Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay nhìn từ quan điểm một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại
Tóm tắt: Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay là một hiện tượng xã hội gây nhiều phản ứng
trái ngược: đa số ý kiến phê phán, nhưng cũng có những ý kiến tán đồng hoặc thông
cảm, cho rằng đây là một hiện tượng ngôn ngữ gắn với sự phát triển của xã hội hiện
đại. Trong bài viết này, thay vì phát biểu ý kiến một cách cảm tính, dựa trên tình
cảm yêu ghét, bày tỏ thái độ quyết liệt như vẫn thường thấy trên các phương tiện
truyền thông hiện nay, chúng tôi trình bày các cách nhìn khác nhau đối với ngôn
ngữ giới trẻ hiện nay từ quan điểm của một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Theo
chúng tôi, cảm tính không thể thay thế lý tính của các luận điểm khoa học.
Bạn đang xem tài liệu "Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay nhìn từ quan điểm một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay nhìn từ quan điểm một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại
Ngụn ngữ giới trẻ hiện nay nhỡn từ quan điểm một số lý thuyết ngụn ngữ học hiện đại Nguyễn Văn Hiệp(*) Tóm tắt: Ngôn ngữ giới trẻ hiện nay là một hiện t−ợng xã hội gây nhiều phản ứng trái ng−ợc: đa số ý kiến phê phán, nh−ng cũng có những ý kiến tán đồng hoặc thông cảm, cho rằng đây là một hiện t−ợng ngôn ngữ gắn với sự phát triển của xã hội hiện đại. Trong bài viết này, thay vì phát biểu ý kiến một cách cảm tính, dựa trên tình cảm yêu ghét, bày tỏ thái độ quyết liệt nh− vẫn th−ờng thấy trên các ph−ơng tiện truyền thông hiện nay, chúng tôi trình bày các cách nhìn khác nhau đối với ngôn ngữ giới trẻ hiện nay từ quan điểm của một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại. Theo chúng tôi, cảm tính không thể thay thế lý tính của các luận điểm khoa học. Từ khóa: Ngôn ngữ giới trẻ, Ngôn ngữ học hiện đại, Ngữ pháp chức năng hệ thống, Ngữ pháp tạo sinh 1. Những quan điểm trái chiều về tiếng Việt “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay Trong bối cảnh Việt Nam đang tiến hành đổi mới và hội nhập quốc tế, cùng với những thay đổi chóng mặt về kinh tế và xã hội, vấn đề phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt đang đ−ợc đặt ra một cách cấp bách, với những vấn đề rất mới mẻ. (*) Về nguyên tắc, cũng nh− tất cả các sinh ngữ khác, tiếng Việt phải phát triển để đáp ứng nhu cầu diễn đạt nhận thức chung của xã hội đang phát triển, nhu cầu biểu đạt tình cảm ngày càng (*) GS.TS., Viện tr−ởng Viện Ngôn ngữ học. phức tạp và tinh tế của ng−ời Việt. Đặc biệt, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, một loạt hình thức giao tiếp mới ra đời nh− th− điện tử, chát, mạng xã hội,v.v... đã tạo nên những dạng giao tiếp ngôn ngữ tr−ớc đây ch−a từng có. Tuy nhiên, sự phát triển mạnh mẽ ấy cũng kéo theo vô số những hệ lụy, trong đó có những hệ lụy liên quan đến vấn đề giữ gìn và phát triển tiếng Việt, thể hiện qua những cách nói bị đánh giá là “phi chuẩn” của giới trẻ hay thế hệ @ hiện nay. Nói chung, có thể thấy, xã hội đang bất an về ngôn ngữ. Bằng chứng là đã có hàng loạt bài viết trên các ph−ơng 30 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2015 tiện truyền thông báo động về thực trạng tiếng Việt hiện nay nh−: “Tiếng Việt