Nâng cao năng lực tự ḥc của sinh viên đối với môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
TÓM TẮT
Đổi ḿi phương pháp dạy ḥc theo hứng
t́ch cực, hiện đại là yêu cầu vừa có t́nh thừng
xuyên, vừa mang t́nh cấp thiết nhằm không
ngừng nâng cao chất lượng dạy ḥc các môn lý
luận ch́nh trị nói chung và môn Tư tưởng H̀
Ch́ Minh nói riêng. Bài viết này tập trung làm rõ
việc dạy môn tư tưởng H̀ Ch́ minh theo hứng
t́ch cực, hiện đại, lấy ngừi ḥc làm trung tâm,
nâng cao năng lực tự ḥc c̉a sinh viên
Bạn đang xem tài liệu "Nâng cao năng lực tự ḥc của sinh viên đối với môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nâng cao năng lực tự ḥc của sinh viên đối với môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh
139 Nâng cao nĕng lực tự học . . . NÂNG CAO NĔNG LỰC TỰ ḤC CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI MÔN ḤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH CULTIVATING STUDENTS’ SELF - LEARNING ABILITY TO STUDY HO CHI MINH’S THOUGHTS Lê Thị Hiền(*) TÓM TẮT Đổi ḿi phương pháp dạy ḥc theo hứng t́ch cực, hiện đại là yêu cầu vừa có t́nh thừng xuyên, vừa mang t́nh cấp thiết nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dạy ḥc các môn lý luận ch́nh trị nói chung và môn Tư tưởng H̀ Ch́ Minh nói riêng. Bài viết này tập trung làm rõ việc dạy môn tư tưởng H̀ Ch́ minh theo hứng t́ch cực, hiện đại, lấy ngừi ḥc làm trung tâm, nâng cao nĕng lực tự ḥc c̉a sinh viên Từ khóa: tự học, nêu vấn đề, đổi mới phương pháp, chất lượng đào tạo. ABSTRACT Positive, modern, innovations in teaching method have become on going and urgent requirements with a view to enhancing of teaching political theories in general and Ho Chi Minh’s toughts in particular. The articles clearly deines how to teach Ho Chi Minh’s thoughts subject in a positive, modern way centering on learners and improving the students’ self – learning ability. Keywords: self-learning, issue introduction, innovative teaching method, training quality. 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trong lịch sử giáo dục nước ta, việc đổi mới mục tiêu, chương trình, nội dung giáo dục luôn được quan tâm qua từng giai đoạn phát triển. Để đạt được mục tiêu giáo dục đòi hỏi người dạy – người học phải hợp tác với nhau, trong đó người học phải có phương pháp suy nghĩ, suy luận, phương pháp giải quyết vấn đề đúng đắn để tiếp thu kiến thức đã học. Muốn vậy, người học phải tích cực, chủ động, độc lập suy nghĩ, phải có cách học tập hợp lí. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Về cách ḥc phải lấy tự ḥc làm cốt”(1). Để đáp ứng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi chúng ta phải đầu tư cho giáo dục, xem “giáo dục là quốc sách hàng đầu”. Ngành giáo dục phải không ngừng nâng cao chất lượng để thực hiện mục tiêu chiến lược nâng cao dân trí, đào (1) H̀ Ch́ Minh toàn tập, tập 5, tr.273, Nxb CTQG Hà Nội.2000 tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho đất nước. Chất lượng giáo dục phụ thuộc vào quá trình dạy học – hoạt động dạy của thầy và hoạt động học của trò. Trong quá trình đó, dưới sự lãnh đạo của tổ chức, điều khiển của thầy và trò, thầy và trò tự giác, chủ động tích cực tự tổ chức quá trình nhận