Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn hoạt động của VAMC

Do nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan, nợ xấu tại hầu hết các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam những năm gần đây tăng cao và diễn biến phức tạp, ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động tín dụng (TD), đến an toàn hệ thống ngân hàng cũng như tác động đến sự phát triển kinh tế- Xã hội chung. Xử lý có hiệu quả các khoản nợ xấu ở các NHTM đang là yêu cầu cấp bách hiện nay. VAMC ra đời với kỳ vọng giải quyết yêu cầu này. Tuy nhiên, sau gần một năm đi vào hoạt động, số nợ xấu mà VAMC xử lý được mới chiếm một tỷ lệ khiêm tốn, khoảng 1% dư nợ đã mua. Bài viết tập trung làm rõ thực trạng nợ xấu cũng như thực tiễn hoạt động và những hạn chế của VAMC, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần phát huy vai trò của VAMC trong xử lý nợ xấu của các NHTM Việt Nam

pdf 6 trang yennguyen 8600
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn hoạt động của VAMC", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn hoạt động của VAMC

Một số vấn đề đặt ra từ thực tiễn hoạt động của VAMC
1thaùng 6.2014 - soá 145
Một số vấn 
đề đặt ra từ 
thực tiễn hoạt 
động của VAMC
 Vấn đề - Sự kiện 
PGS. TS. Kiều Hữu THiện
Học viện Ngân hàng
Do nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan, nợ xấu tại hầu hết các ngân 
hàng thương mại (NHTM) Việt Nam những năm gần đây tăng cao và diễn biến phức 
tạp, ảnh hưởng bất lợi đến hoạt động tín dụng (TD), đến an toàn hệ thống ngân 
hàng cũng như tác động đến sự phát triển kinh tế- xã hội chung. Xử lý có hiệu 
quả các khoản nợ xấu ở các NHTM đang là yêu cầu cấp bách hiện nay. VAMC 
ra đời với kỳ vọng giải quyết yêu cầu này. Tuy nhiên, sau gần 
một năm đi vào hoạt động, số nợ xấu mà VAMC xử 
lý được mới chiếm một tỷ lệ khiêm tốn, khoảng 
1% dư nợ đã mua. Bài viết tập trung làm 
rõ thực trạng nợ xấu cũng như thực tiễn 
hoạt động và những hạn chế của 
VAMC, từ đó đề xuất một số giải 
pháp nhằm góp phần phát huy 
vai trò của VAMC trong 
xử lý nợ xấu của các 
NHTM Việt Nam.
2 soá 145 - thaùng 6.2014
1. Thực trạng nợ xấu của 
các NHTM Việt Nam
Trong những năm qua, 
tăng trưởng TD của hệ thống 
NHTM Việt Nam khá cao. Các 
số liệu thống kê cho thấy, trong 
mười (10) năm trở lại đây, tăng 
trưởng TD đạt mức trung bình 
trên 30%; cá biệt năm 2007 
tăng trưởng TD lên tới trên 
50% (một số NHTMCP qui mô 
nhỏ thậm chí tốc độ này đạt 
tới trên 60%). Dư nợ TD năm 
2012 đã lên tới trên 1,2 lần so 
GDP, trong khi tỷ lệ này ở các 
nước chỉ vào khoản 0,6- 0,7 
lần1. Tăng trưởng kinh tế Việt 
Nam hiện vẫn lệ thuộc vào vốn 
đầu tư và trong bối cảnh dòng 
vốn nước ngoài bị sụt giảm khá 
mạnh do khủng hoảng tài chính 
toàn cầu và khủng hoảng nợ 
công châu Âu (vốn là một trong 
những đối tác đầu tư chính của 
Việt Nam) thì TD vẫn là kênh 
cung ứng vốn chủ yếu để duy 
trì đà tăng trưởng của nền kinh 
tế. Tuy nhiên, các NHTM Việt 
Nam chưa có kỹ năng tốt trong 
thẩm định dự án đầu tư TD 
cũng như kỹ năng phòng vệ 
rủi ro kém, cùng với việc các 
khách hàng của ngân hàng chủ 
yếu là các doanh nghiệp vừa và 
nhỏ có năng lực tài chính hạn 
chế, nên TD càng tăng trưởng 
cao thì rủi ro TD càng lớn. Có 
thể thấy rất rõ hậu quả này 
trong thời gian qua, với tình 
trạng gia tăng nợ xấu khó kiểm 
soát (Biểu 1). 
