Nghiên cứu xác định vai trò của một số yếu tố liên quan đến xói mòn đất ở nước ta

Bài viết này đã tổng hợp một số nghiên cứu về xói mòn đất, về cơ bản các

công trình nghiên cứu đã làm rõ được bản chất của hiện tượng xói mòn đất,

xác định được các yếu tố gây xói mòn và yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn

đất. Yếu tố gây xói mòn đất là tính gây xói mòn của mưa và tính gây xói

mòn của đất. Yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn là địa hình, thực vật và các tác

động của con người thông qua các mô hình sử dụng đất. Đây là cơ sở khoa

học để các tác giả xây dựng các mối quan hệ tương quan và phương trình

dự báo xói mòn đất, đồng thời đề xuất các biện pháp bảo vệ đất cũng như

xác định tiêu chuẩn thảm thực vật phòng hộ.

pdf 9 trang yennguyen 3440
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu xác định vai trò của một số yếu tố liên quan đến xói mòn đất ở nước ta", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu xác định vai trò của một số yếu tố liên quan đến xói mòn đất ở nước ta

Nghiên cứu xác định vai trò của một số yếu tố liên quan đến xói mòn đất ở nước ta
Tạp chí KHLN 1/2014 (3145 - 3153) 
©: Viện KHLNVN - VAFS 
ISSN: 1859 - 0373 Đăng tải tại: www.vafs.gov.vn 
 3145 
NGHIÊN CỨU XÁC ĐỊNH VAI TRÒ CỦA MỘT SỐ YẾU TỐ 
LIÊN QUAN ĐẾN XÓI MÒN ĐẤT Ở NƯỚC TA 
Nguyễn Văn Khiết 
Trường Cán bộ quản lý Nông nghiệp và PTNT 1 
Từ khóa: Xói mòn đất, 
nghiên cứu về xói mòn đất, 
yếu tố ảnh hưởng đến xói 
mòn đất. 
TÓM TẮT 
Bài viết này đã tổng hợp một số nghiên cứu về xói mòn đất, về cơ bản các 
công trình nghiên cứu đã làm rõ được bản chất của hiện tượng xói mòn đất, 
xác định được các yếu tố gây xói mòn và yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn 
đất. Yếu tố gây xói mòn đất là tính gây xói mòn của mưa và tính gây xói 
mòn của đất. Yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn là địa hình, thực vật và các tác 
động của con người thông qua các mô hình sử dụng đất. Đây là cơ sở khoa 
học để các tác giả xây dựng các mối quan hệ tương quan và phương trình 
dự báo xói mòn đất, đồng thời đề xuất các biện pháp bảo vệ đất cũng như 
xác định tiêu chuẩn thảm thực vật phòng hộ. 
Key words: Soil erosion, 
studies on soil erosion, 
some factors effecting soil 
erosion. 
Research on determining the role of some factors related to soil erosion 
in Vietnam 
This article has compiled a number of studies on soil erosion, which have 
clarified the nature of soil erosion, and identified factors cause soil erosion 
and affect soil erosion. Rain and soil are factors causing soil erosion. 
Factors affecting soil erosion are topography, vegetation and human impact 
through land-use. This is the scientific basis for researchers to build 
correlations and erosion prediction equation, as well as take measures to 
protect soil and build vegetation standards of protection. 
Tạp chí KHLN 2014 Nguyễn Văn Khiết, 2014(1) 
 3146 
I. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Nghiên cứu xói mòn đất và hiểu được bản 
chất của xói mòn một mặt làm cơ sở để đề 
xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng 
đất. Mặt khác để đánh giá được mức độ liên 
quan, ảnh hưởng của một số yếu tố đến xói 
mòn đất. Từ đó có thể định lượng được vai trò 
của chúng (tích cực hay tiêu cực) trong bảo vệ 
đất và phục vụ nhiều mục đích khác nhau. 
Đặc biệt trong bối cảnh hiện nay là cần có 
những biện pháp để ứng phó với biến đổi khí 
hậu và chi trả dịch vụ môi trường thì những 
công trình nghiên cứu, định lượng và dự báo 
về xói mòn đất là rất cần thiết. Do vậy, nghiên 
cứu về vai trò của các yếu tố liên quan đến xói 
mòn đất là đòi hỏi mang tính khách quan và 
thời sự cần được đáp ứng để giải quyết bài 
toán về định hướng trong nghiên cứu, tiết 
kiệm thời gian và nguồn lực nhưng vẫn đảm 
bảo được kết quả. 
II. VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU 
2.1. Vật liệu 
Sử dụng một số kết quả nghiên cứu về xói 
mòn của các nhà nghiên cứu trong và ngoài 
nước để phân tích, tổng hợp. 
2.2. Phƣơng pháp nghiên cứu 
Trên cơ sở một số kết quả nghiên cứu đã có, 
kết hợp với nghiên cứu lý thuyết và kinh 
nghiệm, hiểu biết thực tế trong nghiên cứu 
xói mòn đất của tác giả để phân tích, tổng 
hợp; đưa ra những đánh giá, nhận định và 
trình bày kết quả theo một trật tự mới, lôgic, 
khoa học. 
