Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ (1651) và những ảnh hưởng của nó trong việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt

TÓM TẮT:

Dictionarium annamiticum, lusitanum et

latinum của Alexandre de Rhodes xuất bản tại

Roma vào 1651. Công trình này dựa trên

nghiên cứu về tiếng Việt của nhiều nhà truyền

giáo Bồ Đào Nha, những người khá thông thạo

tiếng Việt, trong đó phải kể đến F. Pina và C.

Borri. Công trình này của ông gồm 8 chương,

trong đó ông dành ra 6 chương để bàn về phân

loại từ trong tiếng Việt. Alexandre de Rhodes

phân từ tiếng Việt thành bảy từ loại: danh từ

(bao gồm cả tính từ), động từ, đại từ, giới từ,

trạng từ, thán từ, liên từ. Với nhóm từ loại, ông

tiến hành miêu tả dựa trên sự đối sánh với

tiếng Latin. Chính vì dựa trên một hệ thống

ngôn ngữ được xem là định chuẩn, có thể thấy

rằng những miêu tả ngôn ngữ học về tiếng Việt

của ông khá thú vị và có nhiều nhận định có

giá trị. Tuy nhiên, việc áp đặt các quy chuẩn

trong miêu tả ngôn ngữ học của ông, đặc biệt

là việc áp định các nhãn ngữ pháp cho các đơn

vị từ vựng trong tiếng Việt để lại nhiều hệ lụy

mà dấu vết vẫn còn in đậm trong các công

trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt ra đời sau

đó.

pdf 11 trang yennguyen 8580
Bạn đang xem tài liệu "Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ (1651) và những ảnh hưởng của nó trong việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ (1651) và những ảnh hưởng của nó trong việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt

Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ (1651) và những ảnh hưởng của nó trong việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 170 
Ngữ pháp tiếng Việt của Đắc Lộ (1651) 
và những ảnh hưởng của nó 
trong việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt 
 Nguyễn Hoàng Trung 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, ĐHQG-HCM 
TÓM TẮT: 
Dictionarium annamiticum, lusitanum et 
latinum của Alexandre de Rhodes xuất bản tại 
Roma vào 1651. Công trình này dựa trên 
nghiên cứu về tiếng Việt của nhiều nhà truyền 
giáo Bồ Đào Nha, những người khá thông thạo 
tiếng Việt, trong đó phải kể đến F. Pina và C. 
Borri. Công trình này của ông gồm 8 chương, 
trong đó ông dành ra 6 chương để bàn về phân 
loại từ trong tiếng Việt. Alexandre de Rhodes 
phân từ tiếng Việt thành bảy từ loại: danh từ 
(bao gồm cả tính từ), động từ, đại từ, giới từ, 
trạng từ, thán từ, liên từ. Với nhóm từ loại, ông 
tiến hành miêu tả dựa trên sự đối sánh với 
tiếng Latin. Chính vì dựa trên một hệ thống 
ngôn ngữ được xem là định chuẩn, có thể thấy 
rằng những miêu tả ngôn ngữ học về tiếng Việt 
của ông khá thú vị và có nhiều nhận định có 
giá trị. Tuy nhiên, việc áp đặt các quy chuẩn 
trong miêu tả ngôn ngữ học của ông, đặc biệt 
là việc áp định các nhãn ngữ pháp cho các đơn 
vị từ vựng trong tiếng Việt để lại nhiều hệ lụy 
mà dấu vết vẫn còn in đậm trong các công 
trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt ra đời sau 
đó. 
Từ khóa: Ngữ pháp Đắc Lộ, ngữ pháp định chuẩn, từ loại 
Alexandre De Rhodes (1591-1660) là một giáo 
sĩ Dòng tên, người Pháp và sinh ở Avignon. Ông 
học hành ở Roma. Ông sống và truyền đạo ở 
Cochichine (Trung và Nam Kỳ) hơn ba năm (1624-
1627), sau đó ông đi Tonkin (Bắc kỳ) và ở đó 
khoảng ba năm (1627-1630). Ông rời Annam đến 
sống ở Macao mười năm (1630-1640). Ông trở lại 
Cochichine sau 13 năm và ở lại đó bốn năm (1640-
1645) trước khi ông sang Ba Tư. 
Alexandre De Rhodes viết nhiều tác phẩm về 
Việt Nam, trong đó có hai tác phẩm quan trọng là 
Catechismus (Phép giảng tám ngày) (1651) và 
Dictionarium Annamiticum Lusitanum et Latinum 
(Từ điển Việt - Bồ - La) (1651). Đây là những công 
trình tác giả xây dựng dựa trên các nghiên cứu của 
các nhà truyền giáo Bồ Đào Nha và Italia đặt chân 
đến Việt Nam trước ông, trong đó phải kể đến 
Francisco de Pina và Cristoforo Borri, đây là những 
nhà truyền giáo sử dụng tiếng Việt rất lưu loát. 
1. Sơ lược Ngữ Pháp Đắc Lộ 
Trong Dictionarium, Alexandre De Rhodes 
dành phần lớn nội dung 6 trên 8 chương) để xử lý 
vấn đề phân loại từ trong tiếng Việt. Ngoài chương 
1 (Chữ và Âm tiết trong tiếng Việt) và chương 2 
(Thanh và các dấu khác trong các nguyên âm), sáu 
chương còn lại, De Rhodes luận bàn đến những nội 
dung sau: chương 3: Danh từ, chương 4: Đại từ, 
chương 5: Các đại từ khác, chương 6: Động từ, 
chương 7: Các từ loại phi biến cách khác và chương 
8: các nguyên tắc liên quan đến cú pháp. Như vậy, 
tác giả đã phân định bảy từ loại trong tiếng Việt: 
danh từ (bao gộp cả tính từ), động từ, đại từ, giới từ, 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 171 
trạng từ, thán từ và liên từ. Dưới đây, chúng tôi 
trình bày cách thức cũng như cơ sở mà De Rhodes 
sử dụng để xác lập bảy kiểu từ loại trên của tiếng 
Việt. 
Từ loại được xác định dựa trên tiêu chí ngữ 
nghĩa và ngữ pháp tiếng latin. Tiêu chí này được 
xác lập dựa trên sự chuyển dịch tiếng Việt sang 
tiếng Latin. 
1.1. Danh từ 
Theo tác giả, tiếng Việt có những từ luôn luôn là 
danh từ như blời = coelum, đất = terra, người = 
homo Bên cạnh đó, còn những từ lưỡng khả, và 
cương vị từ loại của những đơn vị này được xác 
định bằng ngữ cảnh. Tác giả đưa ra ví dụ về từ 
“chèo”: 
a.1. Thuièn nầy có hai chèo (cymba haec habet 
duos remos) 
a.2. Tôi chèo thuièn nầy (ego remigo cymbam 
hanc) 
Từ “chèo” trong (a.1.) là danh từ, còn từ “chèo” 
trong (a.2.) là động từ. Liên quan đến các phạm trù 
ngữ pháp của danh từ như số đơn, số phức, tác giả 
cho biết muốn nói số nhiều hay số ít thì “đặt thêm 
từ ở trước hay ở sau vì trong danh từ không có biến 
cách, không có số, không có cách...”(Plurale et 
singulare ex adiunctis antecedentibus et 
consequentibus colligitur; neque enim in nominibus 
sunt ullae declinationes, vel numeri, vel casus...). 
Tuy nhiên, tác giả lại cho rằng “những phạm trù này 