đang méo mó”, “Nỗi lo chính tả”, “Phải giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, “Tiếng Việt thời nay: nên c−ời hay nên khóc”, “Nghĩ về tiếng Việt mạng xã hội”, “Lộn xộn tiếng Việt thời giao l−u văn hóa”, “C−ời ra n−ớc mắt, tiếng Việt thời nay”, Nguyên nhân của tình trạng này, theo sự chỉ trích của các tác giả những bài báo trên, là do ảnh h−ởng từ mặt trái của nền kinh tế thị tr−ờng, sự xuống cấp của đạo đức xã hội, sự nông nổi của các bạn trẻ thế hệ 8x, 9x và cả sự buông lỏng kỷ c−ơng trong việc sử dụng từ ngữ đối với các ph−ơng tiện thông tin đại chúng... Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng không nên quá lo lắng, những cái “nhố nhăng”, “quá đà”, “kì dị” trong cách diễn đạt của giới trẻ hiện nay sẽ nhanh chóng qua đi, và tiếng Việt đủ nội lực để tự bảo vệ, để tr−ờng tồn cùng dân tộc. Vả chăng, cách nói của giới trẻ hiện nay cũng mang đến những sáng tạo thú vị. Chẳng hạn, trong buổi tọa đàm “Ngôn ngữ giới trẻ thời @ qua tranh của họa sĩ Thành Phong” đ−ợc tổ chức vào tháng 3/2012 tại Hà Nội, khi đánh giá về những kiểu nói nh− “Chán nh− con gián”, “Chảnh nh− con cá cảnh”, “Dở hơi biết bơi”, “Ăn chơi sợ gì m−a rơi”,..., nhà giáo Văn Nh− C−ơng đã bày tỏ sự thích thú với lối sáng tạo ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay. Ông cho rằng, những kiểu nói này đã thật sự mang lại những ý nghĩa rất thú vị và bất ngờ mà lối nói truyền thống không thể diễn tả đ−ợc. Hơn thế nữa, ông cho rằng lối nói này thể hiện một sự chuyển đổi từ cái cũ sang cái mới, phản ánh những vấn đề hết sức thú vị của lịch sử. Ông nêu ví dụ, ngày x−a ông cha ta nói “cái khó bó cái khôn” là để chỉ cái đói cái nghèo ngăn trở chúng ta thành công trong cuộc sống. Nh−ng trong kháng chiến chống Pháp, cả dân tộc gặp “cái khó” mới “ló cái khôn”, thể hiện ở những nỗ lực v−ợt lên mọi khó khăn để chiến đấu và chiến thắng. Tuy nhiên, nếu cứ đói mãi, cứ khó mãi, thì “cái khó ló cái ngu”. Rõ ràng ba câu nói - “Cái khó bó cái khôn”/ “Cái khó ló cái khôn”/ “Cái khó ló cái ngu”- đã phản ánh ba thời kỳ lịch sử khác nhau chứ hoàn toàn không phải là sự biến đổi ngôn ngữ tùy tiện. Với cái hay của ba lối nói này, nhà giáo Văn Nh− C−ơng kết luận: “Làm sao tôi không mê cho đ−ợc?”. Trong bài viết này, chúng tôi không vội phê phán hay cổ súy cách dùng ngôn ngữ của giới trẻ hiện nay. Thay vào đó, chúng tôi cho rằng tình trạng sử dụng tiếng Việt “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay cần đ−ợc khảo sát trong những chiều kích khác nhau và nhà ngôn ngữ học phải đi tìm lý luận ngôn ngữ học hiện đại để trả lời câu hỏi đang đ−ợc đặt ra một cách bức xúc đối với toàn xã hội: Tình trạng sử dụng tiếng Việt nh− vậy có thật sự nghiêm trọng hay không? Chúng ta cần phải làm gì để phát triển và giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, cũng là một cách để giữ gìn bản sắc văn hóa Việt? 2. Phác họa thực trạng tiếng Việt bị coi là “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay Chúng tôi cho rằng, những vấn đề mới đặt ra đối với việc giữ gìn và phát triển tiếng Việt là hiện t−ợng giới trẻ dùng những kết hợp khác lạ, sử dụng tiếng Việt biến âm trong lời nói và chữ viết, vấn đề sử dụng tiếng Anh xen lẫn Ngôn ngữ giới trẻ 31 với tiếng Việt. Những hiện t−ợng này có thể đ−ợc miêu tả khái