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO 
LUẬN 
3.1. Bản chất của xói mòn đất 
Về cơ bản có 3 loại xói mòn: (1) xói mòn do 
gió; (2) xói mòn do trọng lực và (3) xói mòn 
do nước, trong đó xói mòn do nước là quan 
trọng nhất. 
Về lý thuyết, xói mòn mặt đất có hai quá trình 
vật lý cơ bản xảy ra đó là tác động phá vỡ hạt 
đất và tác động cuốn trôi của dòng chảy. 
Trong quá trình mưa, khi lực của giọt nước 
mưa hay dòng chảy tác động lên bề mặt đất sẽ 
phát sinh ra phản lực. Hai lực đó không cân 
bằng nhau và thông thường lực tác động của 
nước lớn hơn lực đề kháng của đất nên đã gây 
ra xói mòn (Nguyễn Xuân Quát, 1994). 
Về nguyên lý, Ellison (1994) đã xác định tác 
nhân gây xói mòn mạnh nhất là xung lực hạt 
mưa đập vào mặt đất, đồng thời tác giả đã 
chia quá trình này thành 3 pha: 
Pha 1: Tách các hạt đất ra khỏi khối đất 
Pha 2: Di chuyển các phần tử tách ra đi nơi khác 
Pha 3: Lắng đọng chúng ở một nơi khác 
Nếu hạn chế được pha 1, thì sẽ không xảy ra 
pha 2 và pha 3. 
Tìm hiểu về bản chất của xói mòn cho ta thấy 
rõ các yếu tố gây xói mòn và yếu tố ảnh 
hưởng đến xói mòn. 
Yếu tố gây xói mòn chính là mưa và tính xói 
mòn của đất. 
Yếu tố ảnh hưởng đến xói mòn bao gồm: địa 
hình (L.S) gồm có: độ dốc (S), chiều dài sườn 
dốc (L); tác động của thực vật; và các tác 
động của con người. 
Như vậy, xói mòn đất là hàm số tác động xói 
mòn của mưa và tính xói mòn của đất: 
Xói mòn đất = (tính gây xói mòn của mưa) x 
(tính xói mòn của đất) 
Tác động xói mòn của mưa là thế năng của 
mưa gây ra xói mòn và là một pha trong quá 
trình nước làm xói mòn đất đã được Ellison 
tìm ra. Ông cũng là người đầu tiên tìm ra vai 
trò của lớp phủ thực vật trong việc hạn chế 
xói mòn đất. 
Nguyễn Văn Khiết, 2014(1) Tạp chí KHLN 2014 
 3147 
3.2. Các yếu tố gây xói mòn đất 
3.2.1. Tính gây xói mòn của mưa 
Nhân tố mưa gây xói mòn chủ yếu thông qua 
lượng mưa và cường độ mưa. 
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Dũng và Trần 
Đức Viên (2003) và nhiều tác giả khác đã 
khẳng định: lượng đất mất do xói mòn tỷ lệ 
thuận với lượng mưa, cường độ mưa. Điều 
này đồng nghĩa với một khu vực nghiên cứu 
nhất định thì những trận mưa nhỏ có lượng 
xói mòn ít hơn những trận mưa lớn; cùng một 
lượng mưa, trận mưa nào có cường độ mưa 
lớn hơn (thời gian mưa ngắn hơn) thì lượng 
đất xói mòn sẽ nhiều hơn. 
Những trận mưa có cường độ mưa lớn sẽ làm 
cho lượng nước mưa không kịp ngấm xuống 
đất, lượng nước mưa này gần như chuyển 
toàn bộ thành dòng chảy mặt làm cho vận tốc 
dòng chảy mặt tăng đáng kể. Dòng chảy mặt 
càng lớn thì sẽ tạo nên xung lực lớn tách và 
cuốn những hạt đất mặt dẫn đến lượng đất 
xói mòn lớn. 
3.2.2. Tính xói mòn của đất 
Tính xói mòn của đất chủ yếu thể hiện qua 
thành phần cơ giới, độ xốp của đất và tình 
trạng bề mặt đất. 
Về thành phần cơ giới và độ xốp: 
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Khiết 
(2009) cho thấy: 
- Đối với đất có thành phần cơ giới nặng (đất 
sét) thì kích thước các hạt nhỏ, mịn, liên kết 
chặt, khó bị phá vỡ nên nguy cơ xảy ra xói 
mòn là không cao. 
- Đối với đất có thành phần cơ giới trung 
bình (đất thịt) thì kích thước hạt nhỏ vừa 
phải, liên kết vừa phải, tơi xốp, dễ bị cuốn 
trôi khi xuất hiện dòng chảy mặt nên nguy cơ 
bị xói mòn cao. 