có thể được lý giải bằng một sự tương đồng nào đó 
với ngôn ngữ của chúng ta” (Possunt tamen haec 
omnia ex quadam analogia ad nostras explicari 
linguas) (tr.11). 
Tác giả cho rằng để diễn đạt ý nghĩa số tiếng 
Việt sử dụng các tiểu từ có nghĩa phổ quát như coên 
(quân), các, mọi, nhềo (nhiều), muân (muôn), hết, 
hoặc sử dụng các từ chỉ về một loại hay một giống 
sinh vật nào đó không cần thêm tiểu từ mà vẫn chỉ 
số nhiều: mua gà, lợn (emere gallinas, porcos), 
hoặc hai danh từ cùng loại kết hợp với nhau cũng 
chỉ số nhiều: cây cối, hoa quả, anh em, hoặc thêm 
vào trước hay vào sau danh từ một từ khác: người: 
homo (số ít); người ta: homines (số nhiều). 
Về giống của danh từ, De Rhodes cho rằng chỉ 
có những vật hữu sinh mới có. Một số từ chỉ dùng 
để chỉ giống đực, và một số từ chỉ dùng để chỉ 
giống cái: 
- Đối với danh từ chỉ gia cầm: gà mái (mái: 
fēmĭna): gallīna; gà trống (trống: mascŭlus): gallus 
- Đối với danh từ chỉ gia súc: bò cái (cái: 
fēmĭna): vacca; bò đực (đực: mascŭlus): bōs 
Về cách, mặc dù De Rhodes đã phát biểu rằng 
danh từ tiếng Việt không có cách (casus), nhưng 
ông vẫn đưa ra một danh sách bao gồm các cách 
(dẫn theo Nguyễn Khắc Xuyên, tr.88) vốn tồn tại rất 
lâu trong ngữ pháp tiếng Pháp: 
Cách/Cāsŭs Số ít/Singŭlāris Số nhiều/Plūrālis 
Danh cách 
Nominativus 
thàng nầy 
(pŭĕr istĕ) 
những thàng nầy 
omnes pueri isti 
Thuộc cách 
Genitivus 
cha thàng nầy 
(pătĕr pueri huius) 
cha hai thàng 
pater duorum puerorum 
Tặng cách 
Dătīvus 
cho thàng nầy áo 
(do puero huic vestem) 
cho nón thàng 
do galerum tribus pueris 
Đối cách 
Accūsātīvus 
Keo (kêu thàng nầy 
(voca puerum hunc) 
dạy thàng nầy 
doceo omnes pueros 
Hô cách 
Vocativus 
ơ thàng kia 
(ò puer ille) 
ơ bốn thàng kia 
o quatuor illi pueri 
Trạng (Ly) cách 
Ablātīvus 
bởy thàng nầy 
(à puero hoc) 
bởy các thàng 
ab omnibus pueris 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 172 
Nhận xét: 
Như vậy, dễ dàng nhận ra việc miêu tả từ loại 
danh từ cùng với những phạm trù liên quan đến từ 
loại này của De Rhodes hoàn toàn dựa trên từ loại 
danh từ của tiếng Latin và hoàn toàn dựa trên nghĩa 
sở chỉ của danh từ liên quan. 
1.2. Tính từ (adiectīvum) 
Từ loại này không được tác giả khảo sát thành 
chương riêng như danh từ, đại từ hay động từ, mà 
ông chỉ khảo sát tính từ nằm trong kết hợp biểu thị 
ý nghĩa so sánh hay so sánh cực cấp. Ý nghĩa so 
sánh và so sánh cực cấp được đánh dấu bằng các 
biến cách của tính từ trong tiếng Latin (altus: cao và 
dạng so sánh: altior: cao hơn; altissimus: cao nhất 
hay rất cao). Nếu tính từ nào không có biến cách so 
sánh hay so sánh cựa cấp, trạng từ magis (hơn) 
được sử dụng (pius: sùng đạo, dạng so sánh: magis 
pius; so sánh cực cấp: maxime pius: sùng đạo nhất; 
rất sùng đạo). Tác giả sử dụng nghĩa của hệ thống 
biến cách hay các trạng từ so sánh trong tiếng Latin 
áp vào tiếng Việt để khảo sát tính từ mà không hề 
đưa ra bất kỳ định nghĩa nào: 
Hoa nầy tốt hơn hoa kia: flos hic pulcher 
magis flor illo 
Blái (Trái) này lành hơn blái nọ: fructus hic est 
magis bonus fructuristo 
(Trong tiếng Latin, từ magis chỉ dùng khi tính từ 
không có biến cách so sánh, nhưng tính từ pulcher 
có dạng so sánh là pulchrior. Không biết tại sao 
A.De Rhodes lại dùng magis.) 
Để miêu tả so sánh cực cấp trong tiếng Việt, De 
Rhodes dùng hai tiểu từ cực và rứt (rất) : cau (cao): 
altus, rứt cau: altissimus; mlớn (lớn): magnus, cực 
mlớn: maximus, v.v.. Theo tác giả “rứt” (rất) dùng 
với nghĩa tích cực, còn “cực” dùng với nghĩa tiêu 
cực, được phóng đại (tr.13): Tôi đã cực : ego iam 
perveni ad summam miseriam (tôi đã đạt đến đỉnh 
của sự cùng cực). 
Ngoài ra, theo tác giả một số trạng từ như lám 
(lắm), ráp, thay, v.v. (valde) có nghĩa là rất tốt, rất 
nhiều và bao giờ cũng đặt sau tính từ (tr.14): mlớn 
thay: magnus valde; đẹp lám: pulcher valde 
Nhận xét : 
Từ loại này trong tiếng Việt được A. De Rhodes 
miêu tả, cũng như danh từ ở phần trên, dựa trên từ 
loại tính từ tiếng Latin và vì vậy có nhiều chỗ mang 
tính áp định, không lý giải một cách tường minh. 
1.3. Đại từ 
De Rhodes nhận ra sự phức tạp của lớp từ xưng 
hô trong tiếng Việt do gắn liền với sự phân chia giai 
tầng xã hội phức tạp. Do đó, ông dành ra đến hai 
chương để nói về từ loại này. Ông phân đại từ tiếng 
Việt thành hai loại: đại từ nguyên thuỷ và các đại từ 
