn thể, một mặt của sự vật (cái mới xuất hiện trong lòng cái cũ) biến thành một bản chất độc lập. Tuy nhiên, điều đó chỉ xảy ra một cách hợp quy luật trong những điều kiện nhất định, chứ không phải được thực hiện một cách chủ quan, bất chấp những điều kiện cụ thể. Cách “giải quyết” mâu thuẫn bằng cách loại bỏ mâu thuẫn, loại bỏ một trong hai mặt đối lập chẳng những không giải quyết được mâu thuẫn mà chỉ làm cho mâu thuẫn bị biến dạng mà thôi. 1.2. Thỏa mãn với việc giải quyết mâu thuẫn ở cấp độ hiện tượng Do tính bảo thủ của cơ chế cũ trong thời kỳ trước đổi mới, người ta thường thỏa mãn với việc giải quyết mâu thuẫn ở hiện tượng, lẩn tránh việc giải quyết mâu thuẫn ở bản chất của nó. Cách giải quyết này chỉ tạo ra một sự thống nhất tạm thời ở hiện tượng bên ngoài của xã hội, nhưng trong bản chất, mâu thuẫn vẫn chưa được giải quyết. Nhìn bề ngoài của đời sống xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa trước thời kỳ khủng hoảng, có vẻ như mọi mâu thuẫn đều được giải quyết một cách tốt đẹp: không có cạnh tranh kinh tế, không có biến động trong giá cả, thị trường và đời sống; không có sự xung đột về lợi ích giữa các cá nhân, giữa các giai cấp, giữa các chủng tộc; không có sự đối lập giữa người giàu và người nghèo, giữa lao động 162 trí óc và lao động chân tay, giữa thành thị và nông thôn, v.v., nhưng thực ra đó chỉ là những biểu hiện bên ngoài, còn trong bản chất, sự xung đột giữa nền sản xuất xã hội với hình thức sở hữu, quản lý, phân phối tập trung quan liêu, bao cấp vẫn càng ngày càng phát triển gay gắt và không được giải quyết kịp thời. Mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội, giữa các tầng lớp nhân dân và nhà nước... tích lũy lâu ngày, bị biến dạng, trở thành cái kìm hãm sự phát triển xã hội, cuối cùng dẫn đến tình trạng khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội. Trái với quan niệm siêu hình, phép biện chứng duy vật cho rằng mâu thuẫn có quá trình ra đời, tồn tại và phát triển một cách khách quan và do đó, sự giải quyết mâu thuẫn cũng là quá trình khách quan, không phụ thuộc vào nguyện vọng chủ quan của bất kỳ cá nhân hay giai cấp nào. Con người không thể xóa bỏ mâu thuẫn khách quan hay xóa bỏ một mặt của nó. Tuy nhiên, điều khẳng định này chỉ nhằm chống lại việc giải quyết mâu thuẫn một cách chủ quan, tùy tiện, chứ tuyệt nhiên không nhằm hạ thấp vai trò to lớn của nhân tố chủ quan trong việc giải quyết mâu thuẫn. Thế nhưng, nhân tố chủ quan dù to lớn đến bao nhiêu cũng không thể đi ngược lại quy luật khách quan. Vai trò của nhân tố chủ quan có tác dụng đến mức độ nào phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhưng trước hết, phụ thuộc vào việc nhận thức đúng đắn bản chất của mâu thuẫn và những điều kiện khách quan của sự giải quyết mâu thuẫn. 163 2. CÁC CÁCH VÀ HÌNH THỨC GIẢI QUYẾT MÂU THUẪN Hiện nay, chưa có một nhà triết học hay một cuốn sách giáo khoa nào có ý định đưa ra một định nghĩa thống nhất cho khái niệm “giải quyết mâu thuẫn”. Có lẽ cũng chưa có một khái niệm triết học nào phức tạp và gây ra bao nhiêu sự nhầm lẫn bằng khái niệm giải quyết mâu thuẫn. Bởi vì, có nhiều cách giải quyết mâu thuẫn khác nhau, mỗi cách lại có những hình thức khác nhau. Mâu thuẫn được giải quyết bằng nhiều cách và hình thức đa dạng, phong phú. Tuy nhiên, mâu thuẫn được giải quyết theo cách nào, sự chuyển hóa của các mặt đối lập được thực hiện bằng những hình thức nào không phải do con người quyết định. Con người không thể tự đề ra những cách và những hình thức giải