Nghiên cứu đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế
Nhằm tìm hiểu thực trạng, nhu cầu phát
triển nghề công xã hội tại các cơ sở y tế, nghiên
cứu mô tả cắt ngang đã đợc tiến hành tại 8
bệnh viện tuyến trung ơng, một số cơ sở y tế tại
6 tỉnh/thành và 4 cơ sở đào tạo về chuyên ngành
công tác xã hội (CTXH) trong cả nớc. Kết quả
nghiên cứu cho thấy nhân viên y tế hiện đang
phải chịu áp lực lớn trong cung cấp dịch vụ
khám chữa bệnh (KCB) tại các cơ sở y tế công
lập thuộc các tuyến với tình trạng quá tải phổ
biến ở hầu hết các bệnh viện đợc khảo sát. Quy
mô và công suất sử dụng giờng bệnh luôn ở
mức cao với khoảng từ >110% đến 130% trong
khi định biên cán bộ y tế thờng thấp hơn so với
quy định. Gần 1/3 số cán bộ y tế đợc phỏng vấn
cha hài lòng hoặc khó nhận xét về chất lợng
cung cấp dịch vụ KCB với lý do chủ yếu là thời
gian khám bệnh/lần cha thỏa đáng và các dịch
vụ t vấn hớng dẫn, hỗ trợ tâm lý cho bệnh
nhân cha đợc quan tâm đúng mức. Một số
bệnh viện đã triển khai hoạt động CTXH nhằm
giảm bớt áp lực công việc cho nhân viên y tế và
tăng cờng các trợ giúp xã hội cho bệnh nhân
trong quá trình KCB. Tuy nhiên, hoạt động
CTXH đang đợc thực hiện mang tính tự phát
với sự đa dạng cả về mô hình tổ chức, hình thức
sử dụng nhân lực cũng nh nội dung hoạt động.
Các hoạt động CTXH trong cộng đồng cũng rất
cần đợc chú ý nhng lại cha nhận đợc sự
quan tâm đúng mức. Cần tăng cờng đẩy mạnh
hơn nữa công tác truyền thông về sự cần thiết,
vai trò của hoạt động CTXH trong ngành y và có
lộ trình về phát triển nghề CTXH trong Ngành
cho phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng
của các đơn vị trong thực tế
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu đánh giá thực trạng và nhu cầu phát triển nghề công tác xã hội trong ngành Y tế
17 NGHIÊN CứU ĐáNH GIá THựC TRạNG Và NHU CầU PHáT TRIểN NGHề CÔNG TáC Xã HộI TRONG NGàNH Y Tế 1 ThS Vũ Thị Minh Hạnh , ThS Vũ Thị Mai Anh, CN Hoàng Ly Na và cộng sự 2 Nhằm tìm hiểu thực trạng, nhu cầu phát triển nghề công xã hội tại các cơ sở y tế, nghiên cứu mô tả cắt ngang đã được tiến hành tại 8 bệnh viện tuyến trung ương, một số cơ sở y tế tại 6 tỉnh/thành và 4 cơ sở đào tạo về chuyên ngành công tác xã hội (CTXH) trong cả nước. Kết quả nghiên cứu cho thấy nhân viên y tế hiện đang phải chịu áp lực lớn trong cung cấp dịch vụ khám chữa bệnh (KCB) tại các cơ sở y tế công lập thuộc các tuyến với tình trạng quá tải phổ biến ở hầu hết các bệnh viện được khảo sát. Quy mô và công suất sử dụng giường bệnh luôn ở mức cao với khoảng từ >110% đến 130% trong khi định biên cán bộ y tế thường thấp hơn so với quy định. Gần 1/3 số cán bộ y tế được phỏng vấn chưa hài lòng hoặc khó nhận xét về chất lượng cung cấp dịch vụ KCB với lý do chủ yếu là thời gian khám bệnh/lần chưa thỏa đáng và