thức nhằm thực hiện các nhiệm vụ học tập. Trong thư gửi Hội thảo khoa học nghiên cứu và tự học, nguyên Tổng Bí thư Trung ương Đảng Đỗ Mười có viết: “Chất lượng và hiệu quả giáo dục được nâng lên khi tạo ra được nĕng lực sáng tạo c̉a ngừi ḥc, khi biến quá tr̀nh giáo dục thành quá tr̀nh tự giáo dục. Qui mô giáo dục được mở rộng khi có phong trào toàn dân tự ḥc”. Tự học là con đường tốt nhất giúp cho người học, mỗi sinh viên hiểu biết sâu sắc và làm phong phú thêm kiến thức của mình, giúp họ sáng tạo ra những giá trị để góp phần xây dựng cuộc sống. (*) ThS. GV. Trừng Đại ḥc Kinh tế - Kỹ thuật B̀nh Dương 140 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai, Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã khẳng định: “Đổi ḿi mạnh mẽ phương pháp giáo dục đào tạo, bảo đảm điều kiện và th̀i gian tự ḥc, tự nghiên cứu cho ḥc sinh, nhất là sinh viên đại ḥc phát trỉn mạnh mẽ phong trào tự ḥc, tự đào tạo thừng xuyên và rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh niên”. Luật giáo dục (2005) nêu rõ: Phương pháp giáo dục phải phát huy t́nh t́ch cực, tự giác, ch̉ động, tư duy sáng tạo c̉a ngừi ḥc; b̀i dững cho ngừi ḥc nĕng lực tự ḥc, khả nĕng thực hành, lòng say mê ḥc tập và ý ch́ vươn lên. Vĕn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Tiếp tục đổi ḿi nội dung, phương thức, nâng cao hơn nữa t́nh chiến đấu, t́nh thuyết phục, hiệu quả c̉a cộng tác tư tưởng tuyên truyền ḥc tập ch̉ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng H̀ Ch́ Minh, quan đỉm đừng lối c̉a Đảng, ch́nh sách, pháp luật c̉a Nhà nức, Đổi ḿi, nâng cao chất lượng công tác giáo dục lý luận ch́nh trị, giáo dục công dân trong hệ thống các trừng ch́nh trị, các trừng thuộc hệ thống giáo dục quốc dân. Mỗi cán bộ, Đảng viên phải ḥc tập nâng cao tr̀nh độ lý luận ch́nh trị”.(2) Trên tinh thần ấy, rõ ràng Đảng ta đã coi tự học, tự đào tạo là vấn đề mấu chốt có vị trí cực kì quan trọng trong chiến lược giáo dục - đào tạo của đất nước. Kết quả đạt được của việc đổi mới phương pháp dạy học các môn lý luận chính trị nói chung và môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong thời gian qua ở các trường đại học và cao đẳng là đáng ghi nhận. Tuy nhiên, vấn đề dạy học còn tồn tại nhiều hạn chế trong đó việc sử dụng phương pháp cũ vẫn là chủ đạo, làm cho người học tiếp nhận tri thức một cách thụ động. Vì vậy, sử dụng phương pháp dạy học theo hướng tích cực, hiện đại trong đó việc hướng dẫn sinh viên tự học, nâng cao nĕng lực (2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại bỉu toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.285 tự học của sinh viên là xu hướng chung trong việc đổi mới phương pháp dạy học hiện nay. Từ đó thúc đẩy quá trình rèn luyện kĩ nĕng tự học cho sinh viên, không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường. 2. TỰ ḤC VÀ VAI TRÒ CỦA TỰ ḤC 2.1. Tự học Theo từ điển Giáo dục học: “Ḥc là quá tr̀nh nghiễn ng̃m, đ̣c đi đ̣c lại, nhắc đi nhắc lại đ̉ ghi nh́, đ̉ bắt chức, đ̉ hỉu, đ̉ làm”(3) hoặc “Ḥc, cốt lõi là tự ḥc, là quá tr̀nh phát trỉn nội tại, trong đó ch̉ yếu là tự th̉ hiện và biến đổi m̀nh, tự làm phong phú giá trị c̉a m̀nh bằng cách thu nhận, xử lý và biến đổi thông tin bên ngoài