Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay nhìn từ quan điểm một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại

Tóm tắt: Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay là một hiện tượng xã hội gây nhiều phản ứng

trái ngược: đa số ý kiến phê phán, nhưng cũng có những ý kiến tán đồng hoặc thông

cảm, cho rằng đây là một hiện tượng ngôn ngữ gắn với sự phát triển của xã hội hiện

đại. Trong bài viết này, thay vì phát biểu ý kiến một cách cảm tính, dựa trên tình

cảm yêu ghét, bày tỏ thái độ quyết liệt như vẫn thường thấy trên các phương tiện

truyền thông hiện nay, chúng tôi trình bày các cách nhìn khác nhau đối với ngôn

ngữ giới trẻ hiện nay từ quan điểm của một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Theo

chúng tôi, cảm tính không thể thay thế lý tính của các luận điểm khoa học.

 

pdf 8 trang yennguyen 10400
Bạn đang xem tài liệu "Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay nhìn từ quan điểm một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay nhìn từ quan điểm một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại

Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay nhìn từ quan điểm một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại
 Ngụn ngữ giới trẻ hiện nay nhỡn từ 
quan điểm một số lý thuyết 
ngụn ngữ học hiện đại 
Nguyễn Văn Hiệp(*) 
Tóm tắt: Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay là một hiện t−ợng xã hội gây nhiều phản ứng 
trái ng−ợc: đa số ý kiến phê phán, nh−ng cũng có những ý kiến tán đồng hoặc thông 
cảm, cho rằng đây là một hiện t−ợng ngôn ngữ gắn với sự phát triển của xã hội hiện 
đại. Trong bài viết này, thay vì phát biểu ý kiến một cách cảm tính, dựa trên tình 
cảm yêu ghét, bày tỏ thái độ quyết liệt nh− vẫn th−ờng thấy trên các ph−ơng tiện 
truyền thông hiện nay, chúng tôi trình bày các cách nhìn khác nhau đối với ngôn 
ngữ giới trẻ hiện nay từ quan điểm của một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Theo 
chúng tôi, cảm tính không thể thay thế lý tính của các luận điểm khoa học. 
Từ khóa: Ngôn ngữ giới trẻ, Ngôn ngữ học hiện đại, Ngữ pháp chức năng hệ thống, 
Ngữ pháp tạo sinh 
1. Những quan điểm trái chiều về tiếng Việt “phi 
chuẩn” của giới trẻ hiện nay 
Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến 
hành đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng 
với những thay đổi chóng mặt về kinh tế 
và xã hội, vấn đề phát triển và giữ gìn 
sự trong sáng của tiếng Việt đang đ−ợc 
đặt ra một cách cấp bách, với những vấn 
đề rất mới mẻ. (*) 
Về nguyên tắc, cũng nh− tất cả các 
sinh ngữ khác, tiếng Việt phải phát 
triển để đáp ứng nhu cầu diễn đạt nhận 
thức chung của xã hội đang phát triển, 
nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng 
(*) GS.TS., Viện tr−ởng Viện Ngôn ngữ học. 
phức tạp và tinh tế của ng−ời Việt. Đặc 
biệt, cùng với sự phát triển của khoa 
học và công nghệ, một loạt hình thức 
giao tiếp mới ra đời nh− th− điện tử, 
chát, mạng xã hội,v.v... đã tạo nên 
những dạng giao tiếp ngôn ngữ tr−ớc 
đây ch−a từng có. 
Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ 
ấy cũng kéo theo vô số những hệ lụy, 
trong đó có những hệ lụy liên quan đến 
vấn đề giữ gìn và phát triển tiếng Việt, 
thể hiện qua những cách nói bị đánh giá 
là “phi chuẩn” của giới trẻ hay thế hệ @ 
hiện nay. Nói chung, có thể thấy, xã hội 
đang bất an về ngôn ngữ. Bằng chứng là 
đã có hàng loạt bài viết trên các ph−ơng 
30 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2015 
tiện truyền thông báo động về thực 
trạng tiếng Việt hiện nay nh−: “Tiếng 
Việt đang méo mó”, “Nỗi lo chính tả”, 
“Phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng 
Việt”, “Tiếng Việt thời nay: nên c−ời hay 
nên khóc”, “Nghĩ về tiếng Việt mạng xã 
hội”, “Lộn xộn tiếng Việt thời giao l−u 
văn hóa”, “C−ời ra n−ớc mắt, tiếng Việt 
thời nay”, 
Nguyên nhân của tình trạng này, 
theo sự chỉ trích của các tác giả những 
bài báo trên, là do ảnh h−ởng từ mặt 
trái của nền kinh tế thị tr−ờng, sự 
xuống cấp của đạo đức xã hội, sự nông 
nổi của các bạn trẻ thế hệ 8x, 9x và cả 
sự buông lỏng kỷ c−ơng trong việc sử 
dụng từ ngữ đối với các ph−ơng tiện 
thông tin đại chúng... 
Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến 
cho rằng không nên quá lo lắng, những 
cái “nhố nhăng”, “quá đà”, “kì dị” trong 
cách diễn đạt của giới trẻ hiện nay sẽ 
nhanh chóng qua đi, và tiếng Việt đủ 
nội lực để tự bảo vệ, để tr−ờng tồn cùng 
dân tộc. Vả chăng, cách nói của giới trẻ 
hiện nay cũng mang đến những sáng 
tạo thú vị. Chẳng hạn, trong buổi tọa 
đàm “Ngôn ngữ giới trẻ thời @ qua 
tranh của họa sĩ Thành Phong” đ−ợc tổ 
chức vào tháng 3/2012 tại Hà Nội, khi 
đánh giá về những kiểu nói nh− “Chán 
nh− con gián”, “Chảnh nh− con cá 
cảnh”, “Dở hơi biết bơi”, “Ăn chơi sợ gì 
m−a rơi”,..., nhà giáo Văn Nh− C−ơng 
đã bày tỏ sự thích thú với lối sáng tạo 
ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay. Ông cho 
rằng, những kiểu nói này đã thật sự 
mang lại những ý nghĩa rất thú vị và 
bất ngờ mà lối nói truyền thống không 
thể diễn tả đ−ợc. Hơn thế nữa, ông cho 
rằng lối nói này thể hiện một sự chuyển 
đổi từ cái cũ sang cái mới, phản ánh 
những vấn đề hết sức thú vị của lịch sử. 
Ông nêu ví dụ, ngày x−a ông cha ta nói 
“cái khó bó cái khôn” là để chỉ cái đói cái 
nghèo ngăn trở chúng ta thành công 
trong cuộc sống. Nh−ng trong kháng 
chiến chống Pháp, cả dân tộc gặp “cái 
khó” mới “ló cái khôn”, thể hiện ở những 
nỗ lực v−ợt lên mọi khó khăn để chiến 
đấu và chiến thắng. Tuy nhiên, nếu cứ 
đói mãi, cứ khó mãi, thì “cái khó ló cái 
ngu”. Rõ ràng ba câu nói - “Cái khó bó 
cái khôn”/ “Cái khó ló cái khôn”/ “Cái 
khó ló cái ngu”- đã phản ánh ba thời kỳ 
lịch sử khác nhau chứ hoàn toàn không 
phải là sự biến đổi ngôn ngữ tùy tiện. 
Với cái hay của ba lối nói này, nhà giáo 
Văn Nh− C−ơng kết luận: “Làm sao tôi 
không mê cho đ−ợc?”. 
Trong bài viết này, chúng tôi không 
vội phê phán hay cổ súy cách dùng ngôn 
ngữ của giới trẻ hiện nay. Thay vào đó, 
chúng tôi cho rằng tình trạng sử dụng 
tiếng Việt “phi chuẩn” của giới trẻ hiện 
nay cần đ−ợc khảo sát trong những 
chiều kích khác nhau và nhà ngôn ngữ 
học phải đi tìm lý luận ngôn ngữ học 
hiện đại để trả lời câu hỏi đang đ−ợc đặt 
ra một cách bức xúc đối với toàn xã hội: 
Tình trạng sử dụng tiếng Việt nh− vậy 
có thật sự nghiêm trọng hay không? 
Chúng ta cần phải làm gì để phát triển 
và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, 
cũng là một cách để giữ gìn bản sắc văn 
hóa Việt? 