quát nh− sau: - Sử dụng ngôn ngữ khác lạ, phi logic Giới trẻ thích sử dụng những cách nói có vẻ rất vô nghĩa, kì lạ, kiểu nh−: “C−ớp trên giàn m−ớp”, “Buồn nh− con chuồn chuồn”, “Chảnh nh− con cá cảnh”, “Chán nh− con gián”,... hoặc sử dụng những kết hợp bất th−ờng, kiểu nh− “Hơi bị đẹp”. Giới trẻ sử dụng cách nói chơi chữ (chủ yếu dựa trên hiện t−ợng đồng âm), ví dụ: “Yêu nhau trong sáng, phang nhau trong tối”, “Campuchia tiền ăn tr−a”,... - Sử dụng tiếng Việt biến âm trong lời nói và chữ viết Thực trạng này đã gây sốc cho nhiều ng−ời, đặc biệt là các bậc cha mẹ. Họ sốc vì cách nói mà theo họ là làm “méo mó” tiếng Việt của bọn trẻ, họ sốc vì không thể hiểu đ−ợc bọn trẻ nói gì. Trong tin nhắn điện thoại đi động, trong chát trực tuyến,v.v... rất phổ biến cách diễn đạt kiểu nh−: từ “rồi” viết thành “roài”, “không” thành “hông”/“hem”, “biết” thành “bít”. Kết quả là có những câu nh−: “The la cau hem bit roai, hihi” (“dịch” ra ngôn ngữ bình th−ờng là “Thế là cậu không biết rồi, hì hì”). Xa hơn nữa, thế hệ @ còn “sáng tạo” những cách viết kì dị, nh− chữ “a” viết thành 4, chữ e viết thành 3, i thành j, g đổi sang 9, o thành 0, c thành k, b thành p,v.v... Câu “Thế là cậu không biết rồi, hì hì” trên đây sẽ đ−ợc viết là: “Th3 l4 k4u h3m pjt r04j, hyhy”. Cách diễn đạt này bí hiểm đến nỗi một nữ sinh ở thành phố Hồ Chí Minh đã bỏ công viết phần mềm dịch ngôn ngữ @, đặt tên là V2V (Việt sang Việt). Hình phía d−ới là một minh họa cho ứng dụng của phần mềm này. Tuy nhiên, phần mềm V2V vẫn không theo kịp tốc độ biến dạng của ngôn ngữ @. Bởi càng về sau, lớp tuổi @ càng có nhiều cách biến tấu khiến phần mềm V2V phiên bản đầu tiên trở nên lạc lậu, không dịch chính xác đ−ợc. Hệ quả là, tác giả phải tiếp tục nghiên cứu 32 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2015 và nâng cấp lên phiên bản 1.3, đến nay đã là... 1.4. (Dẫn theo: Nguyễn Văn Toàn , “Tiếng Việt đang bị... bụi bám”, tri/tuanvietnam/71742/tieng-viet-dang- bi----bui-bam-.html). - Sử dụng tiếng Anh xen lẫn với tiếng Việt Thế hệ @ nhìn chung là thế hệ giỏi ngoại ngữ. Trong ngôn ngữ của họ, tình trạng dùng tiếng Anh xen lẫn tiếng Việt khá phổ biến. Chẳng hạn, đây là một lời tự giới thiệu của một bạn “tuổi teen”: “Hi mọi ng−ời! Mình là, mình rất vui đ−ợc làm quen với everybody. Mình đang study ở ... High School. Mình rất confident trong các extracurricular activities. Hiện nay mình đang cope up with ch−ơng trình học rất killer của tr−ờng... Nh−ng mình tin với capacity của mình, mình sẽ hoàn thành completly cái syllabus đó” ( /showthread.php?t=10709&page=1). Hiện t−ợng dùng tiếng Anh lẫn với tiếng Việt không chỉ thấy ở thế hệ @, mà còn thấy ở những ng−ời lớn tuổi từng đi du học ở n−ớc ngoài hoặc trong công việc hàng ngày có điều kiện tiếp xúc th−ờng xuyên với ng−ời n−ớc ngoài. Chẳng hạn, một khách hàng của Việt Nam Airlines có thể nói với nhân viên phòng vé: “Vé này có cần con phơm (confirm) lại không chị?”. Nguy cơ của cách nói này là có thể hình thành một loại ngôn ngữ lai (pidgin), nh− cách nói “Tây bồi” tr−ớc năm 1945. 