Biểu 1 cho thấy, tốc độ tăng 
trưởng nợ xấu của các NHTM 
Việt Nam những năm gần đây: 
Tốc độ tăng nợ xấu lên đến 
74% trong năm 2008, sau đó 
giảm nhẹ năm 2009 với tốc độ 
tăng nợ xấu khoảng 27% (mức 
tuyệt đối về nợ xấu là 45.000 
tỷ VND, tương đương khoảng 
2,5% tổng dư nợ TD của năm); 
nhưng lại tăng dần trong năm 
2010 với tốc độ tăng nợ xấu 
lên đến 41% (mức nợ xấu của 
năm này đạt con số tuyệt đối 
khoảng 38.000 tỷ VND, chiếm 
2,1% tổng dư nợ TD của năm 
này). Năm 2011 tốc độ tăng 
trưởng của nợ xấu lên đến 64% 
(số nợ xấu tuyệt đối đạt khoảng 
78.000 tỷ VND, bằng khoảng 
3,5% tổng dư nợ TD trong 
năm). 
Riêng năm 2012 và 2013, các 
số liệu thống kê về nợ xấu của 
hệ thống NH Việt Nam còn có 
sự “vênh” nhau đáng kể. Cụ 
thể: 
Năm 2012: Thanh tra NHNN 
cho rằng nợ xấu gần 8,82% 
tương đương gần 240.000 tỷ 
VND3. Con số thống kê khác 
của NHNN công bố thì nợ xấu 
lên khoảng 300.000 tỷ VND. 
Moody’s đưa ra dự báo con 
số nợ xấu của các NHTM Việt 
Nam phải ở mức trên 8,6%4. 
Fitch Rating lại dự báo nợ xấu 
lên đến trên 13%. Louis Taylor, 
Tổng Giám đốc Standard 
Chartered bank Vietnam tính 
toán, nếu lấy con số 8,8% 
làm chuẩn thì quy mô nợ xấu 
khoảng 12 tỷ USD và nếu áp 
dụng tỷ lệ tổn thất ở các thị 
trường khác (40%) thì lượng 
vốn mà các NH có thể bị thiệt 
hại khoảng 7 tỷ USD, tương 
đương 5% GDP5. Thậm chí có 
chuyên gia cho rằng nợ xấu đã 
lên đến xấp xỉ 375.000 tỷ VND 
(tương đương khoảng 15% 
tổng dư nợ TD)6. 
Năm 2013: Theo báo cáo 
chính thức của NHNN, tỷ lệ 
nợ xấu đến cuối năm 2013 là 
3,63%. Tuy vậy, cũng theo 
NHNN, nếu tính toán một cách 
thận trọng thì nợ xấu (bao gồm 
cả nợ xấu đã cơ cấu lại theo 
Quyết định 780/QĐ-NHNN7) 
cũng chỉ khoảng 9%8, trong 
khi đó Moodys ước tính nợ 
xấu trong hệ thống NHTM Việt 
Nam ít nhất phải ở mức 15%9. 
Các con số thống kê phân 
Biểu 1. Tốc độ tăng trưởng nợ xấu của các NHTM Việt Nam2
3thaùng 6.2014 - soá 145
tích nợ xấu cho thấy, trong tổng 
số nợ xấu hiện nay thì 80% có 
tài sản bảo đảm. Trong số các 
tài sản được sử dụng làm đảm 
bảo TD thì có tới khoảng 57% 
là các bất động sản (BĐS) hoặc 
các BĐS sẽ được hình thành 
trong tương lai (tương đương 
khoảng 116.736 tỷ VND)10. 
Đáng chú ý là các tài sản bảo 
đảm được định giá trong điều 
kiện có bong bóng BĐS, nên 
hiện nay giá các BĐS này giảm 
xuống rất thấp, điều này cũng 
đồng nghĩa với một bộ phận 
nợ xấu NH thực chất không có 
tài sản bảo đảm và thị trường 
BĐS càng rớt giá thì số nợ xấu 
không có tài sản thực làm đảm 
bảo sẽ càng lớn.
Vấn đề xử lý nợ xấu đang là 
trọng tâm trong hoạt động của 
ngành NH nước ta hiện nay 
và trong tương lai11. Nếu như 
nợ xấu của hệ thống NH Việt 
Nam không được xử lý tốt thì 
nguy cơ hệ số tín nhiệm của 
Việt Nam sẽ tiếp tục bị tụt hạng 
sâu hơn (Bảng 1), thậm chí 
Việt Nam sẽ không thể tiếp cận 
được vốn vay từ các tổ chức tài 
chính quốc tế. Lúc đó, nguy cơ 
khủng hoảng tài chính sẽ là vô 
cùng to lớn. Bài học từ khủng 
hoảng nợ Argentina năm 2001 
đã cho thấy rất rõ nguy cơ này. 