2. Phác họa thực trạng tiếng Việt bị coi là “phi 
chuẩn” của giới trẻ hiện nay 
Chúng tôi cho rằng, những vấn đề 
mới đặt ra đối với việc giữ gìn và phát 
triển tiếng Việt là hiện t−ợng giới trẻ 
dùng những kết hợp khác lạ, sử dụng 
tiếng Việt biến âm trong lời nói và chữ 
viết, vấn đề sử dụng tiếng Anh xen lẫn 
Ngôn ngữ giới trẻ 31 
với tiếng Việt. Những hiện t−ợng này có 
thể đ−ợc miêu tả khái quát nh− sau: 
- Sử dụng ngôn ngữ khác lạ, phi 
logic 
Giới trẻ thích sử dụng những cách 
nói có vẻ rất vô nghĩa, kì lạ, kiểu nh−: 
“C−ớp trên giàn m−ớp”, “Buồn nh− con 
chuồn chuồn”, “Chảnh nh− con cá cảnh”, 
“Chán nh− con gián”,... hoặc sử dụng 
những kết hợp bất th−ờng, kiểu nh− 
“Hơi bị đẹp”. 
Giới trẻ sử dụng cách nói chơi chữ 
(chủ yếu dựa trên hiện t−ợng đồng âm), 
ví dụ: “Yêu nhau trong sáng, phang 
nhau trong tối”, “Campuchia tiền ăn 
tr−a”,... 
- Sử dụng tiếng Việt biến âm trong 
lời nói và chữ viết 
Thực trạng này đã gây sốc cho 
nhiều ng−ời, đặc biệt là các bậc cha mẹ. 
Họ sốc vì cách nói mà theo họ là làm 
“méo mó” tiếng Việt của bọn trẻ, họ sốc 
vì không thể hiểu đ−ợc bọn trẻ nói gì. 
Trong tin nhắn điện thoại đi động, 
trong chát trực tuyến,v.v... rất phổ biến 
cách diễn đạt kiểu nh−: từ “rồi” viết 
thành “roài”, “không” thành 
“hông”/“hem”, “biết” thành “bít”. Kết quả 
là có những câu nh−: “The la cau hem bit 
roai, hihi” (“dịch” ra ngôn ngữ bình 
th−ờng là “Thế là cậu không biết rồi, hì 
hì”). Xa hơn nữa, thế hệ @ còn “sáng tạo” 
những cách viết kì dị, nh− chữ “a” viết 
thành 4, chữ e viết thành 3, i thành j, g 
đổi sang 9, o thành 0, c thành k, b thành 
p,v.v... Câu “Thế là cậu không biết rồi, hì 
hì” trên đây sẽ đ−ợc viết là: “Th3 l4 k4u 
h3m pjt r04j, hyhy”. 
Cách diễn đạt này bí hiểm đến nỗi 
một nữ sinh ở thành phố Hồ Chí Minh 
đã bỏ công viết phần mềm dịch ngôn ngữ 
@, đặt tên là V2V (Việt sang Việt). Hình 
phía d−ới là một minh họa cho ứng dụng 
của phần mềm này. 
Tuy nhiên, phần mềm V2V vẫn 
không theo kịp tốc độ biến dạng của 
ngôn ngữ @. Bởi càng về sau, lớp tuổi @ 
càng có nhiều cách biến tấu khiến phần 
mềm V2V phiên bản đầu tiên trở nên 
lạc lậu, không dịch chính xác đ−ợc. Hệ 
quả là, tác giả phải tiếp tục nghiên cứu 
32 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2015 
và nâng cấp lên phiên bản 1.3, đến nay 
đã là... 1.4. (Dẫn theo: Nguyễn Văn 
Toàn , “Tiếng Việt đang bị... bụi bám”, 
tri/tuanvietnam/71742/tieng-viet-dang-
bi----bui-bam-.html). 