khác. 
1.3.1. Đại từ nguyên thuỷ (Primitivorum 
prominum) 
Cách sử dụng loại đại từ này gắn liền với địa vị 
và giai tầng xã hội. Tác giả phân loại đại từ này 
thành ba ngôn như trong tiếng Latin: 
Số Ngôi thứ nhất Ngôi thứ hai Ngôi thứ ba 
Địa vị XH cao thấp cao thấp cao thấp 
Số ít tao, ta, qua, tôi, tớ  mày, ngươi  nó 
Số nhiều min (mình) chúng + các 
từ số ít 
 bay  chúng nó 
Nhận xét: 
- Với việc sử dụng những từ mà De Rhodes 
gọi là đại từ nguyên thuỷ ngôi thứ nhất, người ta dễ 
dàng nhận thấy tác giả có một sự quan sát tinh tế về 
phương diện ngôn ngữ học xã hội và nhận biết được 
sự thay đổi của những từ này tuỳ vào địa vị xã hội 
hay quyền lực của người phát ngôn trong quan hệ 
với người nghe. 
- Riêng về những đại từ, theo thuật ngữ của 
tác giả, ngôi thứ hai, có một sự bất cân đối: những 
từ để xưng hô với người nghe có vị trí xã hội thấp 
hơn người nói được ghi nhận một cách rất rõ ràng. 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 173 
Tuy nhiên, trong việc xưng hô với người nghe có 
địa vị ngang bằng hay cao hơn của người Việt, tác 
giả nhận thấy người Việt sử dụng các danh từ chỉ 
quan hệ thân tộc, các danh từ chỉ chức tước Như 
vậy, tác giả không phân định đại từ nhân xưng và 
danh từ thân tộc hay danh từ tước vị. Hạn chế này 
không giảm nhẹ giá trị của phát kiến người Việt 
dùng từ thân tộc để xưng hô. 
- Tình hình tương tự với đại từ ngôi thứ ba. 
Ngoài “nó” và “chúng nó”, tác giả cũng rất tinh ý 
khi nhận xét rằng người Việt khi nói về người khác 
“bằng vai” với mình, họ dùng danh từ “người” với 
nghĩa “con người ấy”. Về số nhiều của đại từ ngôi 
thứ ba, De Rhodes nhận thấy cần phải áp dụng 
những quy tắc dành cho việc hình thành danh từ số 
nhiều đã nói ở trên, tức là, cần phải thêm các tiều từ 
như các, những vào trước danh từ “người ấy”: 
những người ấy 
- Điều quan trọng nhất trên bình diện ngữ học 
là tác giả không phân định đại từ nhân xưng và 
danh từ chỉ quan hệ thân tộc dùng để xưng hô, cũng 
như việc chuyển nghĩa của các từ như “tôi”, “tớ”, 
theo chúng tôi đây là những từ phái sinh từ “tôi tớ” 
trong tiếng Việt. Điều này rất quan trọng vì nó sẽ 
ảnh hưởng đến việc quan niệm tiếng Việt có đại từ 
nhân xưng về sau này. 
Ngoài ra, các đại từ nguyên thuỷ còn bao gồm 
đại từ tương hỗ (Tác giả dùng thuật ngữ “đại từ hỗ 
tương” (rĕcīprŏca), nhưng ví dụ lại là đại từ phản 
thân (theo ngôn ngữ học hiện đại) và đại từ chỉ định 
(Demonstrativa). De Rhodes cho rằng tiếng Việt 
dùng từ “mình”như trong ai néy lo sự mình hoặc lặp 
lại danh từ cho lo viẹc cha, con lo viẹc con Hoặc 
các đại từ chỉ định như nầy, nấy, éy (ấy) hay nọ, kia, 
te (tê) luôn đặt sau danh từ như đàng nọ đàng kia, 
viẹc này viẹc nọ 
Sự miêu tả các tiểu loại đại từ như vậy cho thấy 
tác giả nhoàn toàn dựa trên tiêu chí ngữ nghĩa, nói 
cách khác tác giả lấy tiếng Latin soi rọi cho việc 
miêu tả tiếng Việt. 
1.3.2. Đại từ khác 
Những đại từ khác được De Rhodes miêu tả 
trong chương V của từ điển bao gồm những từ có 
cách dùng tương ứng với tiếng Latin được tác giả 
gọi là đại từ quan hệ và những từ nghi vấn mà tác 
giả gọi là đại từ nghi vấn. Về đại từ quan hệ, De 
Rhodes cho rằng tiếng Việt không có đại từ quan hệ 
thật sự như tiếng Latin (qui, quae, quod), nhưng 
người ta có thể hiểu việc đặt danh từ ở đầu câu để 
tạo ra câu bị động được De Rhodes xem là một kiểu 
biểu thị đại từ quan hệ trong tiếng Việt: từ câu mày 
đăọc sách (tu legis librum), nếu chuyển sách ra đầu 
câu sách mày đăọc (liber a te lectus) hoặc sách mà 
mày đăọc (liber quem tu legis) được hiểu là câu bị 
động và trật tự như vậy được xem là tương đương 
với trật tự của câu có đại từ quan hệ. Người ta cũng 
dễ dàng bắt gặp quan điểm này khi đọc tác phẩm 
của Alexandre De Rhodes: ngoài việc chuyển danh 
từ ra đầu câu như trên, tác giả còn cho rằng mô hình 
Ai + VT + thì + VT trong tiếng Việt hành chức như 
câu có đại từ quan hệ trong tiếng Latin hoặc tiếng 
Pháp: Ai muấn thì làm (qui vult is faciat); Ai có 
cơm thì ăn (qui habet coctam orizam, is edat) 
hoặc dùng DT – nào – VT – thì – VT: Bò nào bèo 
thì mạnh (Bos qui est pinguis, is est fortis); Thàng 
nào lành thì deạy (puerum est bonus sive bonae 
indolis, hunc doce) 
Ngoài ra, De Rhodes cũng miêu tả đại từ nghi 
vấn trong tiếng Việt dựa trên hệ thống Latin tương 