thành tri thức bên trong c̉a con ngừi m̀nh”(4) Trong tập bài giảng chuyên đề Dạy tự ḥc cho SV trong các nhà trừng trung ḥc chuyên nghiệp và Cao đẳng, Đại ḥc GS – TSKH Thái Duy Tuyên viết: “Tự ḥc là hoạt động độc lập chiếm lĩnh kiến thức, kĩ nĕng, kĩ xảo, là tự m̀nh động não, suy nghĩ, sử dụng các nĕng lực tŕ tuệ (quan sát, so sánh, phân t́ch, tổng hợp) cùng các phẩm chất động cơ, t̀nh cảm đ̉ chiếm lĩnh tri thức một lĩnh vực hỉu biết nào đó hay những kinh nghiệm lịch sử, xã hội c̉a nhân loại, biến nó thành sở hữu c̉a ch́nh bản thân ngừi ḥc”. Tác giả Nguyễn Kỳ ở Tạp chí Nghiên cứu giáo dục số 7/1998 cũng bàn về khái niệm tự học: “Tự ḥc là ngừi ḥc t́ch cực ch̉ động, tự m̀nh t̀m ra tri thức kinh nghiệm bằng hành động c̉a m̀nh, tự th̉ hiện m̀nh. Tự ḥc là tự đặt m̀nh vào t̀nh huống ḥc, vào vị tŕ nghiên cứu, xử ĺ các t̀nh huống, giải quyết các vấn đề, thử nghiệm các giải phápTự ḥc thuộc quá tr̀nh cá nhân hóa việc ḥc”. Từ các quan niệm trên đây có thể nhận thấy (3) Bùi Hiền và các tác giả, 2001, Từ đỉn Giáo dục ḥc, Nxb Bách Khoa, Hà Nội. (4) Phạm Gia Đức, Phạm Đức Quang, 2007, Giáo tr̀nh dạy ḥc sinh trung ḥc cơ sở tự lực tiếp cận kiến thức toán ḥc, Nxb Sư phạm, Hà Nội. 141 Nâng cao nĕng lực tự học . . . rằng: Tự học là quá trình tự thân chiếm lĩnh những tri thức, tự trau dồi kĩ nĕng, tự bồi dưỡng tâm hồn của mình ở mọi lúc, mọi nơi. 2.2. Vai trò của tự học Tự ḥc là mục tiêu cơ bản c̉a quá tr̀nh dạy ḥc, Từ lâu các nhà sư phạm đã nhận thức rõ ý nghĩa của phương pháp dạy tự học. Trong quá trình hoạt động dạy học giảng viên không chỉ dừng lại ở việc truyền thụ những tri thức có sẵn, chỉ cần yêu cầu sinh viên ghi nhớ mà quan trọng hơn là phải định hướng, tổ chức cho sinh viên tự mình khám phá ra những qui luật, thuộc tính mới của các vấn đề khoa học. Giúp sinh viên không chỉ nắm bắt được tri thức mà còn biết cách tìm đến những tri thức ấy. B̀i dững nĕng lực tự ḥc là phương pháp tốt nhất đ̉ tạo ra động lực mạnh mẽ cho quá tr̀nh ḥc tập. Một trong những phẩm chất quan trọng của mỗi cá nhân là tính tích cực, sự chủ động sáng tạo trong mọi hoàn cảnh.Và, một trong những nhiệm vụ quan trọng của giáo dục là hình thành phẩm chất đó cho người học. Bởi từ đó nền giáo dục mới mong đào tạo ra những lớp người nĕng động, sáng tạo, thích ứng với mọi thị trường lao động, góp phần phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực (hình thành từ nĕng lực tự học) như một điều kiện, kết quả của sự phát triển nhân cách thế hệ trẻ trong xã hội hiện đại. Trong đó hoạt động tự học là những biểu hiện sự gắng sức cao về nhiều mặt của từng cá nhân người học trong quá trình nhận thức thông qua sự hưng phấn tích cực. Mà hưng phấn chính là tiền đề cho mọi hứng thú trong học tập. Có hứng thú người học mới có được sự tự giác say mê tìm tòi nghiên cứu khám phá. Hứng thú là động lực dẫn tới tự giác. Tính tích cực của con người chỉ được hình thành trên cơ sở sự phối hợp ngẫu nhiên giữa hứng thú với tự giác. Nó bảo đảm cho sự định hình tính độc lập trong học tập. Tự ḥc giúp cho ṃi ngừi có th̉ ch̉ động ḥc tập suốt đ̀i, học tập để khẳng định nĕng lực phẩm chất và để cống hiến. Tự học giúp con người thích ứng với mọi biến cố của sự phát triển kinh tế - xã hội. Bằng con đường tự học mỗi cá nhân sẽ không cảm thấy bị lạc hậu so với thời cuộc, thích ứng và bắt nhịp nhanh với những tình huống mới lạ mà cuộc sống hiện đại mang đến, kể cả những thách thức to lớn từ môi trường nghề nghiệp. Nếu rèn luyện cho người học có được phương pháp, kĩ nĕng tự học, biết linh hoạt vận dụng những điều đã học vào thực tiễn thì sẽ tạo cho họ lòng ham học, nhờ đó kết quả học tập sẽ ngày càng được nâng cao. Với những lí do nêu trên có thể nhận thấy, nếu xây dựng được phương pháp tự học, đặc biệt là sự tự giác, ý chí tích cực chủ động sáng tạo sẽ khơi dậy nĕng lực tiềm tàng, tạo ra động lực nội sinh to lớn cho người học. 3. MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT HUY NĔNG LỰC TỰ ḤC CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI MÔN ḤC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 3.1. Về phía Bộ Giáo dục và đào tạo Trong qui định chuẩn đầu ra đối với sinh viên, trong đó chú trọng mục tiêu đánh giá nĕng lực tự học, tự nghiên cứu và vận dụng giữa lý luận với thực tiễn của sinh viên khi học tập các môn Lý luận chính trị nói chung và môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng như một yêu cầu, nhiệm vụ bắt buộc đối với sinh viên các trường trong quá trình đào tạo. Có kế hoạch chỉ đạo triển khai định kì nhằm theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc thực hiện của các trường về mục tiêu đổi mới phương pháp giảng dạy và nâng cao chất lượng dạy học các môn lý luận chính trị. Định hướng cách ra đề thi, tổ chức biên soạn và thẩm định giáo trình sao cho sinh viên trong quá trình học tập các môn học này và ngay cả sau khi ra trường vẫn có ý thức tự giác và nhu cầu nâng cao khả nĕng tự học. Xây dựng nhận thức đúng đắn cho các cấp quản lý, giảng viên và sinh viên về tầm quan trọng và ý nghĩa khoa học thực tiễn của môn học tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế. Với bất cứ môn học nào, để học tốt điều trước hết phải nhận thức đúng về 142 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật giá trị lý luận, khoa học và ý nghĩa thực tiễn của môn học đó. Từ đó xây dựng tình cảm, động cơ đúng đắn trong quá trình học tập, giải tỏa được tâm lý gò ép nặng nề, để giúp sinh viên tránh được áp lực khô khan, cứng nhắc. Bộ cần có sự hướng dẫn cụ thể, cập nhật về chương trình tập huấn, kế hoạch nghiên cứu thực tế của giảng viên giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh cho các trường đại học để bài giảng có sức thuyết phục, kết hợp được lý luận và thực tiễn. 3.2. Về phía nhà trường Hoàn thiện đề cương chi tiết môn học trên cơ sở khung chương trình đào tạo của Bộ, trong đó phải chú trọng đến việc xây dựng kế hoạch đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập, đây cũng là tiền đề để điều chỉnh chương trình đào tạo, tổ chức giảng dạy và học tập. Tĕng cường công tác kiểm tra, giám sát đảm bảo chất lượng giảng dạy của giảng viên và học tâp của sinh viên. Nhà trường chú trọng xây dựng cơ sở vật chất, đặc biệt là các phòng giáo dục truyền thống, thư viện tra cứu các nguồn học liệu, tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên đi thực tế Trong đó, nguồn học liệu phải thường xuyên được cập nhật, bổ sung làm cho thông tin ngày càng phong phú, đa dạng, đáp ứng nhu cầu tra cứu và học tập của giảng viên, sinh viên. Phối hợp định kỳ với các phòng /Khoa/Ban và các đơn vị chức nĕng trong và ngoài trường như Phòng công tác học sinh sinh viên, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên tổ chức các buổi hội thảo chuyên đề, trao đổi kinh nghiệm về đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập môn tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm tổng kết đánh giá và định hướng giảng dạy, học tập cho giảng viên, sinh viên trong điều kiện học chế tín chỉ. Đặc biệt quan tâm thường xuyên nội dung, công tác tuyên truyền, giáo dục giúp cho sinh viên nâng cao ý thức tự giác, tinh thần thái độ học tập nghiêm túc, nắm vững lý luận và biết vận dụng kiến thức đã học để giải quyết vấn đề thực tiễn một cách linh hoạt và hiệu quả. 3.3. Về phía giảng viên Cĕn cứ vào đề cương chi tiết môn học, xây dựng lịch trình, kế hoạch giảng dạy và kiểm tra, đánh giá học phần đảm bảo theo yêu cầu nâng cao chất lượng đào tạo. Giảng viên chú ý khơi gợi, kích thích động cơ học tập của sinh viên thông qua đổi mới phương pháp dạy học, công tác kiểm tra, đánh giá như: Tĕng tỷ lệ điểm đánh giá quá trình để ràng buộc sinh viên phải chủ động học tập, nâng cao ý thức, thái độ tự giác trong học tập; giao các bài tập ở nhà như bài tập cá nhân, bài tập nhóm, chấm và sử dụng điểm đánh giá quá trình thật khách quan, công bằng và nghiêm túc. Trong quá trình giảng dạy, giảng viên nên giành thời gian thích hợp để hướng dẫn sinh viên rèn luyện một số kĩ nĕng tự học. Việc này cần phải được tiến hành vào những tiết học đầu tiên của học phần, nhằm giới thiệu tổng quát về yêu cầu, nội dung, chương trình của học phần, giới thiệu cách học, phương pháp học. Các phương pháp giảng dạy trong học phần đều phải hướng đến mục tiêu lấy người học làm trung tâm, vì vậy giảng viên phải luôn quan tâm, nhắc nhở sinh viên việc tự học, tự nghiên cứu trước khi lên lớp để có thể chủ động nắm bắt kiến thức hiệu quả hơn. Các phương pháp giảng dạy đề xuất để đối với giảng viên để nâng cao nĕng lực tự học của sinh viên đối với môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh: Sử dụng phương pháp thảo luận trong dạy ḥc đ̉ thực hiện việc “nêu và giải quyết vấn đề”. Tại công vĕn số 83/BDGĐT – ĐH&SĐH ngày 05/01/2006 về hứng d̃n thực hiện chương tr̀nh các môn Khoa ḥc Mác – Lênin và tư tưởng H̀ Ch́ Minh tr̀nh độ đại ḥc, cao đẳng của Bộ Giáo dục và Đào tạo: “Giảng viên chủ trì thảo luận theo lớp do trường bố trí với quy mô phù hợp, đảm bảo cho tất cả sinh viên đều có cơ hội phát biểu thảo luận. Nội dung thảo luận cần hướng vào kiến thức cơ bản của môn học, đặc biệt lưu ý việc liên hệ thực tiễn đất nước và chuyên ngành đào tạo của sinh viên”. 