- Sử dụng tiếng Anh xen lẫn với 
tiếng Việt 
Thế hệ @ nhìn chung là thế hệ giỏi 
ngoại ngữ. Trong ngôn ngữ của họ, tình 
trạng dùng tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt 
khá phổ biến. Chẳng hạn, đây là một lời 
tự giới thiệu của một bạn “tuổi teen”: 
“Hi mọi ng−ời! Mình là, mình rất vui 
đ−ợc làm quen với everybody. Mình 
đang study ở ... High School. Mình rất 
confident trong các extracurricular 
activities. Hiện nay mình đang cope up 
with ch−ơng trình học rất killer của 
tr−ờng... Nh−ng mình tin với capacity 
của mình, mình sẽ hoàn thành 
completly cái syllabus đó” 
(
/showthread.php?t=10709&page=1). 
Hiện t−ợng dùng tiếng Anh lẫn với 
tiếng Việt không chỉ thấy ở thế hệ @, 
mà còn thấy ở những ng−ời lớn tuổi 
từng đi du học ở n−ớc ngoài hoặc trong 
công việc hàng ngày có điều kiện tiếp 
xúc th−ờng xuyên với ng−ời n−ớc ngoài. 
Chẳng hạn, một khách hàng của Việt 
Nam Airlines có thể nói với nhân viên 
phòng vé: “Vé này có cần con phơm 
(confirm) lại không chị?”. Nguy cơ của 
cách nói này là có thể hình thành một 
loại ngôn ngữ lai (pidgin), nh− cách nói 
“Tây bồi” tr−ớc năm 1945. 
3. Đánh giá ngôn ngữ giới trẻ hiện nay từ góc độ 
một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại 
Những vấn đề của tiếng Việt nh− 
nói theo kiểu tiếng n−ớc ngoài, nói tiếng 
Việt xen lẫn với tiếng n−ớc ngoài, cách 
diễn đạt khác lạ của giới trẻ,v.v... đã 
đ−ợc giới ngôn ngữ học quan tâm từ 
nhiều góc độ khác nhau, với cách đặt 
vấn đề khác nhau. 
Thứ nhất, hiện t−ợng dùng tiếng 
n−ớc ngoài xen lẫn với tiếng Việt có liên 
quan đến vấn đề chuyển mã (Code-
Switching), trộn mã (Code-mixing) và 
vay m−ợn (borrowings), đ−ợc bàn luận 
rất nhiều trong các nghiên cứu ngôn 
ngữ học xã hội (Nguyễn Thúy Nga, 
2013). Theo các nhà ngôn ngữ học xã 
hội, hiện t−ợng này có liên quan đến t− 
cách thành viên thuộc nhóm xã hội nhất 
định trong các xã hội đa ngữ. Có một 
mối quan hệ giữa những hiện t−ợng này 
với vị thế giai cấp, vị thế tộc ng−ời và vị 
thế xã hội. Nó cũng đ−ợc xem là một 
cách cấu trúc hóa sự trao đổi trong t−ơng 
tác ngôn từ. Đặc biệt, một số nhà phân 
tích diễn ngôn cho rằng chuyển mã và 
trộn mã không chỉ phản ánh các trạng 
thái xã hội mà nó còn là công cụ để tạo 
ra trạng thái xã hội. Suy cho cùng, đây là 
những cách để đánh dấu nhóm xã hội 
đơn giản nhất, không tốn kém, vì thế 
đ−ợc giới trẻ đặc biệt −a thích. 
Thứ hai, các cách diễn đạt khác lạ 
của giới trẻ cũng đ−ợc các nhà ngôn ngữ 
học xã hội xem nh− là một cách đánh 
dấu nhóm và thể hiện bản sắc. Việc giới 
trẻ dùng ngôn ngữ theo kiểu riêng biệt 
là một cách thể hiện bản sắc của mình, 
nói tóm lại, đó là một cách biểu đạt 
nghĩa cá nhân và liên nhân, thuộc về cái 
gọi là “phong cách xã hội” (social style). 
Với những biểu hiện ngôn ngữ nh− vậy, 
ngôn ngữ học xã hội nêu ra vấn đề về 
những biến thể cá nhân trong nội bộ cá 
nhân (Crystal David, 2006; Coupland, 
2007; Biber and Conrad, 2009). Giới trẻ 
Ngôn ngữ giới trẻ 33 
sáng tạo ra cách nói khác lạ để giúp 
chúng phân biệt với các thế hệ tr−ớc, 
thế hệ mà chúng nói vui là thế hệ của 
các ông Khốt, cụ Khốt (Khốt-ta-bit, tên 
nhân vật chính trong tác phẩm của 
Lazar Lagin). 