- Đối với đất có thành phần cơ giới nhẹ (đất 
cát), mặc dù có kết cấu kém bền vững nhưng 
có kích thước hạt lớn - khó vận chuyển nên 
nguy cơ xảy ra xói mòn là không cao. Mặt 
khác, loại đất này có khả năng thấm nước tốt 
nhất (nhưng giữ nước kém). 
Về tình trạng bề mặt 
Tình trạng bề mặt đất được đề cập trong 
nghiên cứu của Nguyễn Văn Khiết (2009) chủ 
yếu là độ bằng phẳng (hay lồi lõm) của bề mặt 
và tỷ lệ đá tồn tại ở lớp đất mặt. Đây là hai 
nhân tố quan trọng có tác dụng ngăn cản dòng 
chảy mặt cũng như giảm sự tác động của giọt 
nước trực tiếp làm phá vỡ kết cấu đất. 
Thứ nhất: về độ lồi lõm của bề mặt đất, cùng 
một lượng mưa, cường độ mưa, điều kiện địa 
hình,... bề mặt càng phẳng thì tốc độ dòng 
chảy mặt càng lớn và ngược lại bề mặt càng 
lồi lõm thì tốc độ dòng chảy càng nhỏ. Mặt 
khác bề mặt lồi lõm cũng tạo ra những “vũng” 
nước nhỏ, trong suốt quá trình mưa những 
vũng nước này làm giảm động năng của giọt 
nước rơi xuống bề mặt đất. Bề mặt lồi lõm 
cũng có tác dụng làm giảm chiều dài sườn 
dốc, nhờ đó mà giảm được lượng xói mòn. 
Thứ hai: về tỷ lệ đá mặt, đá lộ đầu (Đ, %), nếu 
tỷ lệ đá cao sẽ có tác dụng làm giảm tiết diện 
tiếp xúc trực tiếp của đất từ những giọt mưa 
và đồng thời làm đổi hướng của dòng chảy 
mặt (đối với đá lớn) và hạn chế được lượng 
mất đất do xói mòn. 
3.3. Các yếu tố ảnh hƣởng đến xói mòn 
3.3.1. Địa hình 
Nhân tố địa hình ảnh hưởng đến xói mòn 
đất chủ yếu thông qua độ dốc và chiều dài 
sườn dốc. 
- Nghiên cứu ảnh hưởng của độ dốc đến xói mòn 
Độ dốc là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến 
xói mòn và dòng chảy mặt. Độ dốc càng lớn 
thì xói mòn mặt càng lớn và ngược lại. 
Tạp chí KHLN 2014 Nguyễn Văn Khiết, 2014(1) 
 3148 
Kết quả nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) 
chỉ ra rằng Rừng tự nhiên 3 tầng, độ tàn che 
0,7-0,8 ứng với độ dốc 100 thì lượng đất xói 
mòn là 0,84 tấn/ha (100%); cũng trạng thái 
Rừng tự nhiên 3 tầng, độ tàn che 0,7-0,8 ứng 
với độ dốc 150 thì lượng đất xói mòn tăng lên 
1,28 tấn/ha (152,4%). Như vậy độ dốc có ảnh 
hưởng lớn đến lượng mất đất do xói mòn gây 
ra. Điều này đặc biệt quan trọng đối với 
những khu vực phòng hộ đầu nguồn rất xung 
yếu. Độ dốc càng lớn thì yêu cầu đối với cấu 
trúc thảm thực vật rừng phòng hộ càng cao. 
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Quang Mỹ và 
Võ Đại Hải (1996) về ảnh hưởng của độ dốc 
đến xói mòn trên đất đỏ bazan có trồng chè 1 
tuổi nhận thấy rằng: 
Độ dốc 3o đất bị mất đi 96 tấn/ha/năm, 
Độ dốc 8o đất bị mất đi 211 tấn/ha/năm, 
Độ dốc 15o đất bị mất đi 305 tấn/ha/năm. 
- Nghiên cứu ảnh hưởng của chiều dài sườn 
dốc đến xói mòn 
Cùng một cấp độ dốc, nếu chiều dài sườn dốc 
càng lớn thì nguy cơ gây xói mòn đất càng 
cao. Chiều dài sườn dốc dài bao nhiêu thì 
lượng đất bị bào mòn cũng tăng lên tuỳ thuộc 
vào mô hình sử dụng đất. 
Một số kết quả nghiên cứu đã chỉ ra rằng: nếu 
chiều dài sườn dốc tăng lên hai lần thì lượng 
đất xói mòn cũng tăng xấp xỉ hai lần (đối với 
đất sản xuất lâm nghiệp) và tăng lên gần ba 
lần trên đất trồng cà phê. Trong điều kiện 
nhiệt đới ảnh hưởng của chiều dài sườn dốc 
cũng rõ nét hơn so với các nước ôn đới 
(Hudson, 1981). 
Theo Lê Văn Khoa và đồng tác giả (2001) 
nghiên cứu ảnh hưởng của chiều dài sườn dốc 
tới cường độ xói mòn đã rút ra nhận xét: nếu 
tăng chiều dài sườn dốc lên hai lần thì lượng 
đất bị xói mòn tăng 7-8 lần. 