2. Hoạt động của VAMC và 
những vấn đề đặt ra
Trong bối cảnh nợ xấu diễn 
biến phức tạp, rút kinh nghiệm 
từ một số nước, Việt Nam đã 
cho ra đời VAMC. VAMC được 
thành lập vào tháng 7/2013 
theo Nghị định 53/2013/NĐ-
CP (ngày 18/5/2013), trong 
đó qui định thành lập VAMC 
nhằm xử lý nợ xấu, thúc 
đẩy tăng trưởng TD hợp 
lý cho nền kinh tế. Theo 
đó, VAMC sẽ tiến hành 
mua nợ xấu của các tổ 
chức tín dụng (TCTD) 
theo giá trị ghi sổ bằng 
trái phiếu đặc biệt do VAMC 
phát hành. Bên cạnh đó, căn cứ 
năng lực tài chính của VAMC, 
hiệu quả kinh doanh kinh tế và 
điều kiện thị trường, VAMC 
được phép mua nợ xấu của 
các TCTD theo giá thị trường 
bằng nguồn vốn không phải 
trái phiếu đặc biệt đối với các 
khoản nợ xấu đáp ứng đủ các 
điều kiện quy định. NHNN đã 
trích 500 tỷ VND từ Quỹ thực 
hiện Chính sách tiền tệ Quốc 
gia12 để cấp vốn điều lệ cho 
VAMC. Trái phiếu đặc biệt 
được VAMC phát hành dưới 
hình thức chứng chỉ, bút toán 
ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử với 
mệnh giá có giá trị bằng giá 
mua của khoản nợ xấu. Trái 
phiếu đặc biệt được phát hành 
bằng VND có thời hạn tối đa 5 
năm và lãi suất bằng 0%; được 
sử dụng để vay tái cấp vốn của 
NHNN. 
Trước khi VAMC hình thành, 
đã có nhiều ý kiến lo ngại về 
vốn cho hoạt động của công 
ty này bởi cho rằng, để xử lý 
được nợ xấu thì phải có ít nhất 
100 nghìn tỷ VND và số vốn 
này phải lấy từ NSNN. Dù lo 
ngại này đã được xử lý, nhưng 
xuất hiện thêm lo ngại khác, 
xuất phát từ việc trái phiếu 
của VAMC có thể chuyển 
hóa thành các khoản nợ trong 
tương lai của Chính phủ do trái 
phiếu đặc biệt của VAMC được 
Chính phủ bảo lãnh. Tuy nhiên, 
theo báo cáo của NHNN, toàn 
bộ số nợ xấu do VAMC mua 
lại của các TCTD được hoán 
đổi bằng các trái phiếu đặc biệt 
và chưa có một TCTD nào sử 
dụng trái phiếu này để xin tái 
cấp vốn tại NHNN. Điều đó 
cho thấy chỉ có hoán đổi tài 
sản trên bảng cân đối của các 
TCTD mà không có dòng tiền 
lưu chuyển thực sự trong các 
giao dịch, vì vậy chưa có bất 
cứ một sự tổn hại nào đối với 
NSNN từ các hoạt động của 
VAMC13. Hơn nữa, nếu như 
các TCTD sử dụng trái phiếu 
của VAMC để tái chiết khấu 
tại NHNN, thì dòng tiền đi ra 
cũng không xuất phát từ khu 
vực Chính phủ. Quy định về 
quy chế hoạt động của VAMC 
cũng nêu rõ các trái phiếu do 
VAMC phát hành có thời hạn 
5 năm, và trong 5 năm đó, các 
TCTD cần phải từng bước trích 
lập dự phòng rủi ro tương ứng 
với khoản nợ xấu. Nếu sau 5 
năm, VAMC không xử lý được 
khoản nợ xấu đã mua thì có thể 
trả lại cho TCTD. Do vậy, ít có 
khả năng phát sinh các rủi ro 
đối với NSNN từ các hoạt động 
của VAMC như lo ngại.
