Quá trình hình thành thể chế chính trị dân chủ cộng hòa ở Việt Nam

Tóm tắt: Lịch sử phát triển thể chế chính trị Việt Nam có hai thời kỳ lớn: thời kỳ trước năm 1945

và thời kỳ sau năm 1945. Các thể chế chính trị trước năm 1945 đều gắn với chế độ phong kiến với

các tính chất chuyên chế, tập trung quyền lực, thiếu dân chủ. Kể từ sau năm 1945, khi nước Việt

Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thể chế chính trị Việt Nam đã thay đổi về chất. Ở thể chế chính trị

này, dân chủ, pháp quyền được đề cao, nhà nước hoạt động vì sự ấm no và hạnh phúc của nhân dân.

Quá trình hình thành thể chế chính trị dân chủ cộng hòa ở Việt Nam năm 1945 để lại những bài học

thực sự quý giá cho chúng ta trong công cuộc cải cách thể chế chính trị hiện nay

pdf 10 trang yennguyen 6440
Bạn đang xem tài liệu "Quá trình hình thành thể chế chính trị dân chủ cộng hòa ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Quá trình hình thành thể chế chính trị dân chủ cộng hòa ở Việt Nam

Quá trình hình thành thể chế chính trị dân chủ cộng hòa ở Việt Nam
 67
Quá trình hình thành thể chế chính trị 
dân chủ cộng hòa ở Việt Nam 
Phạm Quốc Thành1 
1 Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Email: thanh.pham131@gmail.com 
Nhận ngày 08 tháng 8 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 11 tháng 9 năm 2017. 
Tóm tắt: Lịch sử phát triển thể chế chính trị Việt Nam có hai thời kỳ lớn: thời kỳ trước năm 1945 
và thời kỳ sau năm 1945. Các thể chế chính trị trước năm 1945 đều gắn với chế độ phong kiến với 
các tính chất chuyên chế, tập trung quyền lực, thiếu dân chủ. Kể từ sau năm 1945, khi nước Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thể chế chính trị Việt Nam đã thay đổi về chất. Ở thể chế chính trị 
này, dân chủ, pháp quyền được đề cao, nhà nước hoạt động vì sự ấm no và hạnh phúc của nhân dân. 
Quá trình hình thành thể chế chính trị dân chủ cộng hòa ở Việt Nam năm 1945 để lại những bài học 
thực sự quý giá cho chúng ta trong công cuộc cải cách thể chế chính trị hiện nay. 
Từ khóa: Thể chế chính trị, dân chủ, cộng hòa, Việt Nam. 
Phân loại ngành: Sử học 
Abstract: The history of political institution development in Vietnam has two main stages: the one 
before 1945 and the one after 1945. The pre-1945 political institutions were all associated with 
feudalism with tyranny, concentrated power and the lack of democracy. Since 1945, when the 
Democratic Republic of Vietnam was born, Vietnam's political institution has changed 
qualitatively. In this political institution, democracy and the rule of law are promoted, with the state 
operating for the people’s prosperity and happiness. The process of forming the republican 
democratic political institution in Vietnam has left us with valuable lessons in the current political 
reform. 
Keywords: Political institution, democracy, republic, Vietnam. 
Subject classification: History 
1. Giới thiệu 
Thể chế chính trị là một trong những bộ 
phận quan trọng nhất trong nền chính trị 
của một quốc gia. Nó đảm nhiệm nhiều vai 
trò khác nhau, đặt ra những nguyên tắc giúp 
điều tiết hoạt động của từng thành tố tham 
gia cũng như toàn bộ đời sống chính trị. 
Thể chế chính trị dân chủ cộng hòa là 
một hình thức thể chế chính trị tiến bộ. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2017 
 68
Trong lịch sử chính trị Việt Nam, thể chế 
chính trị dân chủ cộng hòa đầu tiên được 
hình thành sau Cách mạng tháng Tám 
năm 1945. Sự ra đời của thể chế chính trị 
dân chủ cộng hòa đưa nhân dân Việt Nam 
thoát khỏi ách thống trị của chế độ thực dân 
nửa phong kiến, từng bước xây dựng một 
nước Việt Nam mới theo định hướng xã hội 
chủ nghĩa. Bài viết phân tích quan điểm sơ 
khai về thể chế chính trị dân chủ cộng hòa ở 
Việt Nam đầu thế kỷ XX; tư tưởng Hồ Chí 
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về mô 
hình thể chế chính trị kiểu mới ở Việt Nam 
đến năm 1945. 
2. Những quan điểm sơ khai về thể chế 
chính trị dân chủ cộng hòa ở Việt Nam 
đầu thế kỷ XX 
Trong những năm đầu thế kỷ XX, trước 
cảnh nước mất nhà tan và chế độ bóc lột 
nặng nề của thực dân Pháp đối với nhân 
dân ta, nhiều phong trào yêu nước lớn đã 
lần lượt ra đời và phát triển mạnh mẽ. 
Cùng lúc đó tư tưởng chính trị dân chủ từ 
nước ngoài đã du nhập vào Việt Nam; 
“qua văn chương, qua sách vở học thuật, 
giới sĩ phu tân tiến Việt Nam dần dần phát 
hiện ra một kho tàng tư tưởng mới lạ ở 
chính xứ sở kẻ thống trị mình” [19, tr.238]; 
nhiều phong trào ngay từ đầu đã mang màu 
sắc dân chủ tư sản, tiêu biểu là phong trào 
bạo động của Phan Bội Châu và phong trào 
cải cách của Phan Chu Trinh. 