3.3.2. Thực vật 
- Nghiên cứu tuần hoàn thủy văn dưới tán 
thảm thực vật 
Thảm thực vật rừng thường được chia làm 3 
lớp cơ bản: (1) lớp tán rừng, (2) lớp cây bụi và 
thảm tươi cao và (3) lớp che phủ của vật rơi 
rụng hay còn gọi là thảm khô và thảm mục. 
Mỗi lớp này có vai trò khác nhau trong bảo vệ 
đất chống xói mòn. Tuy nhiên, chúng có liên 
hệ mật thiết với nhau trong quá trình hạn chế 
xói mòn đất. 
Lớp (tầng) tán rừng: là tầng hoạt động thứ 
nhất trong hiệu ứng thuỷ văn rừng, tán rừng 
có tác dụng giữ lại một phần nước mưa: theo 
Lee MacDonald (2009) thì lượng nước này 
thường biến động trong khoảng 5 - 30% tùy 
thuộc và lượng mưa lớn hay nhỏ. Bởi vậy, 
trong cùng một trận mưa thì lượng mưa thực 
tế dưới tán rừng luôn thấp hơn lượng mưa 
ngoài đất trống. Mặt khác tán rừng cũng cản 
phần lớn lượng nước mưa không cho chúng 
tác động trực tiếp vào bề mặt đất rừng. Tuy 
nhiên, theo Hudson (1981) và Lee MacDonald 
(2009) thì động năng giọt nước mưa dưới tán 
rừng (chiều cao tán rừng lớn hơn 10m) lớn 
hơn động năng giọt nước mưa nơi đất không 
có cây che phủ. Điều này được giải thích 
như sau: Những giọt mưa với kích thước 
khác nhau rơi xuống đất với vận tốc cuối. 
Trong rừng, mưa bị tán cây giữ lại trước khi 
rơi xuống đất, với những cây có diện tích 
phiến lá lớn sẽ tích tụ được những hạt nước 
lớn hơn hạt mưa tự nhiên. Tầng tán rừng 
thường ở độ cao trên 10m đủ để những hạt 
nước đạt tới vận tốc cuối. Điều đó có nghĩa 
là năng lượng của toàn bộ những hạt nước 
rơi xuống từ tán lá cây lớn hơn năng lượng 
của những hạt mưa tự nhiên rơi xuống đất 
không có che phủ. Do vậy nếu không có lớp 
che phủ dưới tán thì lượng xói mòn trong 
rừng sẽ rất lớn. 
Nguyễn Văn Khiết, 2014(1) Tạp chí KHLN 2014 
 3149 
Nghiên cứu về khả năng giữ nước của tán cây 
và vật rơi rụng của một số thảm thực vật tại 
Hoà Bình, Phạm Văn Điển (2006) đã chỉ ra 
rằng: Tán rừng là tầng thứ nhất phát huy hiệu 
ứng thuỷ văn rừng, có tác dụng giữ nước rơi 
trực tiếp xuống bề mặt đất rừng. Với cùng 
một trạng thái rừng thì tỷ lệ giữ nước trên tán 
phụ thuộc vào lượng mưa. Lượng mưa càng 
nhỏ thì tỷ lệ nước giữ lại trên tán càng lớn và 
ngược lại lượng mưa càng lớn tỷ lệ nước giữ 
lại trên tán càng nhỏ. Điều này thể hiện rõ 
trong trường hợp lượng mưa P<5mm và 
P>50mm. Đồng thời tác giả cũng đã xây dựng 
được các phương trình biểu thị mối liên hệ 
của lượng nước giữ lại trên tán với những 
nhân tố: chiều dài tán lá, diện tích tán lá và 
lượng mưa cho một số thảm thực vật. 
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Phùng 
Văn Khoa (1997) cho rằng lượng nước giữ lại 
trên tán dao động trong khoảng từ 4,0 đến 
9,9%. Sự biến động của lượng nước bị giữ lại 
trên tán phụ thuộc rõ rệt vào các đặc điểm 
điều tra lâm phần. 
Từ những kết quả nghiên cứu trên cho thấy 
một điều rằng: Lượng mưa dưới tán rừng luôn 
nhỏ hơn lượng mưa thực tế trên đất trống. Vì 
vậy, cùng một trận mưa thì mặt đất ở dưới tán 
rừng luôn nhận được lượng nước nhỏ hơn mặt 
đất ở nơi trống. 
Lớp cây bụi và thảm tươi: là tầng trung gian 
trong cấu trúc của thảm thực vật rừng, đồng 
thời có tác dụng làm giảm dòng chảy mặt, 
tăng sức thấm vào đất của nước mưa (do sức 
cản bề mặt và do hệ rễ trong đất). 