quyết mâu thuẫn theo ý muốn chủ quan của mình. Do đó, việc nghiên cứu vạch ra tất cả các cách và các hình thức giải quyết mâu thuẫn trong thế giới khách quan sẽ cho chúng ta một cách nhìn bao quát hơn và giúp chúng ta tránh được những sai lầm chủ quan có thể có trong vấn đề giải quyết mâu thuẫn. Trước hết chúng ta nhận thấy rằng tất cả các hình thức giải quyết mâu thuẫn có điểm chung là khi mâu thuẫn đã được giải quyết thì sự xung đột giữa hai mặt đối lập vĩnh viễn mất đi hoặc tạm thời lắng dịu. Tuy nhiên, tùy theo kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn: mâu thuẫn vĩnh viễn mất đi hay mâu thuẫn vẫn còn nhưng sự đấu tranh giữa hai mặt đối lập tạm thời mất đi hoặc lắng dịu, mà người ta chia ra các cách giải quyết mâu thuẫn khác nhau. 164 C. Mác và Ph. Ăngghen nói đến nhiều cách và nhiều hình thức giải quyết mâu thuẫn. Nhìn chung, có thể khái quát chúng lại thành hai cách cơ bản: việc giải quyết mâu thuẫn một cách thường xuyên, cục bộ và việc giải quyết mâu thuẫn một cách triệt để, hoàn toàn. 2.1. Việc giải quyết triệt để, hoàn toàn của mâu thuẫn Trước hết, nói về việc giải quyết triệt để hay giải quyết hoàn toàn đối với mâu thuẫn. Cũng tương tự như điều khẳng định: vật chất thì vô thủy vô chung, còn những sự vật, hiện tượng cụ thể thì bao giờ cũng có quá trình ra đời, tồn tại và mất đi; sự tồn tại của mâu thuẫn cũng cần phải được hiểu như vậy. Có những mâu thuẫn tồn tại phổ biến như bản thân thế giới vật chất (thí dụ, mâu thuẫn giữa cái riêng và cái chung, giữa bản chất và hiện tượng, giữa tất nhiên và ngẫu nhiên, giữa cái vô hạn và cái có hạn, v.v.); có những mâu thuẫn tồn tại lâu dài gắn liền với những lĩnh vực nhất định của thế giới vật chất, thí dụ, mâu thuẫn giữa đồng hóa và dị hóa ra đời cùng với giới sinh vật và chỉ mất đi khi giới sinh vật không còn nữa; có những mâu thuẫn cụ thể gắn liền với những sự vật cụ thể, những mâu thuẫn này có quá trình ra đời, trải qua những giai đoạn phát triển nhất định và cuối cùng sẽ mất đi - tức là được giải quyết hoàn toàn. Điều khẳng định trên cũng được áp dụng cho đời sống xã hội: xã hội loài người nói chung thì tồn tại lâu dài, nhưng một hình thái kinh tế - xã hội cụ thể thì chỉ tồn tại 165 trong một khoảng thời gian có hạn. Do vậy, mâu thuẫn xã hội cũng có những cái tồn tại lâu dài cùng với xã hội loài người, cũng có những cái chỉ tồn tại có thời hạn trong một hay một số hình thái kinh tế - xã hội. Chẳng hạn, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nói chung là mâu thuẫn phổ biến của xã hội loài người, nó tồn tại trong tất cả các hình thái kinh tế - xã hội, do đó, không thể nói rằng có sự giải quyết hoàn toàn mâu thuẫn này. Tuy nhiên, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất trong từng hình thái kinh tế - xã hội thì lại được giải quyết hoàn toàn cùng với sự thay thế hình thái kinh tế - xã hội đó bằng hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn. Chẳng hạn, mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất có tính xã hội và hình thức chiếm hữu tư bản chủ nghĩa biểu hiện thành sự đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản với tính cách là mâu thuẫn cơ bản của chế độ tư bản thì sẽ được giải quyết hoàn toàn cùng với sự hoàn thành của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa. Việc giải quyết triệt để, hoàn toàn đối với mâu thuẫn được thực hiện bằng những hình thức phong phú : Một trong những hình thức này là sự chuyển hóa cuối cùng của các mặt đối lập từ mặt này sang mặt kia. Ph. Ăngghen viết : “Biện chứng gọi là khách quan thì chi phối trong toàn bộ giới tự nhiên, còn biện chứng gọi là chủ quan, tức là tư duy biện chứng, thì chỉ là phản ánh sự chi phối, trong toàn bộ giới tự nhiên, của sự vận động thông qua những mặt đối lập, tức là những mặt, thông qua sự đấu tranh 166 thường xuyên của chúng và sự chuyển hóa cuối cùng của chúng từ mặt đối lập này thành mặt đối lập kia, resp (tương tự) với những hình thức cao hơn, đã quy định sự sống của giới tự nhiên.”1 Đây là hình thức giải quyết mâu thuẫn, chẳng hạn, giữa cái cũ và cái mới, giữa các hình thái kinh tế - xã hội ... Cái mới ra đời từ trong lòng cái cũ, là mặt đối lập với cái cũ, hợp thành với cái cũ một mâu thuẫn. Sự giải quyết mâu thuẫn này chính là cái mới phủ định cái cũ, đưa sự vật tiến lên một trạng thái mới về chất. Lúc đó, cái mới không còn là một mặt nữa, mà trở thành một sự vật mới có mâu thuẫn mới. Thí dụ, trong thế kỷ XV-XVI, những tiền đề của chủ nghĩa tư bản xuất hiện trong lòng hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, là mặt đối lập của chế độ phong kiến. Kết quả cuối cùng của cuộc đấu tranh của hai mặt đối lập này là chế độ tư bản chủ nghĩa phủ định chế độ phong kiến, hay nói cách khác là sự chuyển từ chế độ phong kiến lên chế độ tư bản chủ nghĩa. Chế độ tư bản chủ nghĩa từ chỗ chỉ là mầm mống trong xã hội phong kiến đã trở thành một sự vật độc lập. C. Mác và Ph. Ăngghen cũng nói đến hình thức giải quyết mâu thuẫn bằng sự “dung hợp” của hai mặt đối lập “thành một phạm trù mới”2. Trong đời sống hiện thực, việc giải quyết mâu thuẫn không phải lúc nào cũng bằng cách 1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 20, tr. 694. 2. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 4, tr. 191. 167 mặt này chiến thắng, phủ định mặt kia. Nhiều khi mâu thuẫn được giải quyết bằng cách cả hai mặt dung hợp lại với nhau tạo thành sự vật mới. Cách giải quyết này có ở trong giới vô sinh (quá trình tạo thành hợp chất), trong sinh vật (giống đực và giống cái), trong tư duy (hai lý thuyết phiến diện đối lập nhau dung hợp với nhau tạo nên một lý thuyết thứ ba hoàn chỉnh hơn). Việc giải quyết triệt để hoàn toàn của một mâu thuẫn còn được thực hiện bằng cách cả hai mặt của mâu thuẫn đều mất đi, sự vật chuyển lên một chất mới, với mâu thuẫn mới. Chẳng hạn, khi mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản được giải quyết một cách triệt để thì cả hai giai cấp đều mất đi. Mâu thuẫ ... ский словарь (Từ điển Bách khoa triết học), Главная редакция: Л.Ф. Ильичев, П.Н. Федосеев, С.М. Ковалев, В.Г. Панов, Советская Энциклопедия, Москва, 1983. 49. А.С. Ципко, Противоречия учения Карла Маркса (Những mâu thuẫn trong học thuyết của Các Mác), trong tác phẩm: Через тернии, Прогресс, Москва, 1990, 60 - 83. 50. Г.М. Штракс, Социальное противоречие (Mâu thuẫn xã hội), Мысль, Москва, 1977. 51. Robert Audi (General Editor), The Cambridge Dictionary of Philosophy (Từ điển triết học Cambridge), Cambridge University Press, 1996. 52. S.P. Huntington, The Clash of Civilizations (Sự đụng độ giữa các nền văn minh), Foreign Affairs, 1993, Summer , Vol. 72, N. 3. 53. T.Z. Lavine, From Socrates to Sartre: The Philosophic Quest (Từ Xôcrat đến Sartre: Sự đi tìm triết học), Bantam Books, New York, 1989. 54. Michael Martin, Atheism: A Philosophical Justification (Chủ nghĩa vô thần: Sự chứng minh về mặt triết hoc), Philadelphia, PA: Temple University Press, 1990. 55. Thomas Mautner (Editor), A Dictionary of Philosophy (Từ điển triết học), Blackwell Publishers Ltd, Oxford, 1996. 