các dịch vụ tư vấn hướng dẫn, hỗ trợ tâm lý cho bệnh nhân chưa được quan tâm đúng mức. Một số bệnh viện đã triển khai hoạt động CTXH nhằm giảm bớt áp lực công việc cho nhân viên y tế và tăng cường các trợ giúp xã hội cho bệnh nhân trong quá trình KCB. Tuy nhiên, hoạt động CTXH đang được thực hiện mang tính tự phát với sự đa dạng cả về mô hình tổ chức, hình thức sử dụng nhân lực cũng như nội dung hoạt động. Các hoạt động CTXH trong cộng đồng cũng rất cần được chú ý nhưng lại chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Cần tăng cường đẩy mạnh hơn nữa công tác truyền thông về sự cần thiết, vai trò của hoạt động CTXH trong ngành y và có lộ trình về phát triển nghề CTXH trong Ngành cho phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng của các đơn vị trong thực tế. Tóm tắt: Lịch sử phát triển nhân loại cho thấy ở bất cứ giai đoạn nào với bất kể trình độ phát triển ra sao bao giờ cũng nảy sinh các vấn đề xã hội cùng với các nhóm xã hội yếu thế cần phải được quan tâm giúp đỡ. Các vấn đề này chỉ có thể giải quyết được bằng những tri thức và phương pháp khoa học của nghề Công tác xã hội. Công tác xã hội lần đầu tiên được triển khai trong các bệnh viện vào năm 1905 tại Boston, Mỹ. Đến nay hầu hết các bệnh viện ở Mỹ đều có phòng Công tác xã hội và đã trở thành một trong những điều kiện bắt buộc để các bệnh viện được công nhận là hội viên của Hội các bệnh viện [1], [5]. Tại Việt Nam, CTXH trong bệnh viện cũng đã bước đầu xuất hiện tại một số bệnh viện tuyến TƯ và tuyến tỉnh. Ngày 25/3/2010, Chính phủ đã phê duyệt Đề án 32/2010/QĐ-TTg về “Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010-2020” với mục tiêu phát triển công tác xã hội trở thành một nghề ở Việt Nam [3]. Ngày 15/7/2011, Bộ Y tế cũng đã ban hành Quyết định phê duyệt Đề án “Phát triển nghề công tác xã hội trong ngành y tế giai đoạn 2011-2020” với mục tiêu hình thành và Đặt vấn đề 1 2 - Phó Viện trưởng Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. ThS Vũ Thị Mai Anh, ThS Trần Thị Hồng Cẩm, ThS Trần Vũ Hiệp, ThS Hoàng Thị Mỹ Hạnh, ThS Trịnh Thị Sang, ThS Nguyễn Việt Hà, ThS Nguyễn Trọng Quỳnh, ThS Nguyễn Văn Hùng, CN Hoàng Ly Na Viện Chiến lược và Chính sách Y tế. BS. Phạm Thị Nga - Vụ Tổ chức Cán bộ, Bộ Y tế. ThS. Nguyễn Thị Hồng Yến - Cục Quản lý Khám chữa bệnh, Bộ Y tế. Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 18 Nghiên cứu chính sách phát triển nghề công tác xã hội trong ngành y tế, góp phần tăng cường chất lượng, hiệu quả của sự nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân [2]. Nghiên cứu này được tiến hành nhằm tìm hiểu thực trạng, nhu cầu phát triển nghề công tác xã hội tại các cơ sở y tế, trên cơ sở đó đề xuất kế hoạch đào tạo nhân lực về chuyên ngành này trong thời gian tới. 1. Phân tích những khó