Phan Bội Châu là một trong những nhân 
vật tiêu biểu cho xu hướng dân chủ tư sản ở 
Việt Nam. Tư tưởng chính trị chủ đạo thời 
kỳ đầu của ông là dùng lực lượng vũ trang 
để lật đổ đế quốc Pháp, nhờ ngoại viện để 
khôi phục độc lập, thiết lập nhà nước quân 
chủ lập hiến. Điều này được thể hiện qua 
việc ông cùng một số chí sĩ khác thành lập 
Duy Tân hội năm 1904. Mục đích của Duy 
Tân hội là xây dựng nền quân chủ lập hiến, 
học tập theo mô hình nhà nước của Nhật 
Bản. Tuy nhiên, sau khi phong trào Đông 
Du thất bại, đồng thời chứng kiến sự thành 
công của cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung 
Quốc, Phan Bội Châu đã “vứt bỏ những gì 
còn lại của tư tưởng phong kiến, thực sự trở 
thành người cộng hòa” [20]. Ông tập hợp 
lực lượng cách mạng và thành lập “Việt 
Nam Quang phục hội” vào năm 1912, với 
tôn chỉ chống Pháp giành độc lập, lập ra 
nước Cộng hòa Dân quốc Việt Nam. Trong 
giai đoạn cuối của sự nghiệp, Phan Bội 
Châu đã nói đến tính chính đáng của tư 
tưởng xã hội chủ nghĩa nhưng chưa theo tư 
tưởng này. Ông viết: “trong nhà tôi có treo 
bóng Lênin. Những sách sau nói về chủ 
nghĩa xã hội tôi đã có đọc nhiều, đã nghiên 
cứu rất kỹ, tôi vẫn công nhận rằng những lý 
thuyết ấy chính đáng, nhưng chưa có thể 
thực hành ở xứ này được”[20], “ở nước này 
vẫn chưa có sự phân chia rõ ràng của hai 
giai cấp tư bản và lao động” [20]. 
Phan Chu Trinh cũng là một đại biểu lớn 
của khuynh hướng dân chủ tư sản thời bấy 
giờ. Tư tưởng chính trị nổi bật của ông là 
đấu tranh ôn hòa, công khai, khai thông dân 
trí, mở mang dân quyền, dựa vào Pháp đánh 
đổ vua quan phong kiến, tiến tới giành độc 
lập. Ông từng nói với Phan Bội Châu: “nếu 
không đập tan được nền quân chủ thì dù có 
khôi phục được nước cũng không phải là 
phúc của dân” [6, tr.222]. Theo Nguyễn 
Đức Sự: “Phan Chu Trinh đã nêu ra tư 
tưởng dân chủ như một định hướng cho 
cuộc cải cách này. Nội dung cơ bản của tư 
tưởng dân chủ của Phan Chu Trinh là nâng 
cao dân quyền, là xây dựng thể chế chính trị 
và hệ thống pháp luật để bảo đảm cho dân 
Phạm Quốc Thành 
 69
quyền” [22]. Tuy nhiên, giống như Phan 
Bội Châu, Phan Chu Trinh cũng không 
vượt qua được những hạn chế trong tư 
tưởng của mình, “đó là sự ảo tưởng về bản 
chất của chủ nghĩa đế quốc, không thấy rõ 
đế quốc và phong kiến cấu kết với nhau, 
không thấy rõ những mâu thuẫn cơ bản của 
xã hội Việt Nam, quy luật của cách mạng 
Việt Nam” [18, tr.294]. 
Ngoài hoạt động của hai nhà cách mạng 
tiêu biểu trên, còn có một số phong trào 
khác (như sự kiện các sĩ phu Lương Văn 
Can, Nguyễn Quyền đã mở trường Đông 
Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội nhằm cổ động 
tinh thần yêu nước, bài xích thực dân Pháp, 
khởi nghĩa Yên Bái của Việt Nam Quốc 
dân Đảng do Nguyễn Thái Học lãnh 
đạo,). Tuy nhiên các phong trào này sau 
cùng đều thất bại. 
Nhìn chung, vào đầu thế kỷ XX, tại Việt 
Nam đã có sự du nhập của tư tưởng dân chủ 
tư sản (thể hiện ở đường lối chống chủ 
nghĩa thực dân nhằm giành lại độc lập, lập 
ra chế độ quân chủ lập hiến hay cộng hòa 
dân chủ). Tuy nhiên, những tư tưởng về dân 
chủ thời kỳ này còn thiếu khoa học, thiếu 
tính thực tiễn do những hạn chế tất yếu của 
giới nhân sĩ thời điểm đó. 
3. Tư tưởng của Nguyễn Ái Quốc trong 
giai đoạn từ năm 1911 đến trước 1930 
về mô hình thể chế chính trị kiểu mới ở 
Việt Nam 
Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất nhà 
tan, nên từ rất sớm Nguyễn Ái Quốc đã 
phải chứng kiến nỗi thống khổ của người 
dân mất nước, nỗi nhục của một dân tộc bị 
mất độc lập. Người cũng sớm nhận ra hạn 
chế của những người yêu nước đi trước. 