3. Đánh giá ngôn ngữ giới trẻ hiện nay từ góc độ một số lý thuyết ngôn ngữ học hiện đại Những vấn đề của tiếng Việt nh− nói theo kiểu tiếng n−ớc ngoài, nói tiếng Việt xen lẫn với tiếng n−ớc ngoài, cách diễn đạt khác lạ của giới trẻ,v.v... đã đ−ợc giới ngôn ngữ học quan tâm từ nhiều góc độ khác nhau, với cách đặt vấn đề khác nhau. Thứ nhất, hiện t−ợng dùng tiếng n−ớc ngoài xen lẫn với tiếng Việt có liên quan đến vấn đề chuyển mã (Code- Switching), trộn mã (Code-mixing) và vay m−ợn (borrowings), đ−ợc bàn luận rất nhiều trong các nghiên cứu ngôn ngữ học xã hội (Nguyễn Thúy Nga, 2013). Theo các nhà ngôn ngữ học xã hội, hiện t−ợng này có liên quan đến t− cách thành viên thuộc nhóm xã hội nhất định trong các xã hội đa ngữ. Có một mối quan hệ giữa những hiện t−ợng này với vị thế giai cấp, vị thế tộc ng−ời và vị thế xã hội. Nó cũng đ−ợc xem là một cách cấu trúc hóa sự trao đổi trong t−ơng tác ngôn từ. Đặc biệt, một số nhà phân tích diễn ngôn cho rằng chuyển mã và trộn mã không chỉ phản ánh các trạng thái xã hội mà nó còn là công cụ để tạo ra trạng thái xã hội. Suy cho cùng, đây là những cách để đánh dấu nhóm xã hội đơn giản nhất, không tốn kém, vì thế đ−ợc giới trẻ đặc biệt −a thích. Thứ hai, các cách diễn đạt khác lạ của giới trẻ cũng đ−ợc các nhà ngôn ngữ học xã hội xem nh− là một cách đánh dấu nhóm và thể hiện bản sắc. Việc giới trẻ dùng ngôn ngữ theo kiểu riêng biệt là một cách thể hiện bản sắc của mình, nói tóm lại, đó là một cách biểu đạt nghĩa cá nhân và liên nhân, thuộc về cái gọi là “phong cách xã hội” (social style). Với những biểu hiện ngôn ngữ nh− vậy, ngôn ngữ học xã hội nêu ra vấn đề về những biến thể cá nhân trong nội bộ cá nhân (Crystal David, 2006; Coupland, 2007; Biber and Conrad, 2009). Giới trẻ Ngôn ngữ giới trẻ 33 sáng tạo ra cách nói khác lạ để giúp chúng phân biệt với các thế hệ tr−ớc, thế hệ mà chúng nói vui là thế hệ của các ông Khốt, cụ Khốt (Khốt-ta-bit, tên nhân vật chính trong tác phẩm của Lazar Lagin). Ngoài cách tiếp cận của ngôn ngữ học xã hội, còn có thể tiếp cận và đánh giá hiện t−ợng tiếng Việt “phi chuẩn” từ góc độ của hai lý thuyết ngôn ngữ học nổi tiếng hiện nay là ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday và ngữ pháp tạo sinh của Chomsky, với kết quả trái ng−ợc nhau. Ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday xem ngôn ngữ nh− một nguồn lực tạo nghĩa và cho rằng ngôn ngữ đã tiến hóa để có đ−ợc những cấu trúc khác nhau, làm cơ sở lựa chọn để chúng ta có thể biểu đạt nghĩa kinh nghiệm, nghĩa liên nhân và nghĩa văn bản. Trong hệ thống ngữ pháp chức năng hệ thống của Halliday, những hiện t−ợng “phi chuẩn” có thể đ−ợc xếp vào các đặc tr−ng ph−ơng ngữ (dialect), hoặc các đặc tr−ng ngữ vực (register). Ph−ơng ngữ là ngôn ngữ đ−ợc tổ chức liên quan đến ng−ời nói là ai (who the speaker is) theo nghĩa địa lý hoặc xã hội (theo đó mà ta có ph−ơng ngữ địa lý và ph−ơng ngữ xã hội). Còn ngữ vực là ngôn ngữ đ−ợc tổ chức liên quan đến “công dụng nào đ−ợc thực hiện bởi ngôn ngữ” (what use is being made of language). Halliday xem ngữ vực, hay “ngôn ngữ theo công dụng” nh− là một bình diện của cách tổ chức ngữ nghĩa, có thể đ−ợc cụ thể hóa thông qua các khái niệm về tr−ờng (cách tổ chức của nghĩa t− t−ởng và kinh nghiệm), góc độ tiếp cận (cách tổ chức của nghĩa văn bản) và giọng điệu (cách tổ chức của nghĩa liên nhân) (Halliday, 1985). Có thể thấy theo Halliday, những đặc tr−ng ngữ vực là kết quả của những lựa chọn mà giới trẻ dùng để biểu nghĩa. Vì thế, những cách nói khác