261 56. Microsoft Encarta Reference Library 2005 (Thư viện tra cứu bách khoa của Microsoft) , 500 largest US businesses, Microsoft Corporation, 2004 57. Richard Norman, The Problem of Contradiction (Vấn đề mâu thuẫn). Trong tác phẩm: Hegel, Marx and Dialectic: A Debate (Thảo luận về Hêghen, Mác và Phép biện chứng), Gregg Revivals, Hampshire, England, 1994. 58. Bertrand Russel, Why I am not a Christian and other Essays on Religion and related Subjects (Tại sao tôi không theo Ki tô giáo và những tiểu luận khác về tôn giáo và các vấn đề có liên quan), edited by Paul Edwards, Touchstone, Old Tappen, New Jersey USA, 1967. 59. Sean Sayers, On the Marxist Dialectic (Về Phép biện chứng mácxít) Trong tác phẩm: Hegel, Marx and Dialectic: A Debate (Thảo luận về Hêghen, Mác và Phép biện chứng) , Gregg Revivals, Hampshire, England, 1994. 60. Richard Schmitt, Introduction to Marx and Engels: A Critical Reconstruction (Nhập môn về Mác và Ăngghen: Sự cấu tạo lại có phê phán), Westview Press, Boulder and London, 1987. MÂU THUẪN MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN Chịu trách nhiệm xuất bản: TS. VI QUANG THỌ Biên tập: KIỀU VIỆT CƯỜNG Kỹ thuật vi tính: NGUYỄN KIM NỤ Sửa bản in: KIỀU VIỆT CƯỜNG Trình bày bìa: MINH TRANG In 500 cuốn khổ 14,5x20,5 cm tại Công ty Cổ phần In 15-Bộ CN Số đăng ký KHXB 53/1135/CXB cấp ngày 19/7/2005 In xong và nộp lưu chiểu tháng 11 năm 2005 MỘT SỐ Ý KIẾN BỔ SUNG CỦA TÁC GIẢ Quyển sách tuy được viết cách đây 8 năm, nhưng những vấn đề lý luận cơ bản được trình bày trong sách vẫn còn nguyên giá trị của nó; tuy vậy chúng tôi thấy có một vài biện pháp cụ thể cần được bổ sung, phát triển cho phù hợp và theo kịp với tình hình đất nước và thế giới. Trong chương V, tiết 1.2., khi bàn về mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản và phương pháp giải quyết nó, chúng tôi có viết: “Sự khác nhau giữa cơ sở hạ tầng kinh tế của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa tư bản không phải ở chỗ trong chủ nghĩa tư bản chỉ có thành phần kinh tế tư bản tư nhân và trong chủ nghĩa xã hội chỉ có kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Trong chủ nghĩa xã hội cũng phải có nhiều kiểu quan hệ sản xuất, nhiều thành phần kinh tế, nhưng sở hữu công cộng phải bao quát những tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội và thành phần kinh tế nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo.” (xem tr. 214). Tư tưởng này cũng được chúng tôi đề cập đến trong việc giải quyết một số mâu thuẫn quan trọng ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Qua thực tế diễn biến của tình hình đất nước và kinh nghiệm của nhiều nước tiên tiến trên thế giới trong những năm gần đây, chúng tôi thấy cần giải thích rõ hơn và bổ sung thêm một số ý kiến chung quanh vấn đề này như sau: 1. Về chế độ sở hữu Trong các văn kiện của Đảng ta thời kỳ đổi mới có nói đến sự tồn tại của ba chế độ sở hữu, trong đó có chế độ sở hữu tư nhân ở nước ta hiện nay, như vậy có trái với quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen coi việc xóa bỏ chế độ tư hữu là một nguyên tắc của cách mạng xã hội chủ nghĩa không? Thật ra, khi Mác và Ăngghen nói đến “chế độ tư hữu” hay chế độ công hữu là muốn nói đến toàn bộ chế độ kinh tế của một hình thái kinh tế - xã hội; mỗi hình thái kinh tế - xã hội có một chế độ sở hữu nhất định. Như vậy, “chế độ tư hữu” mà theo các ông cần phải xóa bỏ là chế độ kinh tế trong đó sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa là hình thức sở hữu cơ bản, nền tảng của xã hội, nó là cơ sở của tình trạng giai cấp này thống trị, áp bức và bóc lột giai cấp khác, chứ không phải là xóa bỏ toàn bộ hình thức sở hữu tư nhân nói chung. Còn ba chế độ sở hữu mà Đảng ta nói đến thực ra là ba hình thức sở hữu nằm trong chế độ sở hữu của chủ nghĩa xã hội, trong đó hình thức sở hữu công cộng là hình thức sở hữu cơ bản, nền tảng. Khi sở hữu công cộng trở thành nền tảng, khi tất cả mọi hình thức sở hữu và kinh doanh được đặt dưới sự quản lý một cách khoa học và có hiệu quả của nhà nước của dân, do dân và vì dân thì sẽ tránh được tình trạng bóc lột và áp bức giai cấp. Như vậy, tư tưởng của Đảng ta chẳng những không mâu thuẫn, mà còn là sự vận dụng sáng tạo tư tưởng của Mác và Ăngghen trong “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” vào điều kiện hiện nay ở nước ta. 2. Thế nào là “công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu” và mối quan hệ giữa công hữu và tư hữu? Theo chúng tôi, nên thay từ “chủ yếu” bằng từ “cơ bản” để được rõ nghĩa hơn. Khi nói “tư liệu sản xuất chủ yếu”, người ta nghĩ ngay đến nhà máy, công cụ, thiết bị, v.v., thực ra những tư liệu này không cố đinh, thường xuyên được thay thế, đổi mới nên có thể do nhà nước hoặc do tư nhân đầu tư, không nhất thiết phải thuộc về công hữu. Còn “tư liệu sản xuất cơ bản” là những tư liệu tương đối ổn định lâu dài, làm cơ sở, nền tảng của toàn bộ nền kinh tế, như đất đai, tài nguyên trong lòng đất; thực vật, động vật tự nhiên, khoáng sản ở núi rừng, sông, biển, thềm lục địa; các nguồn năng lượng; đường giao thông, sân bay, bến cảng, kho tàng; các công trình (kinh tế, văn hóa) được xây dựng từ nguồn vốn của nhà nước và tập thể, v.v., nhất thiết phải thuộc về công hữu. Ví dụ, bờ biển (và hải phận quốc gia) là sở hữu của toàn thể nhân dân nước đó (công hữu), còn khách sạn, nhà hàng, các công trình du lịch, vui chơi, giải trí, v.v., được xây dựng trên bờ biển tuy là những tư liệu sản xuất chủ yếu nhưng không nhất thiết phải thuộc về công hữu. Tuy nhiên những cá nhân hay tập thể sử dụng lợi thế của bờ biển để kinh doanh thì phải nộp thuế vào ngân sách nhà nước để chi cho công việc chung và phúc lợi của nhân dân. Tương tự như vậy, tư nhân muốn kinh doanh ngành giao thông - vận tải đường bộ, đường thủy hay đường hàng không thì cần phải có những kết cấu hạ tầng là đường giao thông, bến cảng, sân bay, v.v.. Như vậy, sở hữu công cộng là cơ sở, nền tảng, còn sở hữu tư nhân không thể độc lập với sở hữu công cộng, mà trái lại nó tồn tại trên cơ sở sở hữu công cộng. Đó là mối quan hệ biện chứng giữa sở hữu công cộng và sở hữu tư nhân trong chủ nghĩa xã hội. Chính tư tưởng về một chế độ sở hữu hai mặt như vậy đã được C. Mác nêu ra trong “Tư bản”. Theo Mác, chế độ sở hữu của xã hội tương lai là kết quả của hai lần phủ định, là sự thống nhất giữa sở hữu cá nhân và sở hữu công cộng, trong đó sở hữu công cộng là cơ sở. C. Mác viết: “Phương thức chiếm hữu tư bản chủ nghĩa do phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đẻ ra, và do đó cả chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa nữa đều là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của một quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định. Sự phủ định này không khôi phục lại chế độ tư hữu, mà khôi phục lại chế độ sở hữu cá nhân trên cơ sở những thành tựu của thời đại tư bản chủ nghĩa: trên cơ sở sự hiệp tác và sự chiếm hữu công cộng đối với ruộng đất và những tư liệu sản xuất do chính lao động