Người cho rằng, cầu viện Nhật Bản chẳng 
khác gì “đưa hổ cửa trước, rước beo cửa 
sau”, “ỷ Pháp cầu tiến bộ” chẳng khác gì 
“cầu xin Pháp rủ lòng thương”. Từ đó, 
Nguyễn Ái Quốc đã tự định ra cho mình 
một hướng đi mới: phải đi ra nước ngoài, 
xem xét nước Pháp và các nước khác làm 
thế nào để sau đó sẽ trở về giúp đồng 
bào mình. 
Từ năm 1911 đến năm 1917, Nguyễn Ái 
Quốc đã bôn ba qua nhiều châu lục, tới rất 
nhiều quốc gia, trong đó có cả những nước 
tư bản phát triển. Nhưng đi tới đâu, Người 
cũng thấy cảnh người bóc lột người, cuộc 
sống khổ cực, bị áp bức nặng nề của nhân 
dân lao động. Tiếp xúc với những tư tưởng 
mới mẻ, tiến bộ về dân chủ trong Tuyên 
ngôn độc lập của nước Mỹ và Tuyên ngôn 
Nhân quyền và Dân quyền nước Pháp, 
“Người đã phát hiện ra những khác biệt, 
mâu thuẫn trong những lời tuyên bố đó với 
sự thể hiện nó trong hiện thực” [24, tr.560], 
dần nhận ra bộ mặt nửa vời, giả tạo của nền 
dân chủ tư sản. Điều đó sau này được đúc 
kết qua tác phẩm Đường Cách mệnh (1927). 
Khi đánh giá về cách mạng Mỹ, Người viết: 
“Mỹ tuy rằng cách mệnh thành công đã hơn 
150 nǎm nay, nhưng công nông vẫn cứ cực 
khổ, vẫn cứ lo tính cách mệnh lần thứ hai. 
Ấy là vì cách mệnh Mỹ là cách mệnh tư bản, 
mà cách mệnh tư bản là chưa phải cách 
mệnh đến nơi” [8, tr.291-292]. Về cách 
mạng Pháp, Người đánh giá: “Cách mệnh 
Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là 
cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến 
nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ 
thực trong thì nó tước lục công nông, 
ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách 
mệnh đã bốn lần rồi, mà nay công nông 
Pháp hẵng còn phải mưu cách mệnh lần 
nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp bức. 
Cách mệnh An Nam nên nhớ những điều 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2017 
 70
ấy” [8, tr.296]. Như vậy, Nguyễn Ái Quốc 
đã nhận ra sự hạn chế của nền dân chủ 
tư sản. 
Năm 1917, Nguyễn Ái Quốc trở lại Pháp 
hoạt động cách mạng. Kể từ đây, những 
định hướng về một con đường đúng đắn 
cho cách mạng nước nhà, về cách thức tạo 
dựng thể chế dân chủ ở Việt Nam trong 
tương lai ngày một rõ ràng hơn. Định 
hướng này thể hiện qua những sự kiện tiêu 
biểu sau: 
Thứ nhất, năm 1919 Nguyễn Ái Quốc đã 
gửi Hội nghị Vécxai Bản yêu sách của nhân 
dân An Nam. Bản yêu sách này thể hiện 
những tư tưởng đầu tiên về quyền tự do, 
dân chủ ở một nước Việt Nam thuộc địa, 
trong đó nội dung điều thứ 7 và 8 thể hiện 
rõ tư tưởng của Người về một thể chế chính 
trị mới. Đó là: “Thay thế chế độ ra các 
sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật”, 
“Đoàn đại biểu thường trực của người bản 
xứ, do người bản xứ bầu ra, tại Nghị viện 
Pháp để giúp cho Nghị viện biết được 
những nguyện vọng của người bản xứ” [7, 
tr.469-470]. Thể chế mới mà Nguyễn Ái 
Quốc đề cập chính là thể chế nhà nước. Yêu 
sách thứ 7 đã nêu rõ: thay chế độ ra các sắc 
lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Có thể 
thấy, Nguyễn Ái Quốc đã đề cập trực tiếp 
tới việc thay đổi thể chế nhà nước theo thể 
chế dân chủ. Nhà nước không phải là một 
bộ máy chuyên chế, độc đoán, có quyền áp 
đặt một cách bừa bãi những sắc lệnh buộc 
mọi người phải tuân theo. Trái lại, nhà nước 
phải quản lý xã hội bằng pháp luật, những 
văn bản được làm ra từ ý chí và nguyện 
vọng của nhân dân mà chính nhà nước cũng 
phải nghiêm túc chấp hành. Đây cũng chính 
là những manh nha đầu tiên về tư tưởng xây 
dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 
Điều 8 trong bản yêu sách đã cụ thể hóa 
tinh thần dân chủ bằng một cách thức tổ 
chức chính quyền mới. Để thay đổi chế độ 
chính trị phản tự do, phản dân chủ tại 
Đông Dương lúc đó, Nguyễn Ái Quốc đã 
yêu sách tại điều 8 nhằm nâng cao quyền 
lợi và vị thế của nhân dân Việt Nam trong 
đời sống chính trị. Dù không được các 
nước lớn tại Hội nghị chấp nhận, nhưng 
Bản yêu sách của nhân dân An Nam năm 
1919 đã thể hiện rõ khát vọng dân chủ của 
nhân dân Việt Nam. Chính trong quá trình 
đấu tranh đòi thực hiện cho bản yêu sách 
này, Nguyễn Ái Quốc đã dần nhận thức rõ 
ràng hơn về vai trò của hiến pháp và luật 
pháp, về nội hàm của các phạm trù tự do, 
dân chủ, quyền tự quyết dân tộc. 