lạ, “lệch chuẩn”, suy cho cùng, cũng là cách mà ng−ời nói dùng để thể hiện nghĩa. Ngôn ngữ giới trẻ có cả những mặt tích cực và mặt tiêu cực. Nh−ng bất luận là tích cực hay tiêu cực thì theo góc nhìn của ngữ pháp chức năng hệ thống, những cách nói “phi chuẩn” nh− vậy đều tồn tại một cách khách quan, là cơ sở nguyên liệu cho các lựa chọn tiếp theo. Hay nói cách khác, ngữ pháp chức năng hệ thống cho rằng ngôn ngữ “phi chuẩn” cũng là một phần của hệ thống các chọn lựa, và về nguyên tắc, các hình mẫu “phi chuẩn” sẽ có tính sản sinh, có thể đ−ợc nhân lên trong nhiều tình huống giao tiếp khác. Trên quan điểm phát triển, nếu nh− hiện t−ợng “phi chuẩn” tích cực có thể có những đóng góp tốt cho ngôn ngữ thì những hiện t−ợng “phi chuẩn” tiêu cực sẽ dần dần làm tha hóa, biến đổi hệ thống ngôn ngữ theo chiều h−ớng xấu. Hệ quả là, từ cách tiếp cận của ngữ pháp chức năng hệ thống, thực trạng ngôn ngữ “phi chuẩn” tiêu cực của giới trẻ hiện nay là đáng báo động, cần có những biện pháp để ngăn ngừa, giáo dục giới trẻ tìm về những cách nói trong sáng, chuẩn mực, đ−ợc cộng đồng chấp nhận. Tuy nhiên, đối với những hiện t−ợng tiếng Việt “phi chuẩn” hiện nay, những ng−ời theo lý thuyết ngữ pháp tạo sinh của Chomsky có một cách đánh giá khác. Dựa trên giả định rằng khả năng ngôn ngữ là bẩm sinh, đ−ợc di truyền và cú pháp gồm những quy tắc mang tính tự trị, độc lập với nghĩa và cách sử dụng, ngữ pháp tạo sinh của Chomsky cho 34 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2015 rằng những hiện t−ợng ngôn ngữ không hoàn hảo, bị thoái hóa (degenerate) nói chung, hay cách dùng ngôn ngữ “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay nói riêng sẽ không thể làm sai lệch hay biến đổi hệ thống ngôn ngữ (Chomsky, 1965; Cook and Newson, 2007). Với quan điểm cho rằng trong tiếng Anh, một câu nh− “Colourless green ideas sleep furiously” (tạm dịch: Những t− t−ởng xanh lục, không màu đang ngủ một cách giận dữ”) là hoàn toàn đúng ngữ pháp (mặc dù kì dị về ngữ nghĩa và ngữ dụng), thì theo lý thuyết của Chomsky, các kết hợp “phi chuẩn” của giới trẻ Việt Nam hiện nay nh− “c−ớp trên giàn m−ớp”, “buồn nh− con chuồn chuồn”, “nhí nhảnh con cá cảnh” cũng hoàn toàn đúng ngữ pháp bởi lẽ các kết hợp này tuân thủ nguyên tắc đã đ−ợc xác lập tr−ớc đó qua các kết hợp đ−ợc coi là đúng ngữ pháp, chẳng hạn nh− “c−ớp trên tàu”, “buồn nh− đám tang”, “nhí nhảnh con nít”. Vì thế những kết hợp nh− vậy không hề làm biến đổi hệ thống ngữ pháp tiếng Việt. Cũng theo lý thuyết của Chomsky, việc sử dụng tiếng Việt biến âm, thay đổi chính tả, hiện t−ợng nói xen tiếng Anh vào tiếng Việt (vay m−ợn, chuyển mã hay trộn mã),v.v... chỉ là những lỗi thể hiện, lỗi về ngữ thi (performance), chúng hoàn toàn không có tác động làm thay đổi các quy tắc của ngữ pháp phổ quát nói chung và ngữ pháp tiếng Việt nói riêng đã đ−ợc xác lập ở tầng sâu. Nếu giả thuyết trí não con ng−ời đã đ−ợc cài đặt sẵn những nguyên tắc ngôn ngữ phổ quát (universal grammar), nh− là các bản thiết kế, giúp trẻ con thụ đắc đ−ợc ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ một cách dễ dàng, là đúng, thì hệ luận là một khi đứa trẻ đã xác lập đ−ợc cơ cấu ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ (lúc đứa trẻ chừng 7 tuổi) thì những sai lệch trong ngữ thi về sau