143 Nâng cao nĕng lực tự học . . . Nĕm 2008, Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số 52/2008/QĐ – BGDĐT về chương tr̀nh các môn lý luận ch́nh trị tr̀nh độ đại ḥc và cao đẳng, đào tạo theo ḥc chế t́n chỉ với 70% lý thuyết, 30% thảo luận. Thảo luận là hình thức dạy học chính khóa theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Như vậy, tổ chức tốt các giờ có thảo luận chính là góp phần đổi mới, nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập các môn khoa học Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tự học và thảo luận có vai trò rất quan trọng trong quá trình nắm vững và vận dụng tri thức vào cuộc sống. Dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh trước hết phải quán triệt quan điểm của Người về vai trò của tự học, tự giáo dục và thảo luận. Thảo luận là một trong những hình thức để khắc phục hạn chế của phương pháp dạy học truyền thống (thuyết trình). Thông qua thảo luận, sinh viên có điều kiện, môi trường để thể hiện sự hiểu biết, nĕng lực đánh giá vấn đề cũng như việc thực hành ứng xử các chuẩn mực đạo đức theo tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Quá trình chuẩn bị nội dung thảo luận, sinh viên phải nghiên cứu bài giảng, tìm tư liệu và xử lý thông tin trước khi đưa nội dung ra trước tập thể lớp, quá trình này làm cho sinh viên không những nắm được kiến thức cơ bản mà còn mở rộng và nâng cao sự hiểu biết về nội dung trí thức của môn học. Tổ chức thảo luận là cơ hội để sinh viên trình bày chính kiến, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau đối thoại để giải quyết một vấn đề lý luận hoặc thực tiễn. Như vậy, thảo luận sẽ nâng cao nĕng lực tự học, rèn luyện cho sinh viên kỹ nĕng trình bày vấn đề khoa học, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị của sinh viên. Thảo luận đòi hỏi người dạy phải nâng cao trình độ chuyên môn, nĕng lực sư phạm, khả nĕng am hiểu thực tế để phục vụ cho công tác giảng dạy. Trong phương pháp tổ chức thảo luận, người học – đối tượng của hoạt động “dạy”, đồng thời là chủ thể của hoạt động “ḥc” – được cuốn hút, tham gia vào các hoạt động do người thầy tổ chức và chỉ đạo. Thông qua hoạt động này sinh viên sẽ củng cố thêm hệ thống tri thức cũng như tự mình tìm kiếm vấn đề và các phương án giải quyết trong thực tiễn. Hình thức thảo luận phát huy tính tự tin, tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên không có nghĩa là vai trò của người thầy sẽ lu mờ, trái lại để thực sự đóng vai trò là người tổ chức thực hiện, hướng dẫn sinh viên trong hoạt động học tập vai trò của người thầy phải được nâng cao, có như vậy mới thực sự là người định hướng các hoạt động học tập của sinh viên. Ưu thế của phương pháp này là: Phát huy được tính chủ động, tích cực của người học nhiều hơn (lấy người học làm trung tâm); kiến thức, kinh nghiệm sẵn có của người học được giảng viên tác động, kích thích, làm biến đổi, phát triển. Nội dung học tập phải gắn với kinh nghiệm sống của bản thân người học. Phát huy tư duy độc lập, sáng tạo của sinh viên trong khai thác di sản của Hồ Chí Minh, nhất là những vấn đề liên quan đến sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh của Đảng ta vào thực tiễn Việt Nam. Bởi vì, để chuẩn bị cho tiết thảo luận, sinh viên buộc phải tìm hiểu, nghiên cứu, tham khảo nhiều tài liệu để có thông tin viết bài thảo luận theo sự hiểu biết và quan điểm của bản thân, trong quá trình chuẩn bị bài viết sinh viên có điều kiện bày tỏ chính kiến của bản thân một cách chủ động, luyện tập được cách viết, cách phân tích vấn đề logic, chặt chẽ. Quá trình trao đổi, thảo luận vấn đề giữa các sinh viên dưới sự hướng dẫn của giảng viên, sinh viên bộc lộc nĕng lực cá nhân trước nhiều người, học hỏi lẫn nhau cách trình bày, cách diễn đạt, được thực hành khả nĕng trình bày, diễn đạt của bản thân, qua đó lựa chọn được cách trình bày, diễn đạt tối ưu, bổ sung thêm nhận thức để làm sáng tỏ nội dung thảo luận, lý giải, phê phán có cơ sở khoa học, tạo thành lòng tin phát huy tính độc lập, tự chủ và sáng tạo trong tư duy, trong nhận thức. Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy – ḥc Hệ thống thông tin, tư liệu phục vụ giảng dạy tư tưởng Hồ Chí Minh rất phong phú, đa 144 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật dạng tồn tại dưới nhiều dạng khác nhau như vĕn bản, sách báo, số liệu, bản đồ, sơ đồ, hình ảnh, âm thanh, phim tư liệu Đó là những vật chất cần thiết để xây dựng những bài giảng sinh động, có hai hướng: + Khai thác thông tin, tư liệu giảng dạy từ internet. Ứng dụng công nghệ để khai thác thông tin, tư liệu giảng dạy từ internet là quá trình sử dụng công nghệ thông tin với những phần mềm tin học hết nối với internet để tìm kiếm, khai thác thông tin, tổng hợp thành hệ thống tư liệu phục vụ quá trình biên soạn, thiết kế bài giảng và giảng dạy. Với việc sử dụng internet để khai thác thông tin tư liệu cho phép giảng viên nhân chóng tiếp cận nhiều nguồn khác nhau trong thời gian ngắn, kết quả được thu thập, xử lý nhanh chóng. Kết quả tìm kiếm và thư viện tư liệu, giảng viên có thể giới thiệu để sinh viên nghiên cứu, học tập. + Khai thác tư liệu từ hệ thống bĕng, đĩa tư liệu về Hồ Chí Minh. Ứng dụng công nghệ thông tin để khai thác tư liệu từ hệ thống bĕng đĩa tư liệu về Hồ Chí Minh là quá trình lựa chọn, sử dụng các thiệt bị công nghệ để khai thác tư liệu từ hệ thống bĕng, đĩa tư liệu về Hồ Chí Minh nhằm phục vụ cho quá trình dạy học môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế trình bày bài giảng điện tử là quá trình sử dụng các phần mềm và phương tiện dạy học để xây dựng giáo trình, bài giảng và giảng dạy hệ thống giáo trình, bài giảng đó. Việc ứng dụng đó tạo điều kiện đẩy nhanh quá trình đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của sinh viên, tĕng cường khả nĕng tương tác, làm việc theo nhóm của sinh viên cũng như khả nĕng tương tác giữa giảng viên và sinh viên. Bên cạnh đó, giảng viên có thể tiến hành thiết kế bài giảng, điều chỉnh nội dung bài giảng một cách nhanh chóng phù hợp với từng đối tượng nhóm, lớp học. 3.4. Về phía sinh viên Trang bị phương pháp học tập đại học hiệu quả. Bước đầu của quá trình tự học có thể sinh viên còn nhiều lúng túng nhưng đó cũng chính là động lực giúp sinh viên tư duy để thoát khỏi những khó khĕn, lúng túng đó, nhờ vậy mà thành thạo lên. Một trong những mục tiêu quan trọng mà giáo dục ở bậc đại học hướng đến là giúp sinh viên tiếp cận tri thức và có thể vận dụng tốt trong thực tiễn công việc sau này. Bản thân sinh viên phải chủ động tìm hiểu kiến thức về phương pháp học tập, nghiên cứu thực tiễn, tham gia các hội thảo, hoạt động ngoại khóa liên quan đến rèn luyện tư duy, phương pháp học tập ở bậc đại học hiệu quả nhằm phát huy tốt nhất nĕng lực bản thân trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội kiến thức các môn học