Điều đáng lo ngại hơn không 
xuất phát từ các nghĩa vụ nợ, 
mà xuất phát từ rủi ro do mất 
ổn định hệ thống NH. Quá 
trình tái cấu trúc hệ thống NH 
Bảng 1. Xếp hạng tín nhiệm của 
Việt Nam
 2009 2010 2011 2012
S&P BB BB BB- BB-
Moody’s Ba3 Ba3 B1 B2
Fitch Ratings BB- BB- B+ B+
 Nguồn: Vietnam Securities market, 2013
4 soá 145 - thaùng 6.2014
được tiến hành cho đến nay đã 
được 3 năm14, thông qua đó, 
tính lành mạnh trong hệ thống 
các TCTD đã từng bước được 
củng cố, tính thanh khoản được 
đảm bảo, trong khi các TCTD 
đã từng bước thực hiện tái cấu 
trúc thông qua mua lại, sát 
nhập, và tự tái cấu trúc. Tuy 
nhiên, những rủi ro hệ thống 
chưa hoàn toàn được loại bỏ, 
tỷ lệ nợ xấu vẫn duy trì ở mức 
cao so ngưỡng an toàn do Basel 
khuyến cáo (≤3% so dư nợ TD), 
TD ngân hàng tắc nghẽn15, 
năng lực quản trị và quản trị rủi 
ro của các TCTD chưa đáp ứng 
thông lệ quốc tế, các tỷ lệ an 
toàn vẫn ở mức thấp. Rủi ro về 
một cuộc khủng hoảng NH vẫn 
có thể xảy ra, đặc biệt trong bối 
cảnh mà nền kinh tế cũng đang 
rơi vào tăng trưởng khó khăn16. 
Kinh nghiệm quốc tế cho 
thấy, có một mối liên thông 
chặt chẽ giữa các cuộc khủng 
hoảng NH, khủng hoảng tiền tệ 
và khủng hoảng nợ công. Do 
đó, nếu như quá trình tái cấu 
trúc các TCTD của Việt Nam 
hiện nay, mà trước hết phải đặt 
trọng tâm vào vấn đề xử lý nợ 
xấu, không được tiến hành một 
cách mạnh mẽ, nhanh chóng 
và hiệu quả, nó có thể gây ra 
những ảnh hưởng nhất định đối 
với sự ổn định của nền kinh tế 
và thông qua đó, ảnh hưởng 
đến sự bền vững của ngân sách 
quốc gia. Vai trò của Chính phủ 
trong việc cứu trợ hệ thống NH 
khi khủng hoảng xảy ra cũng 
phải được đặt ra như một mối 
lo ngại đối với NSNN nếu như 
hệ thống NH rơi vào khủng 
hoảng17, bởi thực tế là các khoản 
nợ xấu trong hệ thống NHTM 
về bản chất chưa hề thay đổi, có 
chăng chúng chỉ được chuyển 
“tạm thời” từ bảng cân đối kế 
toán của NHTM về VAMC và 
nhiều khả năng chúng sẽ quay 
trở về chính NHTM đã sản 
sinh ra chúng sau khoảng gần 
5 năm nữa và trong thời gian 
này, TD lại tiếp tục được cung 
ứng ra nền kinh tế với giá “rẻ” 
hơn trước và rất có thể sẽ vẫn là 
“không đạt chuẩn” do các sức 
ép từ nhiều phía. 
Điều này thực sự là rất đáng 
quan ngại đối với sự ổn định 
kinh tế vĩ mô bởi hiện vẫn có 
không ít ý kiến chưa đặt nhiều 
kỳ vọng vào khả năng xử lý 
nợ xấu của VAMC. Lý do là 
VAMC “mua” các khoản nợ 
xấu với “giá” khá cao18. Theo 
qui định, các khoản nợ xấu 
được VAMC mua sẽ được xử 
lý trên tinh thần không gây 
thiệt hại cho NHTM cũng như 
các doanh nghiệp là khách 
hàng của NHTM, song với việc 
mua nợ với giá cao như vậy sẽ 
rất khó để xử lý19 và rất có thể 
nợ xấu sẽ được VAMC “nhốt 
lại” 5 năm và trong trường hợp 
sau 5 năm vẫn không xử lý 
được20 thì VAMC sẽ trả lại nợ 
đã mua cho chính NH đã bán 
nó cho VAMC, khi đó sẽ có 2 
tình huống xảy ra: (i) Trường 
hợp NHTM sau khi bán các 
khoản nợ xấu, tiếp tục mở rộng 
hoạt động TD trích lập đầy đủ 
dự phòng rủi ro TD theo yêu 
cầu của VAMC thì có nghĩa 
các khoản nợ xấu này đã được 
xử lý; (ii) Trường hợp NHTM 
kinh doanh kém hiệu quả, nợ 
xấu tiếp tục phát sinh, khi đó 
với việc VAMC trả lại nợ xấu 
cho NH thì nợ xấu của NH sẽ 
tiếp tục phình ra. Trong trường 
hợp có nhiều NHTM hoạt động 
tiếp tục kém hiệu quả thì nguy 
cơ khủng hoảng nợ trong hệ 
thống NH là vô cùng phức tạp 
và có thể sẽ làm tăng gánh nặng 
cho ngân sách để xử lý nợ xấu 
của hệ thống NH Việt Nam. 