không thể can thiệp và làm thay đổi đ−ợc hệ thống ngữ pháp đã đ−ợc xác lập tr−ớc đó. Vì thế, đối với những môn đệ của Chomsky, những lo lắng rằng các hiện t−ợng “phi chuẩn” trong ngôn ngữ giới trẻ hiện nay có thể làm hỏng tiếng Việt, làm tha hóa tiếng Việt, là những lo lắng thái quá, không có cơ sở chính đáng. Dĩ nhiên, chúng ta vẫn cần có chính sách giáo dục ngôn ngữ tốt, giúp giới trẻ hiểu đ−ợc cái hay, cái đẹp của tiếng Việt, của văn hóa Việt thấm đẫm trong tiếng Việt truyền đời của cha ông. Có điều, nếu đứng trên quan điểm của ngữ pháp tạo sinh, chúng ta sẽ không bi quan, sợ hãi về khả năng tiếng Việt bị tha hóa. 4. Thay lời kết Tóm lại, sự biến động trong ngôn ngữ giới trẻ nên đ−ợc hiểu nh− một sự vận động tất yếu trong nội tại ngôn ngữ. Tuy nhiên, việc chấp nhận hay nhân rộng nó đến đâu cũng phụ thuộc một phần vào ý thức của xã hội. Quy luật chung là cái hay sẽ đ−ợc phổ biến, đ−ợc cộng đồng chấp nhận; cái dở sẽ bị đào thải, sử dụng th−a dần rồi mất đi. Ngôn ngữ sẽ tự có cơ chế sàng lọc, điều tiết riêng của nó. Cho dù có bi quan hay lạc quan khi xem xét vấn đề từ các góc độ lý thuyết khác nhau thì đứng tr−ớc sự biến động hay hiện t−ợng ngôn ngữ “phi chuẩn” của giới trẻ hiện nay, điều quan trọng là cần duy trì và phát triển một nền giáo dục ngôn ngữ tốt, đặc biệt thông qua nhà tr−ờng và các ph−ơng tiện truyền thông, vừa giữ gìn sự trong sáng, vừa tạo điều kiện cho tiếng Việt phát triển. Ngôn ngữ giới trẻ 35 Tuy nhiên, giáo dục ý thức ngôn ngữ phải luôn tính đến yếu tố tâm lý lứa tuổi, và điều này cần đ−ợc đặc biệt l−u ý khi xây dựng bất cứ một quy định, chính sách nào can thiệp đến việc sử dụng ngôn ngữ của giới trẻ. Về mặt dự báo, có thể tiên l−ợng rằng một số cách nói hài h−ớc, thú vị, không phản cảm của giới trẻ hiện nay sẽ đ−ợc xã hội chấp nhận, và có thể đi vào hệ thống tiếng Việt nh− những thành ngữ, tục ngữ mới, những khuôn mẫu diễn đạt mới. Tuy nhiên, phần lớn cách nói, cách viết của thế hệ @ sẽ dần dần trở nên cũ kĩ, hết tính thời th−ợng. Theo logic nh− vậy, những cách viết bí hiểm, khó hiểu sẽ dần dần bị đào thải, còn những cách nói nh− “chán nh− con gián”, “buồn nh− con chuồn chuồn”,v.v... sẽ dần dần mất đi tính độc đáo và bị lãng quên. Tuy nhiên, vấn đề là sẽ lại có những cách viết bí hiểm, khó hiểu khác xuất hiện và thay thế cách viết hiện nay, sẽ có những lối nói, những kết hợp lạ khác xuất hiện trong ngôn ngữ giới trẻ, bởi lẽ cái nguyên do, cái động lực cho những cách viết, lối nói nh− vậy - là tâm lý thoải mái, chuộng sự mới lạ, thích khẳng định mình - vẫn tồn tại với giới trẻ, với những biến thái khác nhau, song hành cùng sự phát triển của xã hội. Và chúng ta cần chuẩn bị tâm lý để đối diện tình trạng này. Riêng đối với những từ ngữ tiếng Anh xuất hiện theo kiểu chuyển mã hay trộn mã, chúng tôi đồng ý với các ý kiến cho rằng những từ đ−ợc sử dụng với tần số cao có thể trở thành từ vay m−ợn (borrowings) và nhập vào hệ thống từ vựng tiếng Việt (Nguyễn Văn Khang, 2010). B−ớc tiếp theo, chúng có thể có những biến đổi về hình thức hay nội dung để tồn tại nh− một đơn vị từ vựng bền vững trong tiếng Việt, điều mà chúng ta đã từng thấy trong lịch sử phát triển của tiếng Việt đối với các từ vay m−ợn gốc Hán, gốc Pháp Tài liệu tham khảo 1. Coupland N. (2007), Style: Language Variation and Identity, Cambridge University Press. 