làm ra.”1 1. C. Mác và Ph. Ăngghen, Toàn tập, sđd, t. 23, tr.1090. Đây chính là phương thức giải quyết mâu thuẫn giữa sở hữu cá nhân và sở hữu xã hội, là sự “dung hợp” của mặt đối lập trong một thể thống nhất mới. Tư tưởng này cũng được V.I. Lênin làm rõ trong tác phẩm “Những người bạn dân”: “Khi xây dựng lý luận xã hội chủ nghĩa của mình Mác đã đi đến kết luận là trong xã hội tương lai sẽ tồn tại một chế độ sở hữu vừa cá nhân, vừa công cộng, với tư cách là sự thống nhất tối cao của cái mâu thuẫn đã bị xoá bỏ.”1 Điều cần chú ý trong câu nói của Mác là ông không đồng nhất giữa chế độ tư hữu tư bản và sở hữu tư nhân. Chế độ tư hữu tư bản cần được xóa bỏ vì nó là kết quả của sự bóc lột. Còn sở hữu cá nhân là kết quả của “lao động của bản thân” người lao động. Trong câu nói của Lênin, trong chế độ sở hữu tương lai – một chế độ sở hữu vừa công cộng vừa cá nhân, khi hai mặt được kết hợp với nhau trong một thể thống nhất thì coi như mâu thuẫn đã được giải quyết, nhưng không phải là sự xóa bỏ một mặt mà là sự kết hợp hài hòa giữa hai mặt. 3. Về vai trò “chủ đạo” của kinh tế nhà nước. Đây là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất. Chẳng những trong thời kỳ khủng hoảng của chủ nghĩa xã hội những năm cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX, mà trong mấy năm gần đây ở nước ta, nhiều tập đoàn kinh tế nhà nước cũng rơi vào tình trạng trì trệ hoặc phá sản. Theo chúng tôi nghĩ, kinh tế 1. Xem V.I. Lênin, Toàn tập, sđd, t. 1, tr. 204-205 nhà nước có vai trò rất quan trọng trong một số lĩnh vực và thời kỳ nhất định. Có những lĩnh vực rất cần cho lợi ích lâu dài của đất nước và nhân dân nhưng tư nhân không không thể bỏ vốn ra kinh doanh vì không thể thu được lợi nhuận trực tiếp, ví dụ việc xây dựng các công trình thủy lợi, thủy điện lớn, các công trình giao thông lớn, như mở đường Trường Sơn, xây dựng và quản lý đường dây điện 500 KV, xây dựng nhà máy điện hạt nhân, chỉnh trang đô thị và nông thôn, v.v., và nhiều công trình phúc lợi khác. Mục đích của kinh tế nhà nước cũng khác với mục đích của kinh tế tư nhân. Đối với việc làm kinh tế của nhà nước thì hạch toán kinh tế chỉ nhằm đảm bảo “thu đủ chi”, có khi lấy lời chỗ này bù cho lỗ chỗ khác, nhiều khi chỉ vì lợi ích lâu dài, không tính đến lợi nhuận trước mắt. Việc làm kinh tế của nhà nước tuy không có lợi nhưng trong những điều kiện nhất định bắt buộc phải làm, không thể khác hơn được. Trong nhiều trường hợp nhà nước không trực tiếp kinh doanh nhưng có thể thuê các doanh nghiệp tư nhân làm và nhà nước giữ vai trò quản lý, giám sát nhưng vẫn thực hiện được mục đích phục vụ lợi ích công cộng. Ta thử so sánh việc nhà nước trực tiếp kinh doanh giao thông ở Liên Xô trước đây (vì hạch toán không chặt chẽ nên rất lãng phí, cá nhân thì được lợi nhưng nhà nước phải bù lỗ, rốt cục bị phá sản) với việc quản lý giao thông của nhà nước Singapore hay Canada hiện nay vừa tiện lợi vừa tránh được tình trạng lãng phí (các dịch vụ giao thông là của tư nhân được nhà nước thuê để phục vụ việc đi lại của nhân dân; nhà nước đảm bảo thu đủ chi, không có tình trạng bao cấp; nhà nước buộc các cơ sở tư nhân phải tuân thủ chặt chẽ quy định của nhà nước về lệ phí, tuyến đường, giờ giấc, văn hóa). Theo chúng tôi, nhà nước không cần kinh doanh và cũng nên tránh kinh doanh ở những lĩnh vực không có tính cấp thiết, nơi mà kinh tế tư nhân có thể làm tốt hơn, có lợi hơn, không ảnh hưởng gì đến an ninh quốc phòng, an sinh xã hội như công nghiệp đóng tàu chẳng hạn. Những doanh