khăn, bất cập về nhân lực y tế tại các cơ sở y tế hiện nay đối với việc làm gia tăng sự hài lòng của người bệnh. 2. Xác định nhu cầu đào tạo nhân lực chuyên ngành CTXH chăm sóc sức khỏe trong thời gian tới. Mục tiêu nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu - Nhóm triển khai thực hiện: lãnh đạo và cán bộ tại các cơ sở y tế từ Trung ương tới địa phương. - Nhóm hưởng lợi: bệnh nhân, người dân trong cộng đồng. Địa bàn nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại 8 bệnh viện tuyến trung ương (Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện Trung ương Huế, Bệnh viện Chợ Rẫy, Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ, Bệnh viện Nhi Trung ương, Bệnh viện K), 4 cơ sở đào tạo chuyên ngành công tác xã hội (Đại học Thăng Long, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Lao động xã hội, Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh) và 11 bệnh viện đa khoa, chuyên khoa tuyến tỉnh, 7 bệnh viện tuyến quận/huyện, 6 trung tâm y tế dự phòng (TTYTDP)/Trung tâm Phòng chống các bệnh xã hội (TTPCBXH) và 12 xã/phường tại 6 tỉnh/thành phố trong cả nước. Phương pháp nghiên cứu Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt Đối tượng, địa bàn và phương pháp nghiên cứu ngang sử dụng 2 phương pháp nghiên cứu là định lượng và định tính. Các phương pháp thu thập thông tin bao gồm: (1) Thu thập thông tin bằng biểu mẫu thống kê (BMTK) gửi tới các bệnh viện/TTYTDP/TTPCBXH thuộc địa bàn nghiên cứu; (2) Điều tra bằng phiếu hỏi tự điền với 942 nhân viên y tế (NVYT) và 151 nhân viên CTXH; (3) Phỏng vấn phiếu hỏi bán cấu trúc với 899 bệnh nhân đang sử dụng dịch vụ tại các bệnh viện; (4) Phỏng vấn sâu 78 cuộc với lãnh đạo các đơn vị thuộc địa bàn nghiên cứu; (5) Thảo luận nhóm 101 cuộc với các nhóm đối tượng như bác sỹ, điều dưỡng, nhân viên CTXH, bệnh nhân/người nhà bệnh nhân, sinh viên năm 3,4 đang theo học chuyên ngành CTXH... Thông tin chung về các đơn vị thuộc địa bàn nghiên cứu Về quy mô giường bệnh: Hầu hết các bệnh viện thuộc địa bàn khảo sát đều có số giường thực kê cao hơn so với số giường kế hoạch và luôn ở trong tình trạng quá tải với công suất sử dụng giường bệnh phổ biến ở mức từ >80% đến >110%. Trong số 26 bệnh viện được khảo sát tại các tuyến, có 16 bệnh viện, (chiếm 61,3%) có số giường thực kê nhiều hơn so với giường kế hoạch. Về công suất sử dụng giường bệnh: Số bệnh viện quá tải về công suất sử dụng giường bệnh là 21/23, chiếm 91,3%. Một số bệnh viện đang ở mức quá tải trầm trọng với công suất sử dụng giường bệnh vượt quá 150% như Bệnh viện K (253%), Bệnh viện Bạch Mai (165%), BVĐK TW Huế (150,1%). Khó khăn, bất cập về nhân lực của các cơ sở Y tế hiện nay đối với việc đáp ứng nhu cầu của người bệnh trong cung cấp dịch vụ CSSK Đối với các cơ sở KCB: Tình