Phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên qua hoạt động tự định hướng học tập

TÓM TẮT

Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức trong thế kỉ XXI đòi hỏi nền giáo

dục phải đổi mới nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp

dạy học ở bậc đại học phải hướng tới những phương pháp dạy học nâng cao tính tích cực,

chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập nhằm đào tạo ra những con

người năng động, độc lập trong xã hội. Tự định hướng học tập là một phương pháp dạy

học theo quan điểm hướng vào người học, tạo cho sinh viên những phẩm chất như tích

cực, chủ động, độc lập, tự tin và có định hướng mục tiêu. Hoạt động tự định hướng học tập

cũng đòi hỏi ở giảng viên năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức, quản lí để có thể hướng

dẫn sinh viên học tập đạt mục tiêu giáo dục.

pdf 8 trang yennguyen 3320
Bạn đang xem tài liệu "Phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên qua hoạt động tự định hướng học tập", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên qua hoạt động tự định hướng học tập

Phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên qua hoạt động tự định hướng học tập
TAÏP CHÍ ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 6 - Thaùng 6/2011 
 99 
PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, CHỦ ĐỘNG CỦA SINH VIÊN 
QUA HOẠT ĐỘNG TỰ ĐỊNH HƯỚNG HỌC TẬP 
NGUYỄN THỊ CẨM VÂN 
(*)
TÓM TẮT 
Sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế tri thức trong thế kỉ XXI đòi hỏi nền giáo 
dục phải đổi mới nội dung dạy học và phương pháp dạy học. Việc đổi mới phương pháp 
dạy học ở bậc đại học phải hướng tới những phương pháp dạy học nâng cao tính tích cực, 
chủ động, sáng tạo của sinh viên trong quá trình học tập nhằm đào tạo ra những con 
người năng động, độc lập trong xã hội. Tự định hướng học tập là một phương pháp dạy 
học theo quan điểm hướng vào người học, tạo cho sinh viên những phẩm chất như tích 
cực, chủ động, độc lập, tự tin và có định hướng mục tiêu. Hoạt động tự định hướng học tập 
cũng đòi hỏi ở giảng viên năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức, quản lí để có thể hướng 
dẫn sinh viên học tập đạt mục tiêu giáo dục. 
ABSTRACT 
The fast development of the intellectual economy in the 21st century requires the 
education to reform its teaching methods and contents. The teaching reform at university 
should aim at the teaching methods which enhance students’ positiveness, activeness, and 
creativity in the process of studying for the purpose of training people who are self-
motivated and independent for the society. Self-oriented study is a teaching method that 
focuses on leaners who need qualities such as positives, activeness, independence, self-
confidence with oriented targets. Self-oriented study requires teachers to have professional 
ability, organizational skills, management so as to guide students to achieve educational 
objectives. 
1. MỞ ĐẦU (*) 
Cùng với xu thế hội nhập, toàn cầu 
hoá, sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ 
thông tin, sự gia tăng gấp bội của tri thức 
đòi hỏi giáo dục đào tạo phải đổi mới nội 
dung dạy học và phương pháp dạy học để 
đào tạo những con người có đủ năng lực và 
phẩm chất đáp ứng nhu cầu của thực tiễn. 
Đại hội Đảng toàn quốc lần X đã nêu rõ: 
“Đổi mới tư duy giáo dục một cách nhất 
quán, từ mục tiêu, chương trình, nội dung, 
phương pháp đến cơ cấu và hệ thống tổ 
chức, cơ chế quản lí để tạo được chuyển 
biến cơ bản và toàn diện của nền giáo dục 
( )
 ThS, Trường Đại học Sài Gòn. 
nước nhà, tiếp cận với trình độ giáo dục 
của khu vực và thế giới.... Ưu tiên hàng 
đầu cho việc nâng cao chất lượng dạy và 
học, đổi mới phương pháp dạy và học”(1). 
Bản chất của việc đổi mới phương 
pháp dạy học là chuyển từ các phương 
pháp truyền thụ thông tin một chiều sang 
các phương pháp dạy học tích cực: tổ chức, 