nghiệp nhà nước nào làm ăn thua lỗ lâu dài thi nên cổ phần hóa hoặc mạnh dạn giải thể, đừng lấy tiền của nhân dân để kéo dài sự tồn tại của tình trạng trì trệ này. Không những thế, khi thấy rằng một số cơ sở kinh doanh nào đó mà tư nhân có thể đảm nhận được, nhà nước quản lý và thu thuế thì có lợi hơn là trực tiếp đứng ra kinh doanh thì nên tiến hành xã hội hóa các cơ sở sản xuất này. 4. Về vai trò của quản lý nhà nước Một trong những điều kiện quan trọng nhất của việc giải quyết những mâu thuẫn xã hội là vai trò quản lý của nhà nước. Điều này chúng tôi chưa có điều kiện phân tích kỹ trong tác phẩm. Qua kinh nghiệm ở nước ta và trên thế giới trong những năm qua, chúng tôi nhận thấy rằng đây mới là yếu tố quyết định trực tiếp nhất đối với sự thành công hay thất bại trong việc giải quyết các mâu thuẫn xã hội. Như đã nói ở chương 1, trong một hệ thống mâu thuẫn thì có yếu tố tự điều chỉnh nằm trong quan hệ giữa hai mặt đối lập và yếu tố điều chỉnh nằm trong hệ thống của sự vật. Chẳng hạn, não bộ là trung tâm điều khiển và điều chỉnh của toàn bộ cơ thể. Nhà nước là cơ quan lãnh đạo và điều chỉnh của một quốc gia. Tất cả các mâu thuẫn trong một xã hội cụ thể không thể vận hành và được giải quyết một cách đúng đắn nếu không có vai trò quản lý của nhà nước hoặc nếu nhà nước yếu kém, không đủ năng lực quản lý xã hội. Nếu có sự quản lý tốt của nhà nước, tình trạng gian lận thương mại, làm hàng giả, hàng đểu, cung cấp hàng hóa, thực phẩm, dịch vụ kém chất lượng, độc hại có thể được ngăn chặn (kinh nghiệm thành công ở một số nước tiên tiến cho ta cơ sở để khẳng định điều này và một số điều sau). Với sự quản lý tốt của nhà nước, tình trạng an toàn giao thông, an ninh xã hội, tính mạng, tài sản của cá nhân được đảm bảo, những hiện tượng tiêu cực trong hành vi của cá nhân như tham nhũng và các hành vi tội phạm khác được ngăn chặn kịp thời. Với sự quản lý tốt của nhà nước mối quan hệ giữa lợi ích người làm thuê và người thuê mướn lao động được đảm bảo hài hòa, người nghèo, người thất nghiệp được trợ giúp vượt qua khó khăn, trẻ con sinh ra, người già yếu, tật nguyền được xã hội chăm sóc. Phần lớn những hiện tượng tiêu cực trong đời sống xã hội ở nước ta đều có nguyên nhân khách quan của nó từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu nên không thể một sớm một chiều mà khắc phục hết được, nhưng suy cho cùng do sự yếu kém trong quản lý nhà nước mà những hiện tượng này phát triển một cách không bình thường so với nhiều nước khác ở cùng một trình độ phát triển như nước ta. Chính vì thế, việc xây dựng thành công nhà nước pháp quyền có ý nghĩa quyết định sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Còn biện pháp xây dựng nhà nước thì cần phải nghiên cứu lý luận về nhà nước pháp quyền, học tập kinh nghiệm thành công ở các nước tiên tiến trong việc tổ chức bộ máy, hoạt động và công tác quản lý của nhà nước, không nên có sự phân biệt một cách cứng nhắc giữa nhà nước xã hội chủ nghĩa của chúng ta với những nhà nước khác được coi là “nhà nước tư sản”, “phi xã hội chủ nghĩa”. Những điều nêu trên chỉ nhằm trình bày ý kiến bổ sung, trao đổi thêm của tác giả về những nội dung đã viết trong cuốn sách của mình. Mong nhận được ý kiến nhận xét, đóng góp của độc giả. Ý kiến nhận xét và đóng góp xin gửi cho tác giả ở địa chỉ: ngthung46@gmai.com. Xin chân thành cám ơn! Tháng 9 – 2013 Tác giả: PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng
File đính kèm:
- giao_trinh_mau_thuan_mot_so_van_de_ly_luan_va_thuc_tien_phan.pdf