Lớp vật rơi rụng: là lớp đóng vai trò quan 
trọng bảo vệ đất chống xói mòn. Lớp vật rơi 
rụng có tác dụng không cho hạt mưa tác động 
vào bề mặt để phá vỡ kết cấu hạt đất, đồng 
thời đóng vai trò là vật cản làm giảm dòng 
chảy mặt cả về lượng và tốc độ dẫn đến giảm 
đáng kể lượng xói mòn. Lớp này khi phân huỷ 
sẽ bổ sung dinh dưỡng và độ phì cho đất, làm 
cho đất tơi xốp và cải thiện tính chất thuỷ văn 
của đất, tăng lượng nước thấm và tích luỹ 
trong đất. 
Như vậy, bảo vệ đất chống xói mòn trong từng 
trận mưa là vai trò trực tiếp và chủ yếu của 
lớp vật rơi rụng và tầng thảm tươi cây bụi. 
Theo Nguyễn Văn Khiết (2009), khi bề mặt 
đất có lớp cỏ (thảm tươi nói chung) mọc sát 
mặt đất (khoảng 0 - 15cm) cũng có vai trò 
tương tự như lớp vật rơi rụng trong bảo vệ đất 
và chống xói mòn. Đây là một phát hiện và là 
định hướng quan trọng cho các nghiên cứu 
tiếp theo, thay vì sử dụng lớp vật rơi rụng 
thành lớp che phủ sát mặt đất (bao gồm cả vật 
rơi rụng và lớp thảm tươi sát mặt đất) trong 
công thức dự báo xói mòn đất. 
- Nghiên cứu ảnh hưởng của thảm thực vật 
đến xói mòn 
Nghiên cứu của Võ Đại Hải (1996) cho thấy: 
nếu giảm độ tàn che từ 0,7 - 0,8 xuống mức 
0,3 - 0,4 thì xói mòn đất sẽ tăng lên 42,2% và 
dòng chảy mặt tăng 30,4% đối với rừng tự 
nhiên; xói mòn đất tăng 27,1% và dòng chảy 
mặt tăng 33,8% đối với rừng le. Đồng thời, 
tác giả cũng chỉ ra rừng càng có nhiều tầng 
tán thì khả năng giữ nước và đất càng tốt, 
rừng có một tầng tán thì lượng đất xói mòn 
cao gấp 3 lần so với rừng có 3 tầng tán. 
- Nghiên cứu ảnh hưởng của loài cây đến 
xói mòn 
Ở Việt Nam, kết quả nghiên cứu của Nguyễn 
Quang Mỹ trong chương trình nghiên cứu Tây 
Nguyên II đã cho thấy khả năng chống xói 
mòn đất của các loài cây nông - công nghiệp 
như: lạc, đậu, ngô, khoai lang, cà phê,... cũng 
rất khác nhau. Các loài cây lâm nghiệp nước 
ta cũng đã được đề cập ít nhiều nhưng chưa có 
những nghiên cứu toàn diện, sâu và rộng (Võ 
Tạp chí KHLN 2014 Nguyễn Văn Khiết, 2014(1) 
 3150 
Đại Hải, 1996). Do vậy, trong công tác trồng 
rừng phòng hộ gặp rất nhiều khó khăn đặc 
biệt là công tác chọn loài cây trồng. 
Những loài cây khác nhau có đặc điểm hình 
thái (chiều cao, độ dày tầng tán, diện tích của 
tán lá,...) cũng khác nhau. Loài cây có diện 
tích phiến lá càng lớn thì khả năng bảo vệ đất 
chống xói mòn càng kém. Điều này có thể lý 
giải như sau: diện tích phiến lá càng lớn thì 
giọt nước tích tụ trên lá càng lớn và khi rơi 
xuống mặt đất rừng có động năng lớn, kéo 
theo khả năng phá vỡ kết cấu của đất và cuốn 
trôi dễ dàng hơn. Kết quả nghiên cứu của Võ 
Đại Hải (1996) cho thấy đất dưới tán rừng 
Tếch bị xói mòn cao hơn Thông ba lá là 
178,7%; đất dưới rừng Trẩu bị xói mòn cao 
hơn Keo lá tràm là 263,1%. 
Kết quả nghiên cứu của Nguyễn Văn Khiết và 
Phùng Văn Khoa (2009) về xói mòn đất dưới 
tán rừng trồng Keo lai và bạch đàn ở Lương 
Sơn, Hòa Bình cho thấy rằng: Loài cây có ảnh 
hưởng đến lượng mất đất do xói mòn gây ra. 
Với số liệu thu thập được, các tác giả đã dùng 
phương trình biến loại có dạng XM = a0 - 
a1L2 - a2L3 + a3L2.(P/CP) + a4L3.(P/CP) để 
phân tích ảnh hưởng của loài cây đến xói 
mòn. Kết quả tính toán cụ thể và phương trình 
so sánh xói mòn theo biến loại được thể hiện 
ở bảng 1. 