Ngoài cách tiếp cận của ngôn ngữ 
học xã hội, còn có thể tiếp cận và đánh 
giá hiện t−ợng tiếng Việt “phi chuẩn” từ 
góc độ của hai lý thuyết ngôn ngữ học 
nổi tiếng hiện nay là ngữ pháp chức 
năng hệ thống của Halliday và ngữ 
pháp tạo sinh của Chomsky, với kết quả 
trái ng−ợc nhau. 
Ngữ pháp chức năng hệ thống của 
Halliday xem ngôn ngữ nh− một nguồn 
lực tạo nghĩa và cho rằng ngôn ngữ đã 
tiến hóa để có đ−ợc những cấu trúc khác 
nhau, làm cơ sở lựa chọn để chúng ta có 
thể biểu đạt nghĩa kinh nghiệm, nghĩa 
liên nhân và nghĩa văn bản. Trong hệ 
thống ngữ pháp chức năng hệ thống của 
Halliday, những hiện t−ợng “phi chuẩn” 
có thể đ−ợc xếp vào các đặc tr−ng 
ph−ơng ngữ (dialect), hoặc các đặc tr−ng 
ngữ vực (register). Ph−ơng ngữ là ngôn 
ngữ đ−ợc tổ chức liên quan đến ng−ời nói 
là ai (who the speaker is) theo nghĩa địa 
lý hoặc xã hội (theo đó mà ta có ph−ơng 
ngữ địa lý và ph−ơng ngữ xã hội). Còn 
ngữ vực là ngôn ngữ đ−ợc tổ chức liên 
quan đến “công dụng nào đ−ợc thực hiện 
bởi ngôn ngữ” (what use is being made of 
language). Halliday xem ngữ vực, hay 
“ngôn ngữ theo công dụng” nh− là một 
bình diện của cách tổ chức ngữ nghĩa, có 
thể đ−ợc cụ thể hóa thông qua các khái 
niệm về tr−ờng (cách tổ chức của nghĩa 
t− t−ởng và kinh nghiệm), góc độ tiếp 
cận (cách tổ chức của nghĩa văn bản) và 
giọng điệu (cách tổ chức của nghĩa liên 
nhân) (Halliday, 1985). 
Có thể thấy theo Halliday, những 
đặc tr−ng ngữ vực là kết quả của những 
lựa chọn mà giới trẻ dùng để biểu nghĩa. 
Vì thế, những cách nói khác lạ, “lệch 
chuẩn”, suy cho cùng, cũng là cách mà 
ng−ời nói dùng để thể hiện nghĩa. 
Ngôn ngữ giới trẻ có cả những mặt 
tích cực và mặt tiêu cực. Nh−ng bất 
luận là tích cực hay tiêu cực thì theo góc 
nhìn của ngữ pháp chức năng hệ thống, 
những cách nói “phi chuẩn” nh− vậy đều 
tồn tại một cách khách quan, là cơ sở 
nguyên liệu cho các lựa chọn tiếp theo. 
Hay nói cách khác, ngữ pháp chức năng 
hệ thống cho rằng ngôn ngữ “phi chuẩn” 
cũng là một phần của hệ thống các chọn 
lựa, và về nguyên tắc, các hình mẫu 
“phi chuẩn” sẽ có tính sản sinh, có thể 
đ−ợc nhân lên trong nhiều tình huống 
giao tiếp khác. Trên quan điểm phát 
triển, nếu nh− hiện t−ợng “phi chuẩn” 
tích cực có thể có những đóng góp tốt 
cho ngôn ngữ thì những hiện t−ợng 
“phi chuẩn” tiêu cực sẽ dần dần làm 
tha hóa, biến đổi hệ thống ngôn ngữ 
theo chiều h−ớng xấu. Hệ quả là, từ 
cách tiếp cận của ngữ pháp chức năng 
hệ thống, thực trạng ngôn ngữ “phi 
chuẩn” tiêu cực của giới trẻ hiện nay là 
đáng báo động, cần có những biện pháp 
để ngăn ngừa, giáo dục giới trẻ tìm về 
những cách nói trong sáng, chuẩn mực, 
đ−ợc cộng đồng chấp nhận. 