trạng quá tải xảy ra ở hầu hết các bệnh viện. Càng ở bệnh viện tuyến trên, tỷ lệ cán bộ y Kết quả và bàn luận 19 tế nhận thấy tình trạng quá tải về số lượng bệnh nhân sử dụng dịch vụ KCB hàng ngày càng cao và càng trầm trọng. Số cán bộ công tác tại bệnh viện tuyến huyện nhận thấy quá tải về số lượng bệnh nhân sử dụng dịch vụ hàng ngày là 24,7% và quá tải trầm trọng chỉ có 3,5%. Các tỷ lệ tương ứng đối với cán bộ của bệnh viện tuyến tỉnh và bệnh viện tuyến TƯ cao hơn hẳn: 52,7% và 10,8% đối với bệnh viện tuyến tỉnh; 59,1% và 17,9% đối với bệnh viện tuyến TƯ. Mức độ quá tải cao nhất là ở bộ phận Hành chính (62,2%), tiếp theo là lĩnh vực Lâm sàng (54,8%). Biểu 1. ý kiến của NVYT về mức độ quá tải số lượng bệnh nhân hàng ngày theo phân tuyến bệnh viện. Về nhân lực: Trong 26 bệnh viện được khảo sát, có 9 bệnh viện đã có đủ định biên theo quy định của Thông tư 08 (chiếm 34,6%), 6 bệnh viện vượt (chiếm 23,1%) và 11 bệnh viện chưa đủ (42,3%). Hiện vẫn còn gần 1/2 số bệnh viện thuộc địa bàn nghiên cứu chưa đáp ứng đầy đủ nhân lực Y tế theo quy định của Thông tư 08. 67.3% 35.0% 33.9% 45.1% 92.0% 91.0% 65.5% 88.4% 84.0% 82.9% 70.6% 97.3% 0% 20% 40% 60% 80% 100% BV Nhân dân 115 BV tâm thần Nam Định BV Nhi TƯ Biểu 2. Tỷ lệ nhân lực Y tế hiện có so với mức trung bình của Thông tư 08. BVĐK tỉnh Nam Định BVĐK tỉnh Lâm Đồng BVĐK huyện Hải Hậu BVĐK tỉnh Yên Bái BVĐK TƯ Huế BV K BV Tâm thần TƯ 1 BV Lão khoa TƯ BV Bạch Mai Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 100% 80% 60% 40% 20% 0% Tuyến TƯ Tuyến tỉnh Tuyến huyện 0.2% 0.8% 1.0% 2.6% 5.9% 3.5% Không ý kiến Chưa sử dụng hết công suất Vừa phải Quá tải Quá tải trầm trọng 22.0% 59.1% 17.9% 10.8% 52.7% 32.9% 62.4% 24.7% 3.5% 20 Nghiên cứu chính sách Bảng 1. Ước tính bình quân số bệnh nhân/cán bộ YT/ngày Không chỉ quá tải trong cung cấp các dịch vụ cho người bệnh, nhân viên Y tế tại một số cơ sở KCB còn phải đương đầu với những thách thức từ sự thiếu hợp tác của bệnh nhân và người nhà bệnh nhân và tính chất đặc thù của từng chuyên khoa. Tình trạng quá tải về số lượng bệnh nhân sử dụng dịch vụ/ngày và thiếu hụt về nhân lực Y tế là những tác nhân trực tiếp khiến cho chất lượng cung cấp dịch vụ tại hầu hết các cơ sở KCB hiện nay còn hạn chế. Kết quả khảo sát cho thấy, gần 1/3 số cán bộ y tế trả lời phiếu tự điền thừa nhận chưa hài lòng hoặc khó nhận xét về chất lượng cung cấp dịch vụ KCB hàng ngày, nhất là tại các bệnh viện tuyến TƯ. Lý do khiến cho các cán bộ y tế chưa hài lòng với dịch vụ do cơ sở KCB cung cấp là thời gian khám bệnh/lần chưa thỏa đáng (44%), chưa hướng dẫn cụ thể cho bệnh nhân về quy trình khám chữa bệnh (38%), chưa tư vấn đầy đủ trước khi cung cấp dịch vụ cận lâm sàng (24,9%) chưa tư vấn đầy đủ về thuốc và phác đồ điều trị (23,6%), chưa tư vấn tâm lý, động