Bảng 1. Phương trình biến loại so sánh xói mòn 
Các hệ số Giá trị 
Kiểm tra 
Sig Kết luận 
HS tương quan R 0,70 
HS xác định R
2 
0,49 
Tương quan riêng phần 
R1 -0,406 
R2 -0,411 
R3 0,622 
R4 0,454 
Hệ số Phương trình 
a0 83,3 0 Tồn tại 
a1 -97,9 0 Tồn tại 
a2 -99,1 0 Tồn tại 
a3 1,69 0 Tồn tại 
a4 1,39 0 Tồn tại 
XM = 83,3 - 97,9L2 - 99,1L3 + 1,69L2.(P/CP) + 1,39L3.(P/CP) 
Trong đó: L2 là loài cây Keo lai, L3 là loài cây bạch đàn 
P: Là lượng mưa (mm) 
CP: là độ che phủ của cây bụi thảm tươi (%) 
Nhận xét: Kết quả tính toán có thể khẳng 
định: phương trình được chọn là hoàn toàn 
phù hợp, được dùng để đánh giá chung cho 
khu vực nghiên cứu và so sánh về xói mòn 
giữa các mô hình sử dụng đất. Từ các hệ số 
của phương trình có thể sơ bộ kết luận: 
lượng xói mòn ở đất trồng Keo lai (L2) là 
cao hơn đất trồng bạch đàn (L3) với cặp 
biến P/CP. Tuy nhiên cần phải có những 
nghiên cứu thêm để đưa ra kết luận chính 
xác về vai trò của loài cây trong bảo vệ đất, 
chống xói mòn. 
Nguyễn Văn Khiết, 2014(1) Tạp chí KHLN 2014 
 3151 
- Nghiên cứu về vai trò của cây bụi, thảm tươi 
và thảm mục 
Ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về xói 
mòn thường xem xét vai trò tổng hợp của 
thảm thực vật bao gồm cả tầng cây cao là độ 
tàn che (TC) hoặc độ giao tán (GT) (Phạm 
Văn Điển, 2006), lớp cây bụi thảm tươi (CP) 
và thảm mục (TM). Các công trình nghiên 
cứu này phần nào làm rõ được vai trò cụ thể 
của từng bộ phận của thảm thực vật trong việc 
bảo vệ đất chống xói mòn, nhưng chỉ dừng lại 
ở việc đánh giá, so sánh và đối chiếu lượng 
mất đất giữa các ô thí nghiệm trên thực địa. 
Kết quả nghiên cứu của tác giả Võ Đại Hải 
(1996) chỉ ra rằng, tầng thảm tươi cây bụi có 
vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hạn chế 
xói mòn và dòng chảy mặt. Khi có lớp thảm 
tươi và một tầng cây gỗ nhỡ ở phía trên thì 
chúng đã phát huy được khả năng phòng hộ 
tương đương rừng 3 tầng. Đây là một phát 
hiện quan trọng và cung cấp cơ sở khoa học 
cho việc xây dựng, phục hồi rừng phòng hộ. 
Tuy nhiên phát hiện này chỉ dừng lại ở việc 
đánh giá mà chưa mô phỏng được vai trò của 
cây bụi thảm tươi và đưa chúng vào công thức 
dự báo xói mòn. 
Trong các phương trình dự báo xói mòn đã 
có, vai trò của thảm thực vật được thể hiện 
thông qua độ tàn che (TC, có giá trị lớn nhất 
là 1,0), độ che phủ (CP, có giá trị lớn nhất là 
1,0) và vật rơi dụng (TM, có giá trị lớn nhất là 
1,0) được biểu thị dưới dạng một chỉ tiêu tổng 
hợp. Chỉ tiêu tổng hợp này càng lớn thì khả 
năng chống xói mòn càng tốt và ngược lại. 
Công thức dự báo xói mòn của Vương 
Văn Quỳnh và cộng sự (1999) đưa ra thì 
chỉ tiêu tổng hợp về thảm thực vật có dạng 
C = [(TC/H) + CP + TM], trong đó H là chiều 
cao bình quân của tầng cây gỗ và đối với các 
trạng thái rừng ở Việt Nam thì H luôn lớn hơn 
10m. Như vây: (TC/H) có giá trị tối đa là 0,1 
trong khi đó CP và TM có giá trị tối đa là 1,0 
(CP và TM có giá trị gấp 10 lần TC). Trong 
công trình nghiên cứu này các tác giả đã cho 
thấy rằng, trong công thức dự báo xói mòn thì 
vai trò của tầng cây cao là không rõ ràng, vai 
trò quan trọng quyết định đến lượng đất xói 
mòn thuộc về cây bụi thảm tươi và thảm mục. 