ứng. Tác giả miêu tả đại từ nghi vấn thông qua từ 
“ai” và các ví dụ có “ai” nhưng đặt trong hệ thống 
cách của tiếng Latin. Do đó, tác giả cho rằng “ai có 
thể chia theo biến cách để hỏi” (dẫn theo NKX, 
tr.102): 
Danh cách: ai đến? quis venit ? 
Thuộc cách : áo ai ? vestis cuius ? 
Tặng cách : cho ai ? datur cui? 
Đối cách: keo (kêu) ai? Vocas quem? 
Trạng cách: đi cŭ (cùng) ai? Is cum quo? 
Tác giả còn bổ sung “về số nhiều thì có thể thêm 
tiểu từ những hay dững” (dẫn theo NKX, tr.102). 
Trong phần này, tác giả cũng đề cập đến những từ 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 174 
nghi vấn khác như nào, gì, mấy, v.v. và tất nhiên 
những từ này được miêu tả trong tương quan với đại 
từ nghi vấn tiếng Latin. 
Nhận xét: 
Việc miêu tả các đại từ trong tiếng Việt càng 
làm rõ việc tác giả chú giải cách dùng những từ mà 
tác giả gọi là đại từ trong tiếng Việt hoàn toàn dựa 
trên hệ thống cách của tiếng Latin. Tương tự như 
trên, việc miêu tả đại từ tiếng Việt được thực hiện 
qua việc chuyển dịch từ tiếng Việt sang tiếng Latin, 
qua đó tác giả xác định quan hệ tương ứng giữa 
tiếng Việt và tiếng Latin. Sự miêu tả như vậy tỏ ra 
thiếu chính xác và không đáng tin cậy: trật tự từ là 
phương tiện cú pháp chứ không phải phương tiện 
xác định từ loại như chính ví dụ về từ “ai” của tác 
giả là minh chứng cho nhận định này. 
1.4. Động từ 
Alexandre De Rhodes khi miêu tả động từ trong 
tiếng Việt không đưa ra bất kỳ định nghĩa nào về 
động từ mà ông chỉ sử dụng các khái niệm biểu thị 
các phạm trù ngữ pháp liên quan mật thiết với động 
từ tiếng Latin. 
1.4.1. Về số (nŭmĕrus), ngôi (persona) của động 
từ: tác giả cho rằng hai phạm trù ngữ pháp này của 
động từ này được xác định dựa trên các đại từ đi 
trước: 
Ngôi thứ nhất thứ hai thứ ba 
Số đơn tôi iêo: ego amo mày iêo: tu amas nó iêo: ille amat 
Số phức chúng tôi iêo: nos amamus chúng mày iêo: vos amatis chúng nó iêo: illi amant 
Tác giả còn lưu ý đến nguyên tắc danh dự đã nói 
ở phần liên quan đến đại từ nhân xưng. 
Nhận xét: Tác giả không phân biệt khái niệm 
“ngôi” với tư cách là vai giao tiếp với “ngôi với t ... bị động (Passiva propriè non dantur, tr.28). 
Người ta có thể nói việc này đã đoạn : hoc opus iam 
factum est mà không cần thêm bất kỳ tiểu từ nào 
vào. 
Nhận xét: 
- Hệ thống khái niệm dùng để miêu tả khái 
niệm các phạm trù ngữ pháp của động từ như thì, 
thức, thái là những thuật ngữ của ngữ pháp Latin 
được tác giả sử dụng để miêu tả động từ tiếng Việt. 
Sự áp định những nhãn ngữ pháp này không thích 
hợp và chỉ có một mục đích là giúp cho những 
người biết tiếng Latin hiểu rõ hơn về động từ và các 
phạm trù ngữ pháp liên quan đến nó khi phải 
chuyển dịch từ tiếng Việt sang ngôn ngữ này. Để dễ 
hình dung hơn, chúng ta có thể nói Alexandre De 
Rhodes mượn tiếng Việt để thuyết giảng về tiếng 
Latin. Bằng chứng rõ ràng nhất, thuyết phục nhất là 
việc ông miêu tả thức vị danh từ “bằng” tiếng Việt 
mà chúng tôi vừa giới thiệu ở phần trên. 
- Sự áp định nhãn ngữ pháp kiểu này cho thấy 
tác giả không phân biệt hình thức và nghĩa của ngôn 
ngữ. Tất nhiên, nói như vậy không phải để phê phán 
tác giả mà để thấy được khuynh hướng nghiên cứu 
ngữ học thời bấy giờ đều lấy ngữ pháp tiếng Latin 
làm chuẩn mực. Không riêng gì với tiếng Việt mà 
kể cả những thứ tiếng như tiếng Pháp, tiếng Anh 
- Việc miêu tả động từ tiếng Việt dựa trên tiêu 
chí ngữ nghĩa nhưng sử dụng các nhãn ngữ pháp 
của tiếng Latin, tức một thứ tiếng biến hình đặc 
trưng, đã dẫn đến những nhận định thiếu chính xác 
về động từ tiếng Việt và đặc biệt là về những phạm 
trù liên quan đến động từ. Hay nói cách khác là tác 
giả khi đề cập đến những phạm trù hay hiện tượng 
ngữ pháp nhưng không dựa trên cơ sở ngữ pháp mà 
lại dùng tiêu chí ngữ nghĩa để biện giải. 
- Mặc dù vậy, tác giả cũng có những quan sát 
rất thú vị, chẳng hạn như tác giả cho rằng động từ 
tiếng Việt không có thái bị động và không có vị tính 
từ (phân từ). Đây là nhận định hoàn toàn chính xác. 
Một phần, có lẽ tác giả không tìm thấy một hình 
thái hay một kiểu cấu trúc nào đó tương đương với 
thái bị động trong tiếng Latin nên tác giả mới đưa ra 
nhận định như vậy. 
Nhận xét chung 
- Việc lý giải chi tiết cách sử dụng từ ngữ 
tiếng Việt trong phần dẫn nhập của từ điển Việt - 
Bồ - La cho thấy A. De Rhodes đã tiếp cận rất sát 