Như vậy có thể thấy, vấn đề 
xử lý nợ xấu thông qua VAMC 
vẫn còn khá nhiều bất cập, 
nhưng hiện tại VAMC chỉ có 
thể thực hiện phương cách này 
vì hiện Việt Nam vẫn chưa có 
một thị trường mua bán nợ 
đúng nghĩa21, hơn nữa, với 
năng lực tài chính hiện thời, 
rất khó để VAMC thực hiện 
việc mua nợ xấu theo giá trị 
thị trường. Tại thời điểm ra đời 
VAMC, ở Việt Nam đã có hơn 
20 công ty mua bán nợ của các 
TCTD và một Công ty mua 
bán nợ và tài sản tồn đọng của 
DN của Bộ Tài chính (DATC). 
Mặc dù vậy, hình hài một thị 
trường mua bán nợ ở Việt Nam 
vẫn chưa rõ rệt, dù NHNN đã 
đưa ra quan điểm sẽ cho phép 
nhà đầu tư trong và ngoài nước 
mua lại nợ của VAMC khi 
Công ty này đi vào hoạt động- 
tức VAMC sẽ là tổ chức trung 
gian thu gom nợ từ các TCTD 
và bán lại trên thị trường. Việc 
chưa có thị trường mua bán nợ 
đã và đang gây nhiều trở ngại 
khi VAMC muốn bán lại những 
khoản nợ xấu đã mua. Một thực 
tế là không ít NHTM từng bày 
tỏ quan điểm họ đang không 
chỉ lên kế hoạch bán nợ, mà 
còn rất mong được mua nợ, bởi 
phần lớn các khoản nợ xấu đã 
5thaùng 6.2014 - soá 145
được bán này đều có tài sản thế 
chấp là bất động sản và trong 
đó nhiều tài sản có giá trị cao sẽ 
mang lại một khoản lợi nhuận 
trong tương lai, nhất là khi đã 
được chiết khấu thời gian đầu. 
Tuy nhiên, trong bối cảnh mà 
phần lớn đang nhìn nhận NH ở 
một phía phải bán nợ, việc họ 
mong được mua nợ chắc chắn 
là bất khả thi, bởi nếu chiếu 
theo quy định thì các Công ty 
mua bán nợ của các NH lại 
không được phép mua nợ của 
mình, và nếu muốn mua nợ của 
tổ chức khác cũng sẽ rất mất 
nhiều công đoạn, quy định, gần 
như khó có thể thành công22.
Vì vậy, để hình thành thị 
trường mua bán nợ ở Việt 
Nam, Nhà nước cần hoàn thiện 
khuôn khổ pháp lý cho sự vận 
hành của thị trường này, bên 
cạnh đó, cũng cần chú ý khâu 
cán bộ làm công tác định giá 
tài sản và nợ của các NHTM. 
Nếu như các khâu yếu này 
không được xử lý dứt điểm thì 
các khoản nợ xấu của NHTM 
rất khó xử lý (trong khi đây là 
vấn đề thường trực trong kinh 
doanh NH) và điều này lại tác 
động tiêu cực tới môi trường 
tài chính Việt Nam. Thực tế là 
hoạt động của VAMC với tư 
cách là một định chế tài chính 
chuyên “gom” các khoản nợ 
xấu của các TCTD về để “phân 
loại” và “xử lý”, chứ không 
đơn thuần là một “nhánh” hoạt 
động của NHNN với chức 
năng “thu gom” và “đóng gói” 
nợ xấu của TCTD. Để cho tổ 
chức này hoạt động đúng nghĩa 
thì phải trao cho nó các chức 
trách và có đủ công cụ để thực 
thi nhiệm vụ một cách tích cực, 
góp phần tạo dựng niềm tin và 
hiệu quả trong xử lý nợ xấu của 
các TCTD Việt Nam. ■
1 Nguyễn Minh Phong (2011): Giải bài 
toán kinh tế Việt Nam năm 2011, Tạp 
chí Ngân hàng Số 12.