Năm 2002, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt 
Nam (VAFS) và Viện Quốc tế về môi trường 
và phát triển (IIED) trong một ấn phẩm có tựa 
đề “Liệu rừng có phòng hộ đầu nguồn được 
không” đã nêu ra quan điểm và kết luận: Một 
trong những kết luận quan trọng nhất khi 
nghiên cứu các bằng chứng ở Việt Nam và 
một số nước khác là để chống xói mòn đất 
phải dựa vào thảm thực vật che phủ chứ 
không phải dựa vào các loại rừng,... Một trong 
những bài học quan trọng nhất rút ra từ các 
công trình nghiên cứu thuỷ văn là “che phủ 
của thảm thực vật” quan trọng hơn “che phủ 
của cây” trong việc điều tiết dòng chảy và hạn 
chế xói mòn. Hay là “Một quan sát đáng ghi 
nhớ đó là rừng không phải lúc nào cũng tốt 
hơn các loại thảm thực vật khác trong việc 
hạn chế xói mòn và cũng không phải lúc nào 
rừng tự nhiên cũng tốt hơn rừng trồng”. Tuy 
nhiên một số tác giả chưa đồng tình với các 
kết luận trên là do chưa có những nghiên cứu 
định lượng cụ thể làm căn cứ khoa học. 
Nghiên cứu quá trình giữ nước của vật rơi 
rụng, Phạm Văn Điển (2006) cho rằng “Vật 
rơi rụng là tầng hoạt động thứ hai của hiệu 
ứng thuỷ văn rừng, sau tầng thứ nhất là tầng 
tán rừng”. Tán rừng có tác dụng ngăn mưa, 
nhưng tán rừng làm cho những giọt nước 
mưa rơi xuống đất có kích thước lớn hơn, và 
nếu mặt đất rừng không có vật rơi rụng che 
phủ, lực công phá bắn tung toé hạt đất và gây 
xói mòn của nước mưa không kém trên đất 
trống trơ trụi. Do vậy che phủ của vật rơi 
rụng có vai trò quan trọng trong bảo vệ đất 
chống xói mòn. 
Tạp chí KHLN 2014 Nguyễn Văn Khiết, 2014(1) 
 3152 
3.3. Các tác động của con ngƣời 
Các tác động của con người có thể ảnh hưởng 
tích cực hoặc tiêu cực đến quá trình xói mòn 
đất. Nếu con người có những biện pháp canh 
tác, mô hình sử dụng đất hợp lý thì lượng xói 
mòn đất giảm và ngược lại các biện pháp canh 
tác và mô hình sử dụng đất không phù hợp lại 
là những nguyên nhân dẫn đến xói mòn. Kết 
quả nghiên cứu của nhiều tác giả đã chứng 
minh: các mô hình sử dụng đất khác có lượng 
xói mòn đất khác nhau. 
Nghiên cứu của Trần An Phong (1996) cho 
thấy: 
- Nếu đất còn rừng, lượng xói mòn từ 3 - 
12 tấn/ha/năm. 
- Nếu đất trồng cà phê hay chè thì lượng xói 
mòn từ 22 - 77 tấn/ha năm. 
- Nếu đất không trồng trọt, chỉ có cỏ mọc tự 
nhiên mất từ 150 - 235 tấn/ha/năm. 
- Nếu đất trồng sắn và lúa nương thì lượng 
mất đất từ 175 - 260 tấn/ha/năm. 
Xói mòn đất trong canh tác nông nghiệp được 
nhiều người quan tâm. Bùi Quang Toản 
(1993) cho rằng chỉ sau 2 - 3 mùa rẫy là lớp 
đất mặt bị bóc đi hoàn toàn. Một số tác giả 
khác cho rằng lượng đất mất đi hàng năm vào 
khoảng 124 tấn/ha/năm ở đất sau nương rẫy ở 
vùng núi Đông Bắc, và từ 119 - 276 
tấn/ha/năm trên nương lúa, nương sắn ở Tây 
Nguyên (Nguyễn Xuân Quát, 1994). 
Công trình nghiên cứu của Trung tâm Tài 
nguyên Môi trường tại Vĩnh Phúc cho thấy, 
lượng đất mất đi trên nương sắn độc canh dao 
động từ 147 - 245 tấn/ha/năm, hay từ 0,9 -
2,1cm đất mặt bị bóc đi hàng năm. Lượng đất 
mất đã mang theo khoảng 50kg nitơ, 50 kg 
phốt pho và 500kg kali. Nhưng sắn được 
trồng với cốt khí hay các cây họ Đậu khác thì 
lượng mất đất chỉ còn 20 - 30 tấn/ha/năm (Lê 
Trọng Cúc, 1995). 
VI. KẾT LUẬN 
Các công trình nghiên cứu về xói mòn đất đã 
xác định bản chất của xói mòn, xác định và 
định lượng được mối quan hệ giữa lượng mất 
đất với các nhân tố gây xói mòn (mưa và tính 
xói mòn của đất), các nhân tố ảnh hưởng đến 
xói mòn (địa hình, thực vật và các tác động 
của con người). Đây là những căn cứ khoa 
học để đề xuất các biện pháp bảo vệ đất, xây 
dựng tiêu chuẩn thảm thực vật phòng hộ bảo 
vệ môi trường. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Phạm Văn Điển, 2005. Xác định cấu trúc hợp lý của rừng phòng hộ nguồn nước vùng Hồ thuỷ điện Hoà Bình. 
Tạp chí Nông nghiệp và PTNT kỳ 1 tháng 11/2005, Tr 101-103. 