Tuy nhiên, đối với những hiện t−ợng 
tiếng Việt “phi chuẩn” hiện nay, những 
ng−ời theo lý thuyết ngữ pháp tạo sinh 
của Chomsky có một cách đánh giá 
khác. Dựa trên giả định rằng khả năng 
ngôn ngữ là bẩm sinh, đ−ợc di truyền và 
cú pháp gồm những quy tắc mang tính 
tự trị, độc lập với nghĩa và cách sử dụng, 
ngữ pháp tạo sinh của Chomsky cho 
34 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2015 
rằng những hiện t−ợng ngôn ngữ không 
hoàn hảo, bị thoái hóa (degenerate) nói 
chung, hay cách dùng ngôn ngữ “phi 
chuẩn” của giới trẻ hiện nay nói riêng sẽ 
không thể làm sai lệch hay biến đổi hệ 
thống ngôn ngữ (Chomsky, 1965; Cook 
and Newson, 2007). 
Với quan điểm cho rằng trong tiếng 
Anh, một câu nh− “Colourless green 
ideas sleep furiously” (tạm dịch: Những 
t− t−ởng xanh lục, không màu đang ngủ 
một cách giận dữ”) là hoàn toàn đúng 
ngữ pháp (mặc dù kì dị về ngữ nghĩa và 
ngữ dụng), thì theo lý thuyết của 
Chomsky, các kết hợp “phi chuẩn” của 
giới trẻ Việt Nam hiện nay nh− “c−ớp 
trên giàn m−ớp”, “buồn nh− con chuồn 
chuồn”, “nhí nhảnh con cá cảnh” cũng 
hoàn toàn đúng ngữ pháp bởi lẽ các kết 
hợp này tuân thủ nguyên tắc đã đ−ợc 
xác lập tr−ớc đó qua các kết hợp đ−ợc coi 
là đúng ngữ pháp, chẳng hạn nh− “c−ớp 
trên tàu”, “buồn nh− đám tang”, “nhí 
nhảnh con nít”. Vì thế những kết hợp 
nh− vậy không hề làm biến đổi hệ thống 
ngữ pháp tiếng Việt. 
Cũng theo lý thuyết của Chomsky, 
việc sử dụng tiếng Việt biến âm, thay 
đổi chính tả, hiện t−ợng nói xen tiếng 
Anh vào tiếng Việt (vay m−ợn, chuyển 
mã hay trộn mã),v.v... chỉ là những lỗi 
thể hiện, lỗi về ngữ thi (performance), 
chúng hoàn toàn không có tác động làm 
thay đổi các quy tắc của ngữ pháp phổ 
quát nói chung và ngữ pháp tiếng Việt 
nói riêng đã đ−ợc xác lập ở tầng sâu. 
Nếu giả thuyết trí não con ng−ời đã 
đ−ợc cài đặt sẵn những nguyên tắc ngôn 
ngữ phổ quát (universal grammar), nh− 
là các bản thiết kế, giúp trẻ con thụ đắc 
đ−ợc ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ một 
cách dễ dàng, là đúng, thì hệ luận là 
một khi đứa trẻ đã xác lập đ−ợc cơ cấu 
ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ (lúc đứa trẻ 
chừng 7 tuổi) thì những sai lệch trong 
ngữ thi về sau không thể can thiệp và 
làm thay đổi đ−ợc hệ thống ngữ pháp đã 
đ−ợc xác lập tr−ớc đó. 
Vì thế, đối với những môn đệ của 
Chomsky, những lo lắng rằng các hiện 
t−ợng “phi chuẩn” trong ngôn ngữ giới 
trẻ hiện nay có thể làm hỏng tiếng Việt, 
làm tha hóa tiếng Việt, là những lo lắng 
thái quá, không có cơ sở chính đáng. Dĩ 
nhiên, chúng ta vẫn cần có chính sách 
giáo dục ngôn ngữ tốt, giúp giới trẻ hiểu 
đ−ợc cái hay, cái đẹp của tiếng Việt, của 
văn hóa Việt thấm đẫm trong tiếng Việt 
truyền đời của cha ông. Có điều, nếu 
đứng trên quan điểm của ngữ pháp tạo 
sinh, chúng ta sẽ không bi quan, sợ hãi 
về khả năng tiếng Việt bị tha hóa. 