cách sử dụng ngôn ngữ thường nhật của người Việt, 
và đặc biệt là việc sử dụng ngôn ngữ gắn với giai 
tầng xã hội được đề cập khá chi tiết (một nội dung 
được ngôn ngữ học xã hội khảo cứu trong ngôn ngữ 
học hiện đại). Điều này cho thấy tác giả am hiểu 
phong tục, tập quán của người Việt và tác giả đã áp 
dụng triệt để mô hình miêu tả của ngữ pháp định 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 177 
chuẩn (prescriptive grammar) của tiếng Latin trong 
việc miêu tả tiếng Việt. 
- Đối tượng khảo sát của tác giả có vẻ hạn 
chế, không mang tính đại diện, trong đó có lẽ phải 
kể đến các nhà truyền giáo nước ngoài có khả năng 
sử dụng tiếng Việt với mục đích hoàn thành sứ 
mệnh của mình. Điều này đã dẫn đến rất nhiều sự 
thiếu chính xác trong việc miêu tả tiếng Việt. 
- Dấu ấn tiếng Latin rất rõ trong việc A. De 
Rhodes miêu tả từ loại tiếng Việt, khiến người ta có 
cảm giác tiếng Việt rất giống tiếng Latin. Tác giả từ 
điển Việt - Bồ - La miêu tả tiếng Việt bằng cách 
đưa tất cả các từ tiếng Việt cần miêu tả vào trong 
một cái khung ngữ pháp-từ vựng định sẵn trong 
tiếng Latin. Vì lẽ đó, người ta dễ dàng bắt gặp trong 
tác phẩm này các nhãn ngữ pháp dùng cho tiếng 
Latin như cách, thì, thức, số, giống, v.v.. Thao tác 
này cũng không khiến người ta ngạc nhiên vì dưới 
sự ảnh hưởng của ngữ pháp tiếng Latin - một kiểu 
ngữ pháp mà thời bấy giờ được xem là chuẩn mực 
để miêu tả các ngôn ngữ khác, trong đó có cả các 
thứ tiếng châu Âu. 
2. Ảnh hưởng của Ngữ pháp Đắc Lộ đối với 
việc miêu tả ngữ pháp tiếng Việt 
2.1. Hệ thống khái niệm miêu tả từ loại tiếng 
Việt 
Các khái niệm được A. De Rhodes sử dụng 
miêu tả các đơn vị từ loại trong tiếng Việt có vai trò 
rất quan trọng với các nhà ngữ học sau ông vì 
những khái niệm này đã cung cấp một hệ thống 
nhãn ngữ pháp định sẵn và người ta chỉ việc gán 
những nhãn đó cho các đơn vị từ vựng có nghĩa 
tương đương với tiếng Latin hoặc tiếng Pháp về sau 
này. Sự xuất hiện của khái niệm từ loại dựa trên 
tiếng Latin trong tiếng Việt là “nguồn cảm hứng” 
cho những nhà ngữ pháp sau A. De Rhodes như 
Trương Vĩnh Ký, Trần Trọng Kim, Bùi Đức Tịnh, 
Nguyễn Lân, v.v.. Theo những nhà ngữ pháp này, 
tiếng Việt có từ loại và phạm trù này chia thành hai 
loại: từ biểu thị ý nghĩa từ vựng (thực từ) và từ biểu 
thị ý nghĩa ngữ pháp (hư từ), và trong mỗi loại có 
nhiều tiểu loại khác nhau, có ý nghĩa riêng biệt. 
Việc xác định từ loại dựa trên ngữ nghĩa đã bộc lộ 
nhiều hạn chế vì một đơn vị ngôn ngữ có thể xuất 
hiện ở hơn một vị trí cú pháp hay đảm nhận hơn 
một chức năng cú pháp (điều mà chính A. De 
Rhodes đã đề cập đến khi ông giải thích về từ 
“chèo” trong tiếng Việt). Sự bất cập này đã dẫn đến 
sự hình thành quan điểm xác định từ loại theo chức 
năng cú pháp của đơn vị từ vựng ở cấp độ ngữ đoạn 
(Lê Văn Lý, Nguyễn Tài Cẩn, và Nguyễn Phú 
Phong) và sau này là cấp độ câu (Nguyễn Tài Cẩn). 
Tuy nhiên, những tồn tại trong việc xác định từ loại 
vẫn chưa được giải quyết triệt để. Các nhà ngữ pháp 
học từ cuối thế kỷ XX đến nay có một hướng tiếp 
cận mang tính “thoả hiệp”: kết hợp hai tiêu chí nội 
dung và hình thức để xác định phân từ tiếng Việt 
thành thực từ và hư từ, sau đó, sử dụng đặc trưng cú 
pháp để phân định một đơn vị từ vựng nào đó thuộc 
loại nào. Thoạt nhìn, hướng tiếp cận này có vẻ rõ 
ràng và khách quan, nhưng sự rối rắm lại nảy sinh 
khi tiêu chí phân định một đơn vị ngôn ngữ là thực 
từ hay hư từ không nhất quán. Chẳng hạn, về “đại 
từ” có tác giả xem là danh từ, tức là thực từ 
(Nguyễn Kim Thản 1963; Lê Cận-Phan Thiều 
1983), có tác giả xem là từ loại trung gian giữa thực 
từ và hư từ (UBKHXH 1983; Đinh Văn Đức 1986; 
Lê Biên 1993, Diệp Quang Ban 1996). Gần đây, kế 
thừa hướng tiếp cận nội dung-hình thức, Nguyễn 
Hồng Cổn (TCNN số 2, 2003) đưa ra tiêu chí phân 
định từ loại dựa trên Ngữ pháp cách của Fillmore 
(1968) và Ngữ pháp chức năng (Dik 1989, Cao 
Xuân Hạo 1991, v.v.). Nội dung của tiêu chí này là 
các tham tố (tác giả gọi là đối tố) trong mệnh 
đề/phát ngôn được xác định trong quan hệ với vị từ 
trong một khung ngữ nghĩa, và về mặt hình thức 
những tham tố này được biểu thị bằng từ, ngữ hoặc 
một liên hợp. Cho ví dụ sau đây: 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 178 
 Trời đẹp 
Thành tố đối tố vị tố 
Nghĩa (Vai nghĩa) đương thể trạng thái 
Hình thức từ từ 