2 Minh Đức (2012) Nợ xấu ngân 
hàng: Sau mổ xẻ, đến xắn tay. www.
vneconomy.vn ngày 22/8/2012
3 Hồ Hương (2013): Ngành ngân 
hàng “vượt cạn”. www.daidoanket.vn. 
Ngày 7/1/2013.
4 An Huy (2012): Moody’s đưa ra 5 
kịch bản xử lý nợ xấu tại Việt Nam. 
www.cafef.vn. Ngày 4/10/2012.
5 Hồ Hương (2013): Ngành ngân 
hàng “vượt cạn”. www.daidoanket.vn. 
Ngày 7/1/2013.
6 Nguyễn Trí Hiếu (2012): Tọa đàm 
: “Đánh giá hiệu quả chính sách tiền 
tệ 10 tháng đầu năm và khuyến nghị 
chính sách”. Hà Nội, ngày 5/11/2012.
7 Quyết định 780/QĐ-NHNN (ngày 
23/4/2012) của NHNN cho phép các 
khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn trả 
nợ, gia hạn nợ cho TCTD, chi nhánh 
NH nước ngoài đánh giá hoạt động 
SXKD của KH có chiều hướng tích 
cực và có khả năng trả nợ tốt sau khi 
điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn nợ 
được giữ nguyên nhóm nợ như đã 
được phân loại theo quyết định trước 
khi điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, gia hạn 
nợ.
8 Nguyễn Hằng (2014): NHNN 
phản pháo lại đánh giá về nợ xấu 
của Moody’s. www.cafef.vn. Ngày 
21/2/2014.
9 Theo báo cáo công bố ngày 
18/2/2014 Moody’s cho rằng nợ xấu 
của các NHTM Việt Nam ít nhất phải 
ở mức khoảng 15% và tổ chức này 
vẫn duy trì triển vọng tiêu cực đối với 
hệ thống NH Việt Nam và dự đoán 
nguồn vốn của các NH Việt Nam sẽ 
khó được cải thiện sâu rộng trong 
vòng 12-18 tháng tới bởi các NH vẫn 
chưa có đủ khả năng hấp thụ những 
khoản lỗ tiềm tàng xuất phát từ yếu 
kém trong chất lượng tài sản.
10 Thành Hưng (2012): Cần định giá 
lại tài sản bảo đảm bằng bất động 
sản. www.cafef.vn. Ngày 10/21/2012.
11 Tại Hội nghị tổng kết và triển khai 
nhiệm vụ sáng 18/12/2013 tại Hà Nội, 
dù ghi nhận nỗ lực của ngành NH Việt 
Nam, nhưng Thủ tướng Chính phủ 
thẳng thắn cho rằng nợ xấu của hệ 
thống theo đúng các tiêu chí có thể 
hơn 8% thay vì 4% như các đơn vị 
“tự báo cáo”. (Thanh Lan: Thủ tướng: 
“Dứt khoát độc quyền xuất nhập khẩu 
vàng”. www.vnexpress.net. Ngày 
18/12/2013.
12 Điều 45 Luật NHNN 2010 quy định: 
NHNN được trích từ kết quả tài chính 
hằng năm để lập Quỹ thực hiện chính 
sách tiền tệ quốc gia. Điều 8, Nghị 
định số 07/2006/NĐ-CP về Chế độ tài 
chính của NHNN quy định: NHNN lập 
và sử dụng quỹ thực hiện chính sách 
tiền tệ quốc gia; khoản dự phòng rủi 
ro trong hoạt động nghiệp vụ của 
NHNN. Thống đốc NHNN quyết định 
và chịu trách nhiệm về các khoản chi 
từ Quỹ thực hiện chính sách tiền tệ 
quốc gia. Các khoản chi này không 
tính trong kế hoạch cung ứng tiền 
tăng thêm được duyệt hàng năm.
13 Theo qui định thì LS tái cấp vốn 
của NHNN đối với các TCTD trên 
cơ sở trái phiếu đặc biệt của VAMC 
thấp hơn 2%/năm so với mức lãi suất 
tái cấp vốn do NHNN công bố trong 
từng thời kỳ. Hiện tại, lãi suất tái cấp 
vốn do NHNN quy định là 7%/năm. 