Thứ hai, Nguyễn Ái Quốc đọc Sơ thảo 
lần thứ nhất những luận cương về vấn đề 
dân tộc và vấn đề thuộc địa của V.I.Lênin 
đăng trên báo L’Humanité (Nhân đạo) của 
Đảng Xã hội Pháp vào tháng 7-1920. Từ đó, 
Người khẳng định: “Bây giờ học thuyết 
nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa 
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh 
nhất là chủ nghĩa Lênin” [8, tr.289], “Muốn 
cứu nước và giải phóng dân tộc không có 
con đường nào khác con đường cách mạng 
vô sản” [10, tr.30]. Tuy trong Luận cương 
của V.I.Lênin không đề cập trực tiếp tới 
vấn đề xây dựng thể chế chính trị mới ở các 
nước thuộc địa, nhưng nó đã tạo nên sự 
chuyển biến về chất trong tư tưởng của 
Nguyễn Ái Quốc từ chủ nghĩa yêu nước 
đến với chủ nghĩa cộng sản. Chính bước 
tiến lịch sử này đã định hướng cho con 
đường cách mạng tiếp theo của Nguyễn Ái 
Quốc, tác động không nhỏ tới tư duy của 
Người về thể chế chính trị sẽ xây dựng ở 
Việt Nam sau ngày độc lập. 
Thứ ba, sau khi trở về Quảng Châu 
(Trung Quốc) để tổ chức xây dựng lực 
Phạm Quốc Thành 
 71
lượng chuẩn bị thành lập Đảng và trực tiếp 
chuẩn bị cho cuộc đấu tranh giành độc lập 
tự do, Nguyễn Ái Quốc cùng một số nhà 
yêu nước Việt Nam gửi bức thư cho Hội 
Quốc Liên với tựa đề Nhời hô hoán cùng 
Vạn Quốc hội. Bức thư nêu rõ: “Chúng tôi 
yêu sách với vạn quốc quyền độc lập hoàn 
toàn tức khắc cho dân tộc Việt Nam và 
quyền tự quyết. Nếu được độc lập thì chúng 
tôi sẽ sắp xếp lấy một nền Hiến pháp theo 
như những lý tưởng dân quyền; còn nếu 
không thì có thể biết trước rằng không bao 
lâu nữa dân chúng tôi sẽ khởi nghĩa” [14]. 
Yêu sách này đánh dấu một bước phát triển 
lớn trong tư tưởng lập hiến của Nguyễn Ái 
Quốc, cho thấy nhận thức đúng đắn của 
Người khi coi hiến pháp không chỉ là một 
văn bản pháp luật đơn thuần, mà còn là cơ sở 
quan trọng để từ đó xây dựng một thể chế 
chính trị dân chủ. 
Trải qua gần hai mươi năm bôn ba ở 
nước ngoài, từ năm 1911 đến trước 1930, 
Nguyễn Ái Quốc đã không ngừng tìm tòi, 
khảo nghiệm về các cuộc cách mạng và thể 
chế chính trị ở khắp nơi trên thế giới. Nhờ đó, 
Người đã xác định rõ con đường của cách 
mạng Việt Nam là con đường cách mạng vô 
sản và dần định hình được hình thức, cấu trúc 
của thể chế chính trị của nước Việt Nam mới. 
4. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt 
Nam từ năm 1930 đến trước năm 1941 
về mô hình thể chế chính trị kiểu mới ở 
Việt Nam 
Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào 
đầu năm 1930 đã đánh dấu một bước ngoặt 
lịch sử của cách mạng Việt Nam. Cương 
lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng do Nguyễn 
Ái Quốc soạn thảo nêu rõ mục tiêu: “dựng 
ra chính phủ công nông binh” [9, tr.1], 
chuyển giao quyền lực cho dân chúng số 
nhiều. Như vậy, lần đầu tiên Nguyễn Ái 
Quốc và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vạch 
rõ một mô hình thể chế chính trị mà cách 
mạng hướng tới. 