viên bệnh nhân an tâm điều trị (17%)... Nhân viên Y tế thường xuyên chịu áp lực lớn trong công việc. Số lượng bệnh nhân/nhân viên y tế/ngày nhiều nhất là tại khu vực Khám bệnh, tiếp đến là khu vực Cận lâm sàng. Bình quân một nhân viên y tế tại bàn tiếp đón của khu vực khám bệnh phục vụ khoảng 49 bệnh nhân. Bình quân một bác sỹ tại khu vực Khám bệnh đã khám bệnh và kê đơn cho khoảng 42 bệnh nhân/ngày; khoảng thời gian trung bình/bệnh nhân chỉ đạt 11,4 phút. Nội dung Bình quân số BN/CBYT/ngày Tiếp đón và cung cấp thông tin về quy trình KCB cho bệnh nhân Khám bệnh kê đơn tại phòng khám Cung cấp các dịch vụ cận lâm sàng Khám bệnh và chỉ định điều trị tại các khoa lâm sàng Thực hiện theo đúng y lệnh của bác sĩ Hoàn tất thủ tục ra viện 42 37 22 35 13 STT 491 2 3 4 5 6 Bảng 2. ý kiến của cán bộ Y tế về chất lượng KCB theo tuyến bệnh viện (%) Mức độ Trung ương Tỉnh Huyện Chung Rất bằng lòng 8.5% 11.8% 14.1% 10.8% Bằng lòng Chưa bằng lòng Khó trả lời 55.5% 29.7% 6.3% 57.9% 23.2% 7.0% 69.4% 10.6% 5.9% 58.0% 24.6% 6.6% Nhu cầu sử dụng dịch vụ KCB của người bệnh chưa được đáp ứng thỏa đáng: Tại tất cả các khâu trong chu trình khám chữa bệnh từ khoa khám bệnh tới các khoa cận lâm sàng, lâm sàng và hoàn tất thủ tục khi ra viện, vẫn còn nhiều khoảng trống trong cung cấp các dịch vụ hỗ trợ điều trị cho bệnh nhân rất cần được lấp đầy bởi sự hiện diện của nhân viên CTXH. Bệnh nhân chưa thực sự hài lòng với chất lượng dịch vụ khám chữa bệnh tại các bệnh viện. Kết quả khảo sát cho thấy có 29,7% số cán bộ y tế thừa nhận sự chưa hài lòng của bệnh nhân đối với 21 Bảng 3. ý kiến của bệnh nhân về lý do chưa hài lòng khi sử dụng dịch vụ khám bệnh (%). dịch vụ KCB và 6,3% né tránh không nhận xét. Theo phản hồi của bệnh nhân tại các bệnh viện, khu vực Cận lâm sàng và khu vực Khám bệnh có tỷ lệ bệnh nhân hài lòng thấp hơn so với khu Điều trị: 89,4% và 91,8% so với 93,2%. Lý do Khám bệnh Cận L.sàng Lâm sàng Không được hướng dẫn chi tiết, giải thích không đầy đủ 31,8 54,8 33,3 16,7 22,9 72,9 12,5 12,5 57,2 Điều kiện cơ sở vật chất chưa đảm bảo, thiếu các dịch vụ hỗ trợ... 4,8 14,6 42,9 - - 17,9 Mất thời gian chờ đợi Thủ tục phức tạp Thái độ ứng xử của nhân viên Y tế không tốt Những lý do làm bệnh nhân chưa hài lòng mà nguyên nhân từ phía nhân viên y tế (không hướng dẫn chi tiết, giải thích không đầy đủ và thái độ ứng xử không tốt) chiếm tỷ lệ rất đáng quan tâm ở tất cả các công đoạn chủ yếu trong quá trình cung cấp dịch vụ KCB: từ >40% đến >70%. Nguyên nhân sâu xa của tình trạng này ngoài một phần do lỗi chủ quan từ nhân viên y tế, xét cho cùng đều do quá tải bệnh viện đem lại. Đối với việc triển khai các Chương trình mục tiêu y tế quốc gia (CTMTYTQG) tại cộng đồng: Các CTMTYTQG triển khai ngày càng đa dạng trong khi nhân lực thực