Chiếu theo quy định này thì TCTD có 
thể mang trái phiếu đặc biệt VAMC 
lên NHNN vay tái cấp vốn với lãi 
suất 5%/năm. Tuy nhiên, trong buổi 
họp thường kỳ ngày 28/02/2014 của 
NHNN, Bà Nguyễn Thị Hồng - Vụ 
trưởng Vụ Chính sách tiền tệ cho biết, 
hiện có một số NH đề nghị NHNN cho 
vay tái cấp vốn trên cơ sở trái phiếu 
đặc biệt này nhưng chưa có NH nào 
được xử lý cho vay (Hải Minh:Vẫn 
chưa ngân hàng nào được vay tái cấp 
vốn từ trái phiếu đặc biệt của VAMC. 
www.cafef.vn. ngày 28/2/2014).
14 Ngày 1/3/2012 Thủ tướng Chính 
phủ đã phê duyệt Đề án cơ cấu lại 
hệ thống TCTD giai đoạn 2011-2015 
theo Quyết định Số 254/QĐ-TTg.
15 Theo NHNN, tín dụng tính đến ngày 
22/4/2014 chỉ tăng 0,62%. Trước đó, 
2 tháng đầu năm, TD chỉ tăng trưởng 
âm. (Phạm Huyền (2014): Tiền thừa, 
6 soá 145 - thaùng 6.2014
NH thích cho Chính phủ vay. www.
vietnamnet.vn. ngày 3/5/2014).
16 Các số liệu thống kê cho thấy tăng 
trưởng kinh tế của Việt Nam những 
năm gần đây là khá thấp: năm 2011: 
5,9%, năm 2012: 5,2%, năm 2013: 
5,3% dự báo năm 2014 khoảng 5,4% 
(IMF: World Economic Outlook 2013). 
Còn theo dự báo của các nghiên cứu 
trong nước thì rất có thể tăng trưởng 
kinh tế Việt Nam năm 2014 chỉ khoảng 
4,2% do sự kiện Biển Đông.
17 Bài học kinh nghiệm từ Ireland cho 
thấy rằng khi các khoản nợ xấu của hệ 
thống NHTM quá lớn thì buộc Chính 
phủ phải ra tay cứu trợ để tránh một 
cuộc đổ vỡ mang tính hệ thống và khi 
đó các khoản nợ tư nhân lại trở thành 
nợ công. Cụ thể: Năm 2009, Chính 
phủ Ireland đã phải sử dụng 50 tỷ 
EUR để cứu 6 NHTM lớn của nước 
này tránh khỏi bị đổ vỡ thông qua việc 
thành lập NAMA - một định chế tài 
chính nhằm mua lại các khoản nợ tư 
nhân và biến chúng trở thành tài sản 
công. Điều này khiến thâm hụt ngân 
sách Chính phủ tăng vọt lên mức 32% 
GDP (Wen Yang, Liang Hai Lei, 2012: 
A Comprehensive Approach to the 
European Sovereigen Debt Crisis- Its 
roots, process and intlightenment 
on China. Advances in Asian Social 
Science (AASS) Vol. 2, No.4).
18 Theo thống kê tính đến cuối tháng 
10/2013, VAMC đã phát hành lượng 
trái phiếu đặc biệt trị giá 3.800 tỷ đồng 
để mua 5.000 tỷ VND nợ xấu của các 
NHTM (Ngô Minh: VAMC làm gì với 
nợ xấu đã mua. www.vneconomy.vn. 
ngày 17/10/2013). Như vậy, “giá” mua 
nợ xấu là 76% giá trị ghi sổ của các 
món nợ xấu. Đây được xem là mức 
“giá mua” khá cao đối với các khoản 
nợ xấu của các NHTM.
19 Theo thông 
tin, từ cuối 
năm 2012 đã 
có một số tổ 
chức tài chính 
quốc tế như 
Công ty tài 
chính quốc tế 
(IFC), IMF, WB 
muốn tìm hiểu 
và mua các 
món nợ của 
VAMC (Thái 
Thanh: VAMC: 
Tiền là giấy, 
giấy không là 
tiền. www.cafef.vn. ngày 16/10/2012), 
nhưng đến nay có vẻ họ không mặn 
mà lắm vì chưa có bất kỳ món nợ xấu 
nào được đưa ra bàn thảo mua bán.