 Nó chưa đọc quyển sách này 
Thành tố đối tố 1 vị tố đối tố 2 
Nghĩa (Vai nghĩa) tác thể hành động đối thể 
Hình thức từ ngữ ngữ 
 Tôi đã gửi thư và ảnh cho các bạn ấy 
Thành tố đối tố 1 vị tố đối tố 2 đối tố 3 
Vai nghĩa tác thể hành động đối thể nhận thể 
Hình thức từ ngữ liên hợp (giới) ngữ 
Qua ba ví dụ trên, ta thấy sự phân định trở nên 
phức tạp hơn, song hiệu lực của nó vẫn chưa rõ 
ràng. Ở đây, ta thấy có sự trộn lẫn các đơn vị thuộc 
bình diện ngôn ngữ với tư cách là hệ thống và bình 
diện ngôn ngữ với tư cách là lời nói vì nếu xét ở 
phương diện câu, các thành tố cấu tạo câu phải là 
ngữ đoạn chứ không phải là từ. Một ngữ đoạn được 
định nghĩa bằng chức năng cú pháp của nó mà 
không cần quan tâm đến cấu trúc nội tại của nó. 
Như vậy, việc xác định X thuộc từ loại nào vẫn 
là một vấn đề chưa có lời đáp thoả đáng. Theo 
chúng tôi, sự bế tắc còn đó là do vẫn áp dụng bộ 
máy khái niệm của các ngôn ngữ biến hình để miêu 
tả các đơn vị của ngôn ngữ phi hình thái như tiếng 
Việt. Vẫn còn đó những bất đồng về từ loại : tiếng 
Việt có đại từ nhân xưng hay không? Từ loại trạng 
từ không tồn tại trong tiếng Việt, và chức năng của 
nó do tình từ đảm nhận. Vậy, phải giải thích thế nào 
về phương diện ngôn ngữ học đại cương khi cho 
rằng tính từ bổ nghĩa cho động từ? 
2.2. Hệ thống khái niệm biểu thị các chức 
năng ngữ pháp 
Như một hệ luỵ của khái niệm chủ-vị, hệ thống 
khái niệm biểu thị các phạm trù ngữ pháp của động 
từ trong tiếng Latin được A. De Rhodes sử dụng 
miêu tả những hiện tượng tương ứng về mặt ngữ 
nghĩa với những hình thái động từ trong tiếng Latin. 
Ông nhận thấy ngay sự khác biệt giữa động từ tiếng 
Việt và đơn vị tương ứng trong tiếng Latin, song vì 
mục đích miêu tả hệ thống ngữ pháp là dành cho 
người nước ngoài mà có thể chủ yếu là các nhà 
truyền giáo hay các nhà thám hiểm nên việc miêu 
tả nghĩa của câu tiếng Việt, hay cụ thể hơn là nghĩa 
của động từ bằng các công cụ ngữ pháp tiếng Latin 
là chuyện không tránh khỏi. 
Tuy nhiên, các khái niệm ngữ pháp sử dụng 
miêu tả tiếng Việt như vậy để lại nhiều hệ lụy về 
sau. Những hệ lụy này càng nặng nề với sự ảnh 
hưởng của tiếng Pháp, một mô hình tiếng Latin điển 
hình. Những hệ lụy đó là sự bất đồng có thể không 
bao giờ két thúc trong giới Việt ngữ. Người ta có 
thể nói đến những bất đồng ấy qua những nội dung 
sau: 
- Tiếng Việt là thứ tiếng “hữu thể vô thì” hay có 
“thì”? 
- Thái bị động có hay không có trong tiếng Việt? 
- Ngôi, thức có tồn tại hay không? 
- Từ đó, đại từ nhân xưng của tiếng Việt có hay 
không có? 
- Danh từ tiếng Việt có số đơn, số phức hay 
không? 
TAÏP CHÍ PHAÙT TRIEÅN KH&CN, TAÄP 18, SOÁ X5-2015 
 Trang 179 
- Đơn vị bổ nghĩa cho động từ gọi là trạng từ hay 
tính từ? 
Hệ lụy quan trọng nhất là sự nhập nhằng giữa 
nội dung và hình thức, giữa nghĩa từ vựng và nghĩa 
ngữ pháp của một đơn vị ngôn ngữ. Điều này khiến 
việc tìm kiếm một cách thức miêu tả ngữ pháp tiếng 
Việt hoàn toàn dựa trên loại hình của tiếng Việt, 
chứ không thể áp định những đặc trưng được cho là 
“phổ quát” vào việc miêu tả. Không ai có thể bác bỏ 
tính phổ quát của một số phạm trù ngôn ngữ, chẳng 
hạn như phạm trù danh từ và phạm trù động từ. Tuy 
nhiên, cần phải đứng trên “mảnh đất tiếng Việt” để 
miêu tả tiếng Việt mới có thể có một hệ thống ngữ 
pháp phù hợp với tiếng Việt. 
Kết luận 
Tác giả quyển từ điển Việt - Bồ - La có những 
đóng góp đáng trân trọng nỗ lực hệ thống hoá một 
ngôn ngữ vẫn còn quá xa lạ với học giả phương 
Tây. Sự tiên phong của ông đã cung cấp một hệ 
thống khái niệm ngôn ngữ giúp việc miêu tả Việt 
ngữ thuận lợi hơn. 
Bên cạnh những đóng góp này, và như đã nói ở 
trên, nỗ lực lý giải ngữ pháp tiếng Việt của ông chỉ 
nhằm mục đích “phổ cập” ngôn ngữ này cho các 
nhà truyền giáo khác hoặc những người phương 
Tây đặt chân đến Việt Nam sau đó, đã sử dụng như 
một “định đề” cho những miêu tả sau này, khiến 
ngữ pháp tiếng Việt được giải thích dưới nhiều góc 
độ khác nhau, thậm chí là mâu thuẫn nhau. 
The Vietnamese grammar by A. De Rhodes 
(1651) and its impacts on the description 
of modern Vietnamese grammar 
 Nguyen Hoang Trung 
University of Social Sciences and Humanities, VNU-HCM 
ABSTRACT: 
Dictionarium annamiticum, lusitanum et 
latinum composed by A. De Rhodes was 
published in Roma in 1651. This work was a 
collection of several researches on the 