hiện các CTMTYTQG tại tuyến xã/phường chủ yếu là kiêm nhiệm; BN ngày càng nhiều, nhu cầu truyền thông GDSK, tư vấn hỗ trợ BN điều trị, tái hòa nhập cộng đồng ngày càng lớn. Thực trạng CTXH tại các đơn vị Y tế thuộc địa bàn khảo sát CTXH tại các bệnh viện: Về mô hình tổ chức: Trong số 26 bệnh viện được khảo sát, có 22 đơn vị (84,6%) đã triển khai các hoạt động về CTXH nhưng chỉ có 5/22 đơn vị (22,7%) có đầu mối chuyên trách về CTXH. Số bệnh viện còn lại là lồng ghép hoạt động về CTXH trong từng khoa/phòng trực thuộc. Mô hình tổ chức của các đầu mối chuyên trách về CTXH cũng không đồng nhất: có thể là trực thuộc Ban Giám đốc như Phòng CTXH của Bệnh viện Nhi TW hay Đơn vị Y Xã hội của BV Chợ Rẫy hoặc cũng có thể là một tổ thuộc khoa Điều dưỡng như ở BVĐK TW Huế, BV Nhân dân 115. Về nhân lực: Có 151 nhân viên CTXH đang thực hiện các hoạt động hỗ trợ xã hội cho người bệnh tại 22 bệnh viện có triển khai các hoạt động này, trong đó 50,3% làm việc tại các BV tuyến trung ương; 23,2% làm việc tại BV tuyến tỉnh và 26,5% làm việc tại BV tuyến huyện. Nữ chiếm số đông trong những người làm CTXH tại bệnh viện (78,1%). Cán bộ được đào tạo chuyên ngành CTXH chiếm tỷ lệ rất ít, chỉ 2%, còn lại chủ yếu được tào tạo trong ngành y (bác sỹ: 10,6%; y sĩ: 9,3% và điều dưỡng: 58,9%). Về phương thức hoạt động: Tỷ lệ cán bộ làm chuyên trách về CTXH tại các BV không cao (chỉ có 18,5%); số còn lại đa phần là làm kiêm nhiệm (41,8%) và cộng tác viên (39,7%). Kinh phí để duy trì các hoạt động về CTXH đã được huy động từ nhiều nguồn khác nhau song chủ yếu vẫn là từ các bệnh viện (81%). Về những hoạt động đã triển khai: Nội dung của các hoạt động về CTXH đã được triển khai thực hiện khá phong phú trong thực tiễn, tuy Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 22 Nghiên cứu chính sách nhiên phần lớn vẫn là các hoạt động cung cấp thông tin về quy trình KCB cho bệnh nhân hoặc cung cấp các hỗ trợ về vật chất mang tính từ thiện xã hội hoặc kết nối với các dịch vụ phục vụ sinh hoạt trong và ngoài bệnh viện. Các nội dung về tư vấn và trợ giúp tâm lý cho bệnh nhân còn ít được các cơ sở KCB cũng như nhân viên CTXH thực hiện. 86.4% 81.8% 72.7% 90.9% 72.7% 54.5% 90.9% 77.3% 86.4% 86.4% 63.6% 22.7% 71.5% 41.7% 47.7% 41.1% 33.1% 70.2% 33.1% 41.1% 41.7% 53.0% 47.0% 46.4% 25.7% 0.6% 0% 50% 100% Hướng dẫn thủ tục và quy trình khám chữa bệnh Cung cấp thông tin, tư vấn về các dịch vụ CLS Cung cấp thông tin, tư vấn về các dịch vụ lâm sàng Chuyển tải thông tin của người bệnh tới CBYT Hỗ trợ tâm lý cho người bệnh và gia đình Hỗ trợ về vật chất cho người bệnh và gia đình Quyên góp, tạo quỹ hỗ trợ cho người bệnh Bảo vệ quyền lợi hợp pháp của người bệnh Giới thiệu BN tới các dịch vụ hỗ trợ khác trong BV Hướng dẫn thủ tục xuất viện Tư vấn hướng dẫn tuân thủ điều trị sau khi xuất viện Nhắc lịch tái khám Giới thiệu BN tới các dịch vụ hỗ trợ khác sau khi xuất viện Khác Nhân viên CTXH có cung cấp dịch vụ Bệnh viện có triển khai DV 86.4% 81.8% Biểu 3. Nội dung của hoạt động CTXH tại các bệnh viện thuộc địa bàn khảo sát (%) CTXH trong hầu hết các bệnh viện mặc dù mới chỉ mang tính tự phát nhằm đáp ứng những nhu cầu bức thiết của người bệnh và các cơ sở Y tế song cũng đã bước đầu mang lại nhiều lợi ích thiết thực, phát huy đắc lực vai trò hỗ trợ cho hoạt động điều trị. Về những khó khăn, bất cập: mặc dù đây là một lĩnh vực rất cần thiết đối với các bệnh viện song để duy trì và phát triển họ đang phải đối mặt với nhiều khó khăn thách thức, trong đó nổi bật nhất là về nhân lực (85,7% chưa được đào tạo; 71,4% thiếu nhân lực); tiếp đến là thiếu kinh phí hoạt động (78,6%) và thiếu cơ sở pháp lý quy định về tổ chức, định biên của bộ phận này (71,4%)... Bên cạnh đó còn có một số khó khăn khác như: nội dung hoạt động chưa rõ ràng (64,3%) và thiếu sự cộng tác của nhân viên y tế (21,4%)... CTXH tại cộng đồng: Kết quả khảo sát cho thấy các hoạt động CTXH trong cộng đồng cũng rất cần được chú ý nhưng lại chưa nhận được sự quan tâm đúng mức. Nhu cầu đào tạo nhân lực chuyên ngành CTXHYT trong thời gian tới 23 Hầu hết các đối tượng nghiên cứu đều nhận thấy hoạt động CTXH trong BV là rất cần thiết: 76,9% số bệnh viện; 79,3% số cán bộ y tế và 74,4% số bệnh nhân được phỏng vấn. ý kiến nên thành lập bộ phận độc lập chuyên trách về hoạt động này được 61,5% số bệnh viện và 44,9% số cán bộ y tế đồng tình ủng hộ. Về số lượng nhân viên CTXH: Tùy theo tuyến bệnh viện, quy mô, công suất sử dụng giường bệnh và cơ cấu tổ chức các khoa/phòng mà tuyển dụng số lượng nhân viên CTXH cho phù hợp với nhu cầu cũng như quy định về định biên trong thực tế. Với BV tuyến TƯ, tỉnh nên có bộ phận chuyên trách về CTXH trực thuộc Ban giám đốc (có từ 10- 25 nhân viên) và mạng lưới kiêm nhiệm tại các khoa/phòng trong bệnh viện (1 - 2 CB kiêm nhiệm/khoa/phòng). BV tuyến huyện cần 5 nhân viên CTXH chuyên trách và 20 nhân viên CTXH kiêm nhiệm. Như vậy với 42 bệnh viện TƯ, 348 bệnh viện tuyến tỉnh và 615 bệnh viện huyện, ước tính cần > 3.000 nhân viên CTXH chuyên trách và > 12.000 nhân viên CTXH kiêm nhiệm trong cả nước. Về hình thức tham gia: có 75,9% số cán bộ cho rằng nhân lực tiến hành các hoạt động về CTXH tại đơn vị nên làm chuyên trách và được đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực này. Với ý kiến về cán bộ làm kiêm nhiệm, 51,4% cho rằng có thể phân công bác sỹ làm kiêm nhiệm; 60,8% nên phân công điều dưỡng làm kiêm nhiệm; 49,8% nên phân công cán bộ các phòng chức năng làm kiêm nhiệm và 33,3% nên giao cho các tình nguyện viên bên ngoài... cán bộ Y tế thường thấp hơn so với quy định. Tại cộng