20 Hiện đang có không ít ý kiến băn 
khoăn về những khoản nợ xấu VAMC 
mua lại sẽ được “xử lý” như thế nào, 
VAMC sẽ yêu cầu các bên thực hiện 
tái cấu trúc hay bán lại cho các đối tác 
trong và ngoài nước?. Trả lời vấn đề 
này, theo VAMC thì, các phương án 
xử lý nợ xấu mua lại từ các NHTM đã 
được tổ chức này tính đến và sẽ làm 
dần từng bước một, với mục tiêu làm 
sao đem lại lợi ích tốt nhất cho các 
bên. Trong trường hợp các đối tác 
trong và ngoài nước quan tâm mua 
lại khoản nợ này, VAMC sẽ sẵn sàng 
bán nhưng sẽ không bán bằng mọi 
giá, chỉ khi thấy có lãi và đem lại lợi 
ích cho doanh nghiệp và cho nền kinh 
tế thì VAMC mới bán. Trong trường 
hợp thực hiện tái cơ cấu các khoản 
nợ xấu, thì TCTD và doanh nghiệp 
sẽ phải chịu trách nhiệm chính trong 
việc tìm ra giải pháp để tái cấu trúc, 
VAMC chỉ đứng vai trò là chủ nợ và 
sẽ quyết định phương án tái cơ cấu 
cuối cùng sao cho có lợi nhất cho 
doanh nghiệp, TCTD và nền kinh tế, 
chỉ trong trường hợp xấu nhất, VAMC 
mới sử dụng đến phương án phát mại 
tài sản (Ngô Minh: VAMC làm gì với 
nợ xấu đã mua? www.vneconomy.vn. 
ngày 17/10/2013).
21 Hiện WB đã đặt vấn đề hợp tác với 
VAMC về xử lý nợ xấu, thế nhưng, 
các yếu tố pháp lý chưa đủ hỗ trợ 
cho các tổ chức tài chính quốc tế, 
nhất là quyền hạn của nhà đầu tư 
nước ngoài còn bị hạn chế khi mua 
nợ thuộc lĩnh vực BĐS. Theo đề án 
xử lý nợ xấu, việc xử lý nợ xấu có sự 
tham gia của nhiều Bộ, Ngành, nhưng 
Marketing, Vol.27, No.1, p.37-47. 
10. Praja P (2005), “Factors 
influencing the adoption and usage 
of IB: A Newzeland perspective”, the 
thesis of Master.
11. Safeena R & ctg (2010), 
“Customer Perspectives on 
E-business Value: Case Study on 
Internet Banking”, Journal of 
Internet Banking and Commerce, 
Vol.15, No.1.
12. Sundarraj RP & Manochehri N 
(2011), “Application of an Extended 
TAM Model for Online Banking 
Adoption: A Study at a Gulf-region 
University”, 24(1), p.1-13. 
13. Trương Thị Vân Anh (2008), 
“Ứng dụng mô hình chấp nhận công 
nghệ trong nghiên cứu ngân hàng 
điện tử (E-banking) ở Việt Nam”, 
Tuyển tập báo cáo “Hội nghị sinh 
viên nghiên cứu khoa học” 6th.
14. Venkatesh V & ctg (2003), 
“User acceptance of Information 
technology: Towards a unified view”, 
MIS Quart, 27(3), 425-78.
15. Yangil P & Jengchung VC 
(2007), “Acceptance and adoption of 
the innovative use of smartphone”, 
Industrial Management & Data 
Systems, Vol.107, No.9, pp.1349-
1365.
tiếp theo trang 18
đến nay chưa Bộ, Ngành nào triển 
khai nhiệm vụ của mình ngoài NHNN. 
Đặc biệt, Nghị định về xử lý nợ xấu 
(Nghị định 53) cho phép VAMC bán 
tài sản nếu chủ tài sản không đồng ý 
giá bán nhằm đẩy nhanh tiến độ giải 
quyết nợ xấu, song lãnh đạo nhiều 
NH cho rằng VAMC không thể thực 
hiện được bởi còn vướng các quy 
định về công chứng, đăng ký giao 
dịch tài sản bảo đảm...(Thy Thơ: Nợ 
xấu: Mua rồi khó bán lại. www.cafef.
vn. ngày 17/10/2013).
22 Gia Miêu: Nợ xấu đang chuyển từ 
túi phải sang túi trái. www.cafef.vn. 
ngày 24/10/2013.

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_dat_ra_tu_thuc_tien_hoat_dong_cua_vamc.pdf