Tại Hội nghị lần thứ nhất Ban chấp hành 
Trung ương vào tháng 10-1930, Đảng Cộng 
sản Đông Dương đã thông qua Luận cương 
chính trị. Luận cương đã khẳng định lại 
nhiều vấn đề căn bản mà Cương lĩnh chính 
trị đầu tiên đã nêu trước đó. Về chính trị, 
Luận cương tiếp tục khẳng định: “Muốn 
thực hành được những đều cốt yếu ấy thì 
phải dựng lên chánh quyền Xôviết công 
nông. Chỉ có chánh quyền Xôviết công 
nông mới là cái khí cụ rất mạnh mà đánh đổ 
đế quốc chủ nghĩa, phong kiến, địa chủ, làm 
cho dân cày có đất mà cày, làm cho vô sản 
có pháp luật bảo hộ quyền lợi cho mình” [3, 
tr.94]. Tuy nhiên, Luận cương chính trị do 
chưa nắm vững được những đặc điểm của 
một xã hội thuộc địa, nửa phong kiến như 
Việt Nam, kết hợp với nhận thức tả khuynh, 
giáo điều, nên đã không chấp nhận những 
quan điểm mới, sáng tạo, độc lập của 
Nguyễn Ái Quốc, dẫn tới “thủ tiêu chánh 
cương sách lược và Điều lệ cũ của Đảng” 
[3, tr.112]. Như vậy, chính quyền công - 
nông - binh chính là mô hình thể chế đầu 
tiên trong tư duy của Đảng. Đó là “thể chế 
của công - nông - binh, phát ruộng đất cho 
d ... ong 
kiến suy yếu, nhiều cấp ủy Đảng ở vùng 
Nghệ Tĩnh đã lãnh đạo nhân dân lập ra 
chính quyền cách mạng của công nhân, 
nông dân và quần chúng lao động, tức các 
Xã bộ nông. Xã bộ nông đã thực hiện nhiều 
chính sách quan trọng. Trong đó về chính 
trị, Xã bộ nông “ban bố quyền tự do dân 
chủ của nhân dân, tổ chức cho quần chúng 
tham gia các đoàn thể cách mạng, tự do bàn 
bạc, góp ý kiến giải quyết các vấn đề xã hội; 
phổ biến sách báo cách mạng; trừng trị bọn 
phản cách mạng, quản chế bọn hào lý, giữ 
gìn trật tự trị an” [12, tr.53]. Về kinh tế, văn 
hóa - xã hội, Xã bộ nông cũng đưa ra nhiều 
chính sách tiến bộ, phù hợp với nguyện 
vọng của nhân dân. Tuy nhiên, do còn thiếu 
kinh nghiệm, chưa có sự chuẩn bị chu đáo, 
mắc ảnh hưởng từ tư tưởng tả khuynh, quá 
nhấn mạnh tới vấn đề giai cấp, mắc phải 
những sai lầm ấu trĩ, tiêu biểu như khẩu 
hiệu “trí, phú, địa, hào, đào tận gốc, trốc tận 
rễ”, đồng thời do sự khủng bố dã man của 
thực dân Pháp, nên mô hình Xôviết Nghệ 
Tĩnh đã không thể tồn tại lâu dài. Mặc dù 
vậy, sự thành công bước đầu của Xôviết 
Nghệ Tĩnh đã đem lại niềm tin vững chắc 
của nhân dân vào Đảng, đồng thời giúp 
Đảng tự nhìn nhận lại những điểm còn hạn 
chế trong đường lối cách mạng của mình. 
“Chính thực tiễn sai lầm tả khuynh trong 
Xôviết Nghệ Tĩnh mà Đảng ta, trực tiếp là 
Trần Phú và các đồng chí trong Ban Chấp 
hành Trung ương, phát hiện và từng bước 
điều chỉnh chiến lược và sách lược ngay 
sau đó” [16, tr.199]. 
Hai là, chủ trương xây dựng Chính phủ 
Liên bang Cộng hoà dân chủ Đông Dương, 
thay cho hình thức nhà nước Xôviết. Tại 
Hội nghị Trung ương 6 diễn ra từ ngày 6 
đến ngày 8-11-1939, sau khi đánh giá tình 
hình trong nước và thế giới, Đảng kết luận: 
“tranh đấu chống đế quốc chiến tranh, đánh 
đổ đế quốc Pháp và bọn phong kiến thối nát, 
giải phóng các dân tộc Đông Dương làm 
cho Đông Dương hoàn toàn độc lập” [4, 
tr.537], “Lập Chính phủ Liên bang Cộng 
hòa dân chủ Đông Dương” [4, tr.542]. Đây 
là một bước chuyển hướng chiến lược quan 
trọng, cho thấy Đảng Cộng sản Đông 
Dương đã nhận nhiệm vụ chiến lược của 
cách mạng Việt Nam trước hết là tiến hành 
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Muốn 
cách mạng thành công, cần phải tập hợp tất 
cả những giai cấp, tầng lớp yêu nước tham 
gia cách mạng. Và mô hình thể chế dân chủ 
cộng hòa mới đáp ứng được yêu cầu đó. 
Không chỉ khảo nghiệm về mô hình nhà 
nước, Đảng Cộng sản Đông Dương trong 
giai đoạn này cũng có nhiều phát hiện mới 
mẻ trong vấn đề xây dựng các tổ chức 
chính trị - xã hội, trong đó quan trọng nhất 
là Mặt trận dân tộc thống nhất, một trong 
những bộ phận quan trọng của thể chế 
chính trị Việt Nam sau này. Đảng đã lập ra 
các mô hình mặt trận sau: Hội phản đế đồng 
minh (1930) với mục tiêu tập hợp lực lượng 
rộng rãi các tầng lớp nhân dân vào cuộc đấu 
tranh chống đế quốc, thực dân; Mặt trận 
thống nhất Nhân dân phản đế Đông Dương 
(1936) với mục tiêu chống lại đế quốc, phát 
xít; Mặt trận thống nhất Dân chủ Đông 
Dương (Mặt trận dân chủ Đông Dương) 
(1938) với mục tiêu đòi hòa bình, tự do, dân 
chủ, đánh dấu sự chuyển biến của Mặt trận 
từ một phong trào chuyển sang tính chất 
một tổ chức; Mặt trận thống nhất dân tộc 
phản đế Đông Dương (1939) và Mặt trận 
Thống nhất dân tộc chống phát xít Pháp - 
Phạm Quốc Thành 
 73
Nhật (1940) với mục tiêu đấu tranh chống 
đế quốc và bọn phong kiến, làm cho Đông 
Dương hoàn toàn độc lập. Các mô hình mặt 
trận trong từng thời kỳ đã hỗ trợ đắc lực 
cho Đảng Cộng sản Đông Dương trong quá 
trình lãnh đạo cách mạng. 
Như vậy, trong giai đoạn 1930 - 1941, 
Đảng đã có bước phát triển trong nhận thức 
về mô hình thể chế chính trị cho cách mạng 
Việt Nam. Ban đầu Đảng đề xuất mô hình 
chính phủ Xôviết, đến những năm 1939 - 
1941, Đảng chủ trương thay đổi mô hình 
Xôviết thành mô hình cộng hòa dân chủ. 
Đây là quyết định lịch sử, có ảnh hưởng sâu 
sắc tới sự thành công của cách mạng 
Việt Nam. 
5. Quá trình hiện thực hóa tư tưởng về 
thể chế chính trị dân chủ cộng hòa trong 
giai đoạn 1941 - 1945 
Năm 1941, tình thế thế giới và trong nước 
có nhiều biến động phức tạp. Sau nhiều 
năm bôn ba ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc 
đã trở về trực tiếp cùng Trung ương Đảng 
lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Một trong 
những dấu mốc quan trọng đánh dấu sự 
chuyển hướng chiến lược của Đảng ta về 
đường lối giải phóng dân tộc chính là Hội 
nghị Trung ương lần thứ 8, diễn ra từ ngày 
10 đến ngày 19-5-1941. Hội nghị đã đưa ra 
nhiều quyết sách quan trọng, xác định 
nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng 
là giải phóng dân tộc. Hội nghị cho rằng: 
“Trong lúc này quyền lợi của bộ phận, của 
giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong 
của quốc gia, của dân tộc. Trong lúc này 
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc 
giải phóng, không đòi được độc lập, tự do 
cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn 
thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp 
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, 
giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại 
được” [5, tr.113]. 
Về vấn đề xây dựng thể chế chính trị ở 
Việt Nam, Hội nghị Trung ương 8 đã kế 
thừa tinh thần của Hội nghị Trung ương 6 
(1939), chủ trương thành lập Chính phủ 
nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ 
Cộng hòa. Nghị quyết Hội nghị phân tích: 
“Riêng dân tộc Việt Nam, một dân tộc đông 
và mạnh hơn hết ở Đông Dương, sau lúc 
đánh đuổi được Pháp - Nhật sẽ thành lập 
một nước Việt Nam dân chủ mới theo tinh 
thần tân dân chủ. Chính quyền cách mạng 
của nước dân chủ mới ấy không phải thuộc 
quyền riêng của một giai cấp nào mà là của 
chung cả toàn thể dân tộc, chỉ trừ có bọn 
tay sai của đế quốc Pháp - Nhật và những 
bọn phản quốc, những bọn thù, không được 
giữ chính quyền, còn ai là người dân sống 
trên dải đất Việt Nam thảy đều được một 
phần tham gia giữ chính quyền, phải có một 
phần nhiệm vụ giữ lấy và bảo vệ chính 
quyền ấy” [7, tr.114]. 
Như vậy, tính chất dân chủ cộng hòa của 
nhà nước Việt Nam mới sẽ xây dựng đã 
được làm rõ, đó là một nhà nước không của 
riêng giai cấp nào, mà là một nhà nước của 
chung toàn thể nhân dân Việt Nam. Mô 
hình nhà nước này phù hợp với hoàn cảnh 
thực tế đất nước, đã tạo điều kiện thuận lợi 
để Đảng tập hợp đông đảo sự ủng hộ, giúp 
đỡ của nhân dân với mục tiêu cao nhất là 
giành độc lập cho Việt Nam. 
Hội nghị Trung ương 8 cũng quyết định 
thành lập Mặt trận Việt Nam Độc lập đồng 
minh (gọi tắt là Mặt trận Việt Minh) gồm 
các hội cứu quốc của các tầng lớp nhân dân. 
Sau khi ra đời, Mặt trận Việt Minh đã lôi 
cuốn hàng triệu người thuộc các giai cấp, 
tầng lớp khác nhau trong xã hội, tham gia 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2017 
 74
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc. “Mặt 
trận Việt Minh không chỉ là tổ chức chính 
trị - xã hội, mà còn đảm nhận vai trò của 
một chính quyền cách mạng. Ở vùng giải 
phóng, nó quản lý mọi mặt của đời sống 
xã hội, bao gồm cả kinh tế, chính trị, văn 
hóa - xã hội, an ninh quốc phòng, thậm 
chí còn ban hành chính sách đối nội, đối 
ngoại” [1, tr.42]. 