2. Phạm Văn Điển, 2006. Nghiên cứu khả năng giữ nước của một số thảm thực vật tại vùng phòng hộ Hồ thuỷ 
điện Hoà Bình. Luận án tiến sỹ khoa học Nông nghiệp. Trường ĐH Lâm nghiệp. 
3. Nguyễn Văn Dung, Trần Đức Viên, 2005. Ảnh hưởng của mưa và một số phương thức sử dụng đất đến xói 
mòn đất và thu nhập của người dân ở vùng đất dốc Tân Minh - Đà Bắc - Hoà Bình. Tạp chí Nông nghiệp 
và PTNT kỳ 1 tháng 12/2005, Tr 36-38. 
4. Nguyễn Trọng Hà, Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên, 1998. Xác định các yếu tố gây xói mòn và khả năng dự báo 
xói mòn trên đất dốc. Canh tác nông nghiệp bền vững trên đất dốc ở Việt Nam do Thái Phiên và Nguyễn Tử 
Siêm chủ biên. Nxb Nông nghiệp Hà Nội, Tr 149-165. 
5. Võ Đại Hải, 1996. Nghiên cứu các dạng cấu trúc hợp lý cho rừng phòng hộ đầu nguồn ở Việt Nam. Luận án phó 
tiến sỹ khoa học Nông nghiệp. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam, Hà Nội. 
6. G.M Hashim và W.Y. Wan Abdullah, 2001. Quá trình xói mòn đất và mất chất dinh dưỡng các vùng nông 
nghiệp trên cao nguyên, Kỷ yếu hội thảo quốc tế tổ chức tại Hat Yai, Thái Lan, Tr 21-31. 
7. Hội Khoa học đất Việt Nam, 2000. Đất Việt Nam (chương V Hoá học đất). Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 
Nguyễn Văn Khiết, 2014(1) Tạp chí KHLN 2014 
 3153 
8. Hudson N, 1981. Bảo vệ đất và chống xói mòn (Đào Trọng Năng và Nguyễn Kim Dung dịch). Nxb Khoa học 
kỹ thuật, Hà Nội. 
9. Nguyễn Văn Khiết, 2009. Nghiên cứu đặc điểm xói mòn mặt khởi đầu dưới một số thảm thực vật tại Lương Sơn 
- Hòa Bình. Luận văn thạc sỹ khoa học lâm nghiệp. Đại học Lâm nghiệp. 
10. Lê Văn Khoa (chủ biên), 2001. Phương pháp phân tích Đất, Nước, Phân bón, Cây trồng. Nxb Giáo dục Hà Nội. 
11. Phùng Văn Khoa, 1997. Nghiên cứu một số đặc điểm thuỷ văn rừng trồng Thông mã vĩ làm cơ sở cho việc xây 
dựng tiêu chuẩn rừng trồng giữ nước ở khu thực nghiệm Trường Đại học Lâm nghiệp Xuân Mai - Hà Tây, Luận 
văn Thạc sỹ khoa học lâm nghiệp, Trường Đại học Lâm nghiệp Xuân Mai, Hà Tây. 
12. Nguyễn Thanh Lâm, Trần An Phong, 1996. Một số thông tin về đất dốc ở Việt Nam. 
13. Trần Đức Viên và Phạm Chí Thành,. Nông nghiệp trên đất dốc, thách thức và tiềm năng, Nxb Nông nghiệp 
Hà Nội, Tr 54-66. 
14. Lee MacDonald và Phùng Văn Khoa, 2009. Tài liệu tập huấn về thủy văn và quản lý lưu vực. Trường Đại học 
Lâm Nghiệp. 
15. Đặng Châu Phán, Đào Châu Thu, Thân Thế Hùng, 2007. Kết quả nghiên cứu lớp phủ nệm hữu cơ chống xói 
mòn đất đồi huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ. Khoa học đất số 29/2008. Tr 79-83. 
16. Nguyễn Xuân Quát, 1994. Kinh tế hộ gia đình ở miền núi, sử dụng đất dốc bền vững. Nxb Nông nghiệp 
Hà Nội. 
17. Nguyễn Tử Siêm, Thái Phiên, 1999. Đất đồi núi Việt Nam, thoái hoá và phục hồi. Nxb Nông nghiệp Hà Nội. 
18. Phạm Văn Sơn, 1994. Vấn đề bồi lắng phù sa ở hồ chứa Hoà Bình. Viện Khí tượng thuỷ văn, Hà Nội. 
19. Trần Đức Toàn, Thái Phiên, Đỗ Duy Phái, 1999-2001. Ảnh hưởng của biện pháp canh tác đến lượng đất xói 
mòn trong lưu vực. Khoa học đất số 21/2005, Tr 172-177. 
20. Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam (VAFS) và Viện Quốc tế về môi trường và phát triển (IIED), 2002. Liệu 
rừng có phòng hộ đầu nguồn được không - Ấn phẩm khoa học. 
Ngƣời thẩm định: PGS.TS. Ngô Đình Quế 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_xac_dinh_vai_tro_cua_mot_so_yeu_to_lien_quan_den.pdf