đồng, các CTMTYTQG được triển khai ngày càng đa dạng, số lượng bệnh nhân của các Chương trình ngày càng nhiều, nhân lực thực hiện phổ biến là kiêm nhiệm, vì vậy các hoạt động CTXH tại cộng đồng chưa được quan tâm thoả đáng. Một số bệnh viện đã triển khai hoạt động CTXH nhằm giảm bớt áp lực công việc cho nhân viên y tế và tăng cường các trợ giúp xã hội cho bệnh nhân trong quá trình KCB. Tuy nhiên hoạt động CTXH hiện đang được thực hiện mang tính tự phát với sự đa dạng cả về mô hình tổ chức, hình thức sử dụng nhân lực cũng như nội dung hoạt động. Nhu cầu phát triển nghề CTXH được hầu hết cán bộ lãnh đạo tại các cơ sở KCB và cán bộ triển khai các CTMTYTQG tại cộng đồng thuộc địa bàn khảo sát khẳng định, đồng thời cũng đã được một tỷ lệ đáng kể cán bộ y tế (79,3%) và bệnh nhân (74,4%) đồng tình. Kết luận Nhân viên y tế tại các cơ sở y tế công lập các tuyến hiện đang phải chịu áp lực công việc lớn với tình trạng quá tải xảy ra phổ biến ở hầu hết các bệnh viện được khảo sát, quy mô và công suất sử dụng giường bệnh luôn ở mức cao với khoảng từ >110% đến 130% trong khi định biên Khuyến nghị Cần có lộ trình về phát triển nghề CTXH trong Ngành cho phù hợp với nhu cầu và khả năng đáp ứng của các đơn vị trong thực tế. Đầu mối đảm nhận hoạt động về CTXH cần được tổ chức như một đơn vị độc lập trong các bệnh viện. Nội dung hoạt động về CTXH cần phải được hướng dẫn và triển khai toàn diện. Chú trọng đào tạo đội ngũ nhân lực về CTXH trong các bệnh viện cũng như trong CSSKBĐ tại cộng đồng. Ban hành hướng dẫn về tiêu chuẩn và chế độ chính sách đối với chức danh chuyên môn về CTXH trong ngành y tế. Đẩy mạnh truyền thông về sự cần thiết, vai trò tác dụng của nhân viên CTXH trong ê kíp trị liệu tại BV cũng như tại cộng đồng. Chính sách - Số 11/2013 Y tế Tạp chí 24 Nghiên cứu chính sách TàI LIệU THAM KHảO 1. Bộ Y tế (2010), Tài liệu Hội thảo “Phát triển công tác xã hội trong lĩnh vực y tế”, tháng 7/2010, Hà Nội. 2. Bộ Y tế (2011), Quyết định số 2514/QĐ-BYT của Bộ Y tế về việc phê duyệt Đề á n “Phát triển nghề công tác xã hội trong ngành y tế giai đoạn 2011-2020. 3. Quyết định số 32/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề á n “Phát triển nghề công tác xã hội giai đoạn 2010 2020” ngày 25/3/2010. 4. Charles A., Susan E. M., & Heidi H.L (2007), “Bằng chứng về giá trị hỗ trợ của CTXH trong bệnh viện”, Tạp chí Công tác xã hội trong ngành y tế, số 44(4), trang 17-32. 5. Jame P. D. (1992), “Vai trò của công tác xã hội trong bệnh viện”, Công tác xã hội trong ngành y tế, Số 18(1), trang 107-116. 6. Rebecca G.J. & Sherry S. (2009), “CTXH bệnh viện: Vai trò và hoạt động chuyên môn”, Công tác xã hội trong ngành y tế, số ra 30/11, trang 856-870.
File đính kèm:
- nghien_cuu_danh_gia_thuc_trang_va_nhu_cau_phat_trien_nghe_co.pdf