4. Thay lời kết 
Tóm lại, sự biến động trong ngôn 
ngữ giới trẻ nên đ−ợc hiểu nh− một sự 
vận động tất yếu trong nội tại ngôn ngữ. 
Tuy nhiên, việc chấp nhận hay nhân 
rộng nó đến đâu cũng phụ thuộc một 
phần vào ý thức của xã hội. Quy luật 
chung là cái hay sẽ đ−ợc phổ biến, đ−ợc 
cộng đồng chấp nhận; cái dở sẽ bị đào 
thải, sử dụng th−a dần rồi mất đi. Ngôn 
ngữ sẽ tự có cơ chế sàng lọc, điều tiết 
riêng của nó. 
Cho dù có bi quan hay lạc quan khi 
xem xét vấn đề từ các góc độ lý thuyết 
khác nhau thì đứng tr−ớc sự biến động 
hay hiện t−ợng ngôn ngữ “phi chuẩn” 
của giới trẻ hiện nay, điều quan trọng là 
cần duy trì và phát triển một nền giáo 
dục ngôn ngữ tốt, đặc biệt thông qua 
nhà tr−ờng và các ph−ơng tiện truyền 
thông, vừa giữ gìn sự trong sáng, vừa 
tạo điều kiện cho tiếng Việt phát triển. 
Ngôn ngữ giới trẻ 35 
Tuy nhiên, giáo dục ý thức ngôn ngữ 
phải luôn tính đến yếu tố tâm lý lứa 
tuổi, và điều này cần đ−ợc đặc biệt l−u ý 
khi xây dựng bất cứ một quy định, 
chính sách nào can thiệp đến việc sử 
dụng ngôn ngữ của giới trẻ. 
Về mặt dự báo, có thể tiên l−ợng 
rằng một số cách nói hài h−ớc, thú vị, 
không phản cảm của giới trẻ hiện nay sẽ 
đ−ợc xã hội chấp nhận, và có thể đi vào 
hệ thống tiếng Việt nh− những thành 
ngữ, tục ngữ mới, những khuôn mẫu 
diễn đạt mới. Tuy nhiên, phần lớn cách 
nói, cách viết của thế hệ @ sẽ dần dần 
trở nên cũ kĩ, hết tính thời th−ợng. Theo 
logic nh− vậy, những cách viết bí hiểm, 
khó hiểu sẽ dần dần bị đào thải, còn 
những cách nói nh− “chán nh− con 
gián”, “buồn nh− con chuồn chuồn”,v.v... 
sẽ dần dần mất đi tính độc đáo và bị 
lãng quên. Tuy nhiên, vấn đề là sẽ lại có 
những cách viết bí hiểm, khó hiểu khác 
xuất hiện và thay thế cách viết hiện 
nay, sẽ có những lối nói, những kết hợp 
lạ khác xuất hiện trong ngôn ngữ giới 
trẻ, bởi lẽ cái nguyên do, cái động lực 
cho những cách viết, lối nói nh− vậy - là 
tâm lý thoải mái, chuộng sự mới lạ, 
thích khẳng định mình - vẫn tồn tại với 
giới trẻ, với những biến thái khác nhau, 
song hành cùng sự phát triển của xã 
hội. Và chúng ta cần chuẩn bị tâm lý để 
đối diện tình trạng này. 
Riêng đối với những từ ngữ tiếng 
Anh xuất hiện theo kiểu chuyển mã hay 
trộn mã, chúng tôi đồng ý với các ý kiến 
cho rằng những từ đ−ợc sử dụng với tần 
số cao có thể trở thành từ vay m−ợn 
(borrowings) và nhập vào hệ thống từ 
vựng tiếng Việt (Nguyễn Văn Khang, 
2010). B−ớc tiếp theo, chúng có thể có 
những biến đổi về hình thức hay nội 
dung để tồn tại nh− một đơn vị từ vựng 
bền vững trong tiếng Việt, điều mà 
chúng ta đã từng thấy trong lịch sử 
phát triển của tiếng Việt đối với các từ 
vay m−ợn gốc Hán, gốc Pháp  
Tài liệu tham khảo 
1. Coupland N. (2007), Style: Language 
Variation and Identity, Cambridge 
University Press. 