Vietnamese language carried out by Portugal 
missionaries who spoke Vietnamese well. 
Among them, Francisco De Pina and Cristoforo 
Bori were the first teachers of Vietnamese to 
foreign missionaries in Vietnam. In this work, 
A. De Rohdes reserved six of eight chapters to 
talk about the definition of parts of speech in 
Vietnamese. He described the Vietnamese 
parts of speech on the basis of Latin grammar. 
It’s this Latin grammar-based description which 
resulted in later opposing points of view on 
grammatical categories in Vietnamese some of 
whose issues are still strongly engraved in the 
heart of linguistic discussions. 
Keywords: A. De Rhodes’ Vietnamese grammar, prescriptive grammar, parts of speech 
SCIENCE & TECHNOLOGY DEVELOPMENT, Vol 18, No.X5-2015 
Trang 180 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. A. De Rhodes (1651). “Linguae annamiticae seu 
Tunchinensis brevis Declaratio”, in Dictionarium 
annnamiticum [sic pour annamiticum] lusitanum et 
latinum, ope Sacrae congregationis de propaganda 
fide in lucem editum ab Alexandro de Rhodes..., 
Romae, typis et sumptibus ejusd. Sacr. Congreg. 
[2]. Bernard, D. Colombat (1998-2000). Corpus 
représentatif des grammaires et des traditions 
linguistiques, Histoire épistémologie langage, hors-
série 2 & 3, Paris. 
[3]. Bùi Đức Tịnh (1952). Văn phạm Việt Nam. P. Văn 
Tươi, Sài Gòn. 
[4]. Cao Xuân Hạo (2004). Tiếng việt – sơ thảo ngữ 
pháp chức năng. Nxb Giáo Dục, Tp.HCM. 
[5]. Charles, J. Fillmore (1968). “The Case for Case". 
Trong Bach and Harms (Ed.): Universals in 
Linguistic Theory. New York: Holt, Rinehart, and 
Winston, tr. 1-88. 
[6]. Charles. N. Li & Sandra. A. Thompson (1976) 
Subject and topic. New York: Academic Press. 
[7]. Diệp Quang Ban (1996). Ngữ pháp tiếng Việt. NXB 
Giáo dục, Hà Nội. 
[8]. Đinh Văn Đức (2001). Ngữ pháp tiếng Việt - Từ 
loại’, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà 
Nội. 
[9]. Édouard, Diguet (1892). Éléments de la grammaire 
annamite, Imprimerie Nationale, Paris. 
[10]. Gabriel, Aubaret (1867). Grammaire annamite, 
suivie d'un vocabulaire françaisannamite et 
annamite-français, Imprimerie Impériale, Paris. 
[11]. Léopold Cadière (1958). Syntaxe de la langue 
viêtnamienne, Publications de l'école française 
d'extrême-orient, Paris. 
[12]. Lê Biên (1995), Từ loại tiếng Việt hiện đại, 
ĐHQGHN, Hà Nội. 
[13]. Lê Cận, Phan Thiều (1983). Giáo trình ngữ pháp 
tiếng Việt (tập1). Nxb. Giáo Dục, Hà Nội. 
[14]. Lê Văn Lý (1948). Le Parler vietnamien: essai 
d'une grammaire vietnamienne. Paris, Huong Anh. 
[15]. Lê Văn Lý (1972). Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, 
Trung tâm học liệu, Bộ giáo dục, Sài Gòn. 
[16]. Maurice Grammont & Lê Quang Trinh (1912). « 
Étude sur la langue annamite », Mémoires de la 
Société de Linguistique de Paris, t. 17, 201-241 et 
295-310, Librairie, Paris. 
[17]. Murray, B. Emeneau (1951). Studies in Vietnamese 
(Annamese) grammar. Barkeley and Los Angeles. 
[18]. Nguyễn Tài Cẩn (1975). Ngữ pháp tiếng Việt: 
Tiếng. Từ ghép. Đoản ngữ, Nxb Đại học và Trung 
học Chuyên nghiệp, Hà Nội. 
[19]. Nguyễn Tài Cẩn (1987). Ngữ pháp tiếng Việt, 
tiếng, từ ghép, đoản ngữ, NXB. Ðại học và Trung 
học chuyên nghiệp, Hà Nội. 
[20]. Nguyễn Phú Phong (1976). Le syntagme verbal en 
vietnamien, Paris-La Haye, Mouton. 
[21]. Nguyễn Kim Thản (1964). Ngữ pháp tiếng Việt, tập 
I. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[22]. Simon. M. Dik (1989). The Theory of Functional 
Grammar, Part 1: The Structure of the Clause. 
Dordrecht, Foris. 
[23]. Talmy Givón (1979). On Understanding Grammar. 
Academic Press New York. 
[24]. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940). 
Grammaire Annamite, Nxb Lê-thang, Hà Nội. 
[25]. Trương, Jean baptiste Pétrus Vĩnh Ký (1867). 
Abrégé de la Grammaire Annamite, Imprimerie 
Impériale, Sàigon. 
[26]. Trương, Jean baptiste Pétrus Vĩnh Ký (1883). 
Grammaire de la langue annamite, Guillaud et 
Martinon, Saigon. 
[27]. Uỷ ban khoa học xã hội Việt Nam (1983). Ngữ 
pháp tiếng Việt, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội. 
[28]. Victor Barbier (1924 /1925). Grammaire Hnnamite, 
imprimerie d'extrême-orient, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfngu_phap_tieng_viet_cua_dac_lo_1651_va_nhung_anh_huong_cua_n.pdf