Kể từ Hội nghị trung ương 8, Đảng ta đã 
xác định rõ hình thức thể chế chính trị dân 
chủ cộng hòa cho nước Việt Nam mới, thể 
chế này bắt đầu được cụ thể hóa dưới nhiều 
hình thức khác nhau trong quá trình khởi 
nghĩa từng phần tiến tới Tổng khởi nghĩa. 
Quá trình hiện thực hóa thể chế chính trị 
dân chủ cộng hòa được thể hiện qua các sự 
kiện chính như sau: 
- Cuối tháng 10-1941, Mặt trận Việt 
Minh công bố Tuyên ngôn, Chương trình 
và Điều lệ. Sau đó, từ năm 1941 đến năm 
1942, hàng loạt các Hội cứu quốc (Công 
nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, Phụ nữ 
cứu quốc, Thanh niên cứu quốc,) được 
thành lập ở nhiều tỉnh miền Bắc và một số 
tỉnh miền Trung. Ở Cao Bằng đã xuất hiện 
hình thức chính quyền nhân dân là xã hoàn 
toàn, tổng hoàn toàn, nghĩa là toàn thể nhân 
dân đều gia nhập các tổ chức cứu quốc của 
Việt Minh. Trong khoảng thời gian từ cuối 
năm 1941 đến thời điểm tiền khởi nghĩa 
tháng Tám năm 1945, do chưa có chính 
quyền chính thức nên ở nhiều nơi, Mặt trận 
Việt Minh đóng vai trò như một hình thức 
“tiền chính phủ”, đảm nhiệm một số chức 
năng của Nhà nước như: quản lý xã hội, tổ 
chức cuộc sống mới cho nhân dân, trấn áp 
kẻ thù, xây dựng lực lượng vũ trang. 
- Ngày 16-4-1945, Tổng bộ Việt Minh 
đã ra chỉ thị về tổ chức Ủy ban Dân tộc giải 
phóng các cấp. Chỉ thị nêu rõ: “Trong tình 
thế chính quyền đế quốc có chỗ tan rã, có 
chỗ không được ổn định như ở Việt Nam 
ngày nay, Ủy ban dân tộc giải phóng là 
hình thức tiền chính phủ, trong đó nhân dân 
học tập để tiến lên giữ chính quyền cách 
mạng” [21, tr.16-17]. Ủy ban dân tộc giải 
phóng được thành lập ở các cấp từ cơ sở 
đến Trung ương. “Thành phần ủy viên 
trong các ủy ban do nhân dân bầu ra, mỗi 
đoàn thể cứu quốc có một đại biểu. Các ủy 
ban này có nhiệm vụ: bảo vệ quyền lợi của 
nhân dân; tổ chức huấn luyện chính trị, 
quân sự; bảo vệ trật tự, trị an, ngăn ngừa và 
diệt trừ Việt gian phản động; phân xử các 
xung đột trong nội bộ nhân dân” [1, tr.27]. 
- Ngày 4-6-1945, Khu giải phóng Việt 
Bắc được thành lập gồm: Cao Bằng, Bắc 
Cạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, 
Thái Nguyên và một số vùng thuộc ngoại 
tỉnh Bắc Giang, Vĩnh Yên, Phú Thọ, Yên 
Bái Tại Khu giải phóng, lần đầu tiên hình 
mẫu của nước Việt Nam mới được xây 
dựng. Lãnh đạo Khu giải phóng là Ủy ban 
chỉ huy lâm thời khu giải phóng với vai trò 
tương đương một chính quyền trung ương. 
Một trong những chính sách lớn của Ủy ban 
này là “kiến lập nền dân chủ cộng hoà và 
ban bố các quyền phổ thông đầu phiếu, tự 
do dân chủ, dân tộc tự quyết, nam nữ bình 
quyền” [21, tr.17]. Dưới Ủy ban chỉ huy là 
Ủy ban nhân dân cách mạng các cấp, do 
nhân dân cử ra, thực hiện 10 chính sách lớn 
của Việt Minh đã đưa ra năm 1941. Có thể 
nói, với hình thức “tiền chính phủ” này, cán 
bộ và nhân dân ta đã từng bước làm quen, 
tập dượt với thể chế chính trị mới sắp được 
xây dựng trong phạm vi cả nước. 
- Ngày 16-8-1945, Đại hội Quốc dân đã 
họp tại Tân Trào. Tham dự Đại hội có hơn 
60 đại biểu Bắc, Trung, Nam và đại biểu 
kiều bào ở nước ngoài (Thái Lan, Lào), đại 
Phạm Quốc Thành 
 75
biểu các đảng phái, các đoàn thể nhân dân, 
các dân tộc, các tôn giáo. Đại hội nhiệt liệt 
tán thành chủ trương tổng khởi nghĩa của 
Đảng Cộng sản Đông Dương và 10 chính 
sách của Việt Minh. Đại hội quyết định 
thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt 
Nam, tức Chính phủ lâm thời, do Hồ Chí 
Minh làm chủ tịch. Sau đó, Ủy ban Dân tộc 
giải phóng đã thay mặt quốc dân Việt Nam 
thực hiện nhiều chính sách đối nội và đối 
ngoại quan trọng, góp phần vào sự thành 
công của Cách mạng tháng Tám. Ngày 27-
8-1945, để giữ vững chính quyền cách 
mạng, Ủy ban đã chính thức tự cải tổ thành 
Chính phủ cách mạng lâm thời nước Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa. 
Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba 
Đình - Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 
đọc bản Tuyên ngôn độc lập, nước Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, thể chế 
chính trị dân chủ cộng hòa cũng từ đó được 
chính thức xác lập và xây dựng trên phạm 
vi cả nước. 
6. Kết luận 
Từ những tư tưởng sơ khai về dân chủ và 
cộng hòa của những nhà yêu nước đầu thế 
kỷ XX, những tìm tòi và khảo nghiệm của 
Nguyễn Ái Quốc và của Đảng Cộng sản 
Việt Nam, tư tưởng về thể chế chính trị dân 
chủ cộng hòa đã dần hình thành và được 
hiện thực hóa. Ngay sau Ngày Độc lập, thể 
chế ấy đã thi hành một loạt những chính 
sách sáng suốt về đối nội và đối ngoại, tạo 
nên sự ổn định của bộ máy chính quyền từ 
trung ương tới địa phương, tránh được 
những xung đột bất lợi với thù trong giặc 
ngoài, củng cố niềm tin của nhân dân vào 
thể chế mới. Có thể nói, quá trình xây dựng 
cũng như hoạt động của thể chế chính trị 
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa để lại những 
bài học thực sự quý giá cho chúng ta trong 
công cuộc cải cách thể chế chính trị 
hiện nay. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Lưu Văn An (2012), Thể chế chính trị Việt 
Nam: Lịch sử hình thành và phát triển, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[2] Trần Đình Ân, Võ Trí Thanh (2002), Thể chế - 
cải cách thể chế và phát triển, Nxb Thống kê, 
Hà Nội. 
[3] Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện 
Đảng toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện 
Đảng toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam (2000), Văn kiện 
Đảng toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
[6] Trần Bá Đệ (Chủ biên) (2009), Một số chuyên 
đề lịch sử Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia 
Hà Nội, Hà Nội. 
[7] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.1, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[8] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.2, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[9] Hồ Chí Minh (20110, Toàn tập, t.3, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
[10] Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, t.12, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[11] Vũ Quang Hiển (2011), So sánh nguồn sử liệu 
trong nghiên cứu lịch sử Đảng Cộng sản Việt 
Nam,  
198-so-sanh-ngun-s-liu-trong-nghien-cu-lch-s-
ng-cng-sn-vit-nampgsts-v-quang-hin.html 
[12] Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo 
trình quốc gia các bộ môn khoa học Mác - 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2004), Giáo 
trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
Khoa học xã hội Việt Nam, số 10 - 2017 
 76
[13] Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ 
Chí Minh (2011), Quá trình đổi mới tư duy lý 
luận của Đảng từ năm 1986 đến nay, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[14] Trần Duy Khang (2013), Chủ tịch Hồ Chí 
Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đối với việc 
tổ chức cơ quan Lập hiến và sự ra đời của 
Quốc hội đầu tiên ở Việt Nam, 
 sach_QH/QHVN_ly_luan 
_va_thuc%20tien/Chuong1/7.htm 
[15] Phạm Quang Minh (2010), Tìm hiểu Thể chế 
chính trị thế giới, Nxb Chính trị - Hành chính, 
Hà Nội. 
[16] Trình Mưu (2004), Căn nguyên của những 
khác biệt giữa Luận cương chính trị với Chính 
cương vắn tắt trong lịch sử Đảng Cộng sản 
Việt Nam, trong: Trần Phú - Tổng Bí thư đầu 
tiên của Đảng, một tấm gương bất diệt 
(Hồi ký), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[17] Dương Xuân Ngọc (2003), Thể chế chính trị 
thế giới đương đại, Nxb Chính trị Quốc gia, 
Hà Nội. 
[18] Dương Xuân Ngọc (Chủ biên) (2001), Lịch sử 
tư tưởng chính trị, Nxb Chính trị quốc gia, 
Hà Nội. 
[19] Nguyễn Quang Ngọc (2010), Tiến trình Lịch 
sử Việt Nam, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội. 
[20] Phan Đăng Thanh (2013), Tư tưởng lập hiến 
của Phan Bội Châu,  
/Ban%20ve%20lap%20hien/Chuong1/4.htm 
[21] Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa 
Việt Nam - Văn phòng Quốc hội (2000), Lịch 
sử Quốc hội Việt Nam 1946 - 1960, Nxb Chính 
trị quốc gia, Hà Nội. 
 [22] Nguyễn Đức Sự (2009), Ý nghĩa lịch sử của tư 
tưởng dân chủ của Phan Châu Trinh, 
dan-chu-cua-phan-chau-trinh-1654-vi.htm 
[23] Phạm Thái Việt (2008), Vấn đề điều chỉnh 
chức năng và thể chế của nhà nước dưới tác 
động của toàn cầu hóa, Nxb Khoa học xã hội, 
Hà Nội. 
[24] Viện Khoa học Chính trị - Học viện Chính trị 
quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tập bài giảng 
Chính trị học, Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội. 
[25] Kira Astrid B¨orner (2005), Political 
institutions and incentives for economic 
reforms,  
1/Boerner_Kira_Astrid.pdf 

File đính kèm:

  • pdfqua_trinh_hinh_thanh_the_che_chinh_tri_dan_chu_cong_hoa_o_vi.pdf