2. Crystal David (2006), Language and the Internet, Cambridge University Press. 3. Biber D. and Conrad S. (2009), Register, Genre and Style. Cambridge University Press. 4. Bullock B.E and Toribio A.J (eds) (2009), Linguistic Code-switching, Cambridge University Press. 5. Chomsky N. (1957), Syntactic Structures, The Hague, Mouton. 6. Chomsky N. (1965), Aspects of the Theory of Syntax, Cambridge, Mass., MIT Press. 7. Cook V.J and Newson M (2007), Chomsky’s Universal Grammar, Blackwell Publishing. 8. Halliday M.A.K. (1985), An introduction to Functional Grammar, Arnold, London. 9. Halliday và Hasan (1985), Language, context and text: Aspects of language in a social semiotic perspective, Deakin University Press/OUP, Geelong/Oxford 10. Lyons J. (2008), Chomsky, Fontana Press. 11. Martin J.R. and P. White (2005), The language of evaluation: 36 Thông tin Khoa học xã hội, số 6.2015 appraisal in English, Palgrave Macmillan Press. 12. Nguyen Thuy Nga (2013), Language Contact and English Borrowings in a Vietnamese Magazine for Teenagers, PhD thesis, The University of Queensland. 13. Bùi Khánh Thế (2014), “Lý thuyết về chuẩn ngôn ngữ và vấn đề chuẩn chính tả tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 7. 14. Hoàng Văn Hành (2000), “Những định h−ớng và bình diện của công cuộc giữ gìn sự trong sáng và chuẩn hóa tiếng Việt”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 2. 15. Nguyễn Văn Khang (2010), “Sự tác động của xã hội đối với ngôn ngữ và những vấn đề đặt ra đối với chính sách ngôn ngữ ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Ngôn ngữ, số 8 (255). 16. Nguyễn Văn Toàn, “Tiếng Việt đang bị bụi bám”, tri/tuanvietnam/71742/tieng-viet- dang-bi----bui-bam-.html) 17. Phạm Dũng (2003), “Ngôn ngữ Email”, Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 9. 18. Phạm Văn Tình (2011), “Về cuốn sách “Sát thủ đầu m−ng mủ”: Nên lắng nghe giới trẻ”, giai-tri/ve-cuon-sach-sat-thu-dau- mung-mu-nen-lang-nghe-gioi-tre- n20111026062453355.htm. 19. an/showthread.php?t=10709&page=1 (Tiếp theo trang 42) Tài liệu tham khảo 1. C. Mác và Ph. Ănghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995. 2. V. I. Lênin: Toàn tập, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1980. 3. C. Mác và Ph. Ănghen: Tuyển tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1984. 4. Tr−ờng Cán bộ dân tộc (2011), Tập bài giảng về công tác dân tộc, Hà Nội. 5. Các n−ớc trên thế giới, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1990. 6. GS.TS. Phan Hữu Dật (chủ biên, 2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. 7. GS.TS. Vũ Dũng (2009), Tâm lý học dân tộc, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 8. Mai Thanh Hải (2002), Từ điển tôn giáo, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 9. Giáo s− B. N. Pônômarép (chủ biên, 1962), Từ điển chính trị, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 10. M. Rôdentan và P. Iuđin (chủ biên, 1976), Từ điển triết học, Nxb. Sự thật, Hà Nội. 11. Viện sĩ A. M. Rumiantxép (chủ biên, 1986), Chủ nghĩa cộng sản khoa học. Từ điển, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva và Nxb. Sự thật, Hà Nội.
File đính kèm:
- ngon_ngu_gioi_tre_hien_nay_nhin_tu_quan_diem_mot_so_ly_thuye.pdf