nói chung và môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng trong trường đại học. Xây dựng niềm đam mê và tinh thần tự giác trong học tập. Muốn đạt được một kết quả học tập tốt thì trước hết sinh viên phải có niềm đam mê, ý thức tự giác, thường xuyên tự trau dồi kiến thức chuyên môn, tìm hiểu, sưu tầm những câu chuyện về Hồ Chí Minh, coi Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc học tập cũng như trong lao động, cuộc sống. 4. KẾT LUẬN Đổi mới phương pháp dạy – học môn tư tưởng Hồ Chí Minh là việc làm thường xuyên và cấp thiết, nhờ đó mà chất lượng dạy – học, chất lượng đào tạo mới được nâng cao. Nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, yêu cầu đặt ra là phải tích cực chủ động nhiều hơn nữa việc đổi mới phương pháp dạy – học môn tư tưởng Hồ Chí Minh nói riêng và các môn học khác nói chung. Hoạt động hướng dẫn sinh viên tự học của giảng viên tư tưởng Hồ Chí Minh và hoạt động tự học của sinh viên sẽ làm nền tảng để sinh viên có điều kiện để tự nghiền ngẫm những vấn đề nảy sinh trong học tập môn học theo một phong cách riêng với những yêu cầu và điều kiện thích hợp. Điều đó không chỉ giúp bản thân sinh viên nắm được vấn đề một cách chắc chắn và bền 145 Nâng cao nĕng lực tự học . . . vững; chủ động bồi dưỡng phương pháp học tập và kĩ nĕng vận dụng tri thức mà còn là dịp tốt để rèn luyện ý chí và nĕng lực hoạt động độc lập sáng tạo. Đó là những phẩm chất mà chỉ có chính bản thân sinh viên tự rèn luyện kiên trì mới có được, không một ai có thể cung cấp hay làm thay cho mình. Thực tế cũng đã chứng minh, mỗi thành công của sinh viên trên con đường học tập nghiên cứu không bao giờ là kết quả của lối học tập thụ động, đối phó, chờ thời. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2007), Công vĕn số 83/BGDĐT – ĐH&SĐH, Hứng d̃n thực hiện chương tr̀nh các môn Khoa ḥc Mác – Lênin và Tư tưởng H̀ Ch́ Minh tr̀nh độ đại ḥc và cao đẳng, Hà Nội. [2]. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Vĕn kiện đại hội đại bỉu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.285. [3]. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Vĕn kiện đại hội đại bỉu toàn quốc lần thứ X, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr.256 - 257. [4]. Đặng Quốc Bảo, Nguyễn Đắc Hưng, 2004, Giáo dục Việt Nam hứng t́i tương lai vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [5]. Lưu Xuân Mới, 2001, Phương pháp dạy học đại học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. [6]. Nguyễn Nghĩa Dán, V̀ nĕng lực tự ḥc sáng tạo c̉a ḥc sinh, Tạp chí Nghiên cứu Giáo dục, số 2/ 1998. [7]. Trần Bá Hoành, Vị tŕ c̉a tự ḥc tự đào tạo trong quá tr̀nh dạy ḥc giáo dục và đào tạo, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, số tháng 7/1998. [8]. Đặng Vũ Hoạt, Một số nét về thực trạng, phương pháp dạy ḥc đại ḥc, Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục”, số 1/ 1994. [9]. Phạm Trọng Luận, Về khái niệm “Ḥc sinh là trung tâm”, Tạp chí “Nghiên cứu Giáo dục”, số 2/ 1995. [10]. Thái Duy Tuyên, Giáo dục ḥc hiện đại - Những vấn đề cơ bản, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001.
File đính kèm:
- nang_cao_nang_luc_tu_hc_cua_sinh_vien_doi_voi_mon_hoc_tu_tuo.pdf