2. Crystal David (2006), Language and 
the Internet, Cambridge University 
Press. 
3. Biber D. and Conrad S. (2009), 
Register, Genre and Style. 
Cambridge University Press. 
4. Bullock B.E and Toribio A.J (eds) 
(2009), Linguistic Code-switching, 
Cambridge University Press. 
5. Chomsky N. (1957), Syntactic 
Structures, The Hague, Mouton. 
6. Chomsky N. (1965), Aspects of the 
Theory of Syntax, Cambridge, Mass., 
MIT Press. 
7. Cook V.J and Newson M (2007), 
Chomsky’s Universal Grammar, 
Blackwell Publishing. 
8. Halliday M.A.K. (1985), An 
introduction to Functional 
Grammar, Arnold, London. 
9. Halliday và Hasan (1985), 
Language, context and text: Aspects 
of language in a social semiotic 
perspective, Deakin University 
Press/OUP, Geelong/Oxford 
10. Lyons J. (2008), Chomsky, Fontana 
Press. 
11. Martin J.R. and P. White (2005), 
The language of evaluation: 
36 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2015 
appraisal in English, Palgrave 
Macmillan Press. 
12. Nguyen Thuy Nga (2013), Language 
Contact and English Borrowings in 
a Vietnamese Magazine for 
Teenagers, PhD thesis, The 
University of Queensland. 
13. Bùi Khánh Thế (2014), “Lý thuyết về 
chuẩn ngôn ngữ và vấn đề chuẩn 
chính tả tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn 
ngữ, số 7. 
14. Hoàng Văn Hành (2000), “Những 
định h−ớng và bình diện của công 
cuộc giữ gìn sự trong sáng và 
chuẩn hóa tiếng Việt”, Tạp chí 
Ngôn ngữ, số 2. 
15. Nguyễn Văn Khang (2010), “Sự tác 
động của xã hội đối với ngôn ngữ và 
những vấn đề đặt ra đối với chính 
sách ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay”, 
Tạp chí Ngôn ngữ, số 8 (255). 
16. Nguyễn Văn Toàn, “Tiếng Việt đang 
bị bụi bám”, 
tri/tuanvietnam/71742/tieng-viet-
dang-bi----bui-bam-.html) 
17. Phạm Dũng (2003), “Ngôn ngữ 
Email”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời 
sống, số 9. 
18. Phạm Văn Tình (2011), “Về cuốn 
sách “Sát thủ đầu m−ng mủ”: Nên 
lắng nghe giới trẻ”, 
giai-tri/ve-cuon-sach-sat-thu-dau-
mung-mu-nen-lang-nghe-gioi-tre-
n20111026062453355.htm. 
19. 
an/showthread.php?t=10709&page=1 
(Tiếp theo trang 42) 
Tài liệu tham khảo 
1. C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 
1995. 
2. V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, 
Mátxcơva, 1980. 
3. C. Mác và Ph. Ănghen: Tuyển tập, 
Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984. 
4. Tr−ờng Cán bộ dân tộc (2011), Tập 
bài giảng về công tác dân tộc, Hà 
Nội. 
5. Các n−ớc trên thế giới, Nxb. Sự thật, 
Hà Nội, 1990. 
6. GS.TS. Phan Hữu Dật (chủ biên, 
2001), Mấy vấn đề lý luận và thực 
tiễn cấp bách liên quan đến mối 
quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb. 
Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
7. GS.TS. Vũ Dũng (2009), Tâm lý học 
dân tộc, Nxb. Từ điển Bách khoa, 
Hà Nội. 
8. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển tôn 
giáo, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
9. Giáo s− B. N. Pônômarép (chủ biên, 
1962), Từ điển chính trị, Nxb. Sự 
thật, Hà Nội. 
10. M. Rôdentan và P. Iuđin (chủ biên, 
1976), Từ điển triết học, Nxb. Sự 
thật, Hà Nội. 
11. Viện sĩ A. M. Rumiantxép (chủ biên, 
1986), Chủ nghĩa cộng sản khoa học. 
Từ điển, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva và 
Nxb. Sự thật, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfngon_ngu_gioi_tre_hien_nay_nhin_tu_quan_diem_mot_so_ly_thuye.pdf