điều khiển để người học tự mình tìm tòi, 
phát hiện và chiếm lĩnh tri thức thông qua 
những hành động và thao tác của họ. Quá 
trình đó diễn ra theo xu hướng tích cực hoá 
hoạt động nhận thức, gia tăng tính tích cực, 
chủ động, sáng tạo của người học. Các 
phương pháp dạy học tích cực định hướng 
cho việc tổ chức quá trình tự học, quá trình 
 100 
cá nhân hoá và xã hội hoá việc học. Thế 
nào là phương pháp dạy học tích cực? 
2. NỘI DUNG 
2.1. Đặc trưng của phương pháp dạy 
học tích cực 
Các phương pháp dạy học tích cực 
theo quan điểm dạy học định hướng từ 
người học phải thể hiện các đặc trưng cơ 
bản sau: 
- Dạy học thông qua việc tổ chức các 
hoạt động học tập: 
Người học không phải được đặt trước 
những kiến thức có sẵn trong sách giáo 
khoa hay trong bài giảng của thầy mà được 
đặt vào những tình huống của đời sống 
thực tế, từ đó có nhu cầu hứng thú giải 
quyết những mâu thuẫn trong nhận thức 
của mình, tìm ra cái chưa biết, cái cần 
khám phá. Người học trực tiếp quan sát, 
thảo luận, làm thí nghiệm, đặt giả thiết, đặt 
vấn đề để tìm ra kiến thức, chân lí. 
- Dạy học chú trọng rèn luyện 
phương pháp tự học: 
Sự phát triển nhanh chóng của khoa 
học kĩ thuật và công nghệ trong xã hội hiện 
đại dẫn đến sự tăng nhanh của tri thức. Mặt 
khác, nó cũng ngày càng dễ bị lạc hậu vì tri 
thức mới có thể phủ nhận tri thức cũ. Điều 
này đòi hỏi ở người lao động năng lực tự 
học, năng lực làm việc độc lập, năng lực 
sáng tạo, giải quyết các vấn đề phức hợp và 
năng lực hợp tác làm việc để thích nghi 
được với sự thay đổi của công nghệ sản 
xuất, của tri thức và của kĩ năng làm việc. 
Các phương pháp dạy học tích cực chú 
trọng đến việc rèn luyện phương pháp tự 
học hơn là việc tiếp thu tri thức một chiều. 
- Tăng cường việc học tập cá thể, kết 
hợp với học tập hợp tác nhóm: 
Người học, chủ thể của hoạt động học, 
tự học, tự nghiên cứu, tìm ra kiến thức bằng 
hành động của chính mình, tức là cá nhân 
hoá việc học. Tất nhiên tri thức mà người 
học tự mình tìm ra dễ mang tính chủ quan, 
phiến diện, thiếu khoa học. Mặt khác, trong 
học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, 
thái độ đều được hình thành bằng những 
hoạt động cá nhân mà còn thông qua quá 
trình hoạt động phối hợp giữa các cá nhân, 
giữa người học và giảng viên. 
- Kết hợp sự đánh giá của thầy và sự 
tự đánh giá của trò: 
Việc đánh giá không chỉ nhằm mục 
đích nhận định thực trạng việc học tập và 
điều chỉnh hoạt động của trò mà còn tạo 
điều kiện nhận định thực trạng việc giảng 
dạy và điều chỉnh hoạt động của thầy. 
Giảng viên hướng dẫn cho học sinh phát 
triển kĩ năng tự đánh giá để tự điều chỉnh 
cách học của mình.(2) 
2.2. Về phương pháp dạy học tự định 
hướng học tập 
 Khái niệm 
Thuật ngữ “Tự định hướng học tập” 
hay “Học tập tự định hướng” (tiếng Anh: 
self-direct learning) được dùng để phân 
biệt với học tập theo sự định hướng của 
giảng viên (tiếng Anh: teacher direct 
learning) là một hình thức dạy học hay một 
phương pháp dạy học trong đó người học 
tự xác định mục tiêu học tập để vạch ra kế 
hoạch học tập, nghiên cứu. 
Phương pháp này được xem như bắt 
đầu hình thành từ nửa sau của thế kỉ XX. 
Houle nghiên cứu động cơ học tập của 
những người trưởng thành (1961), Allen 
Tough công bố những dự án học tập dành 
cho người lớn (1971), Knowles xuất bản 
tác phẩm Học tập tự định hướng (1975). 
Những công trình trên đã góp phần xây 
dựng cơ sở lí luận cho Học tập tự định 
hướng. Cho đến nay, sự phát triển của 
nhiều ý tưởng mới đã làm xuất hiện nhiều 
khuynh hướng về học tập tự định hướng. 
 101 
Ví dụ: học tập tự vạch kế hoạch, học tập tự 
chủ, học tập mở, học tập từ xa v.v 
- Học tập tự vạch kế hoạch hay học 
tập theo dự án: người học được giảng viên 
giao nhiệm vụ để thực hiện. Dựa vào các 
điều kiện cho trước và mục tiêu của dự án, 
người học tự vạch ra kế hoạch để thực hiện 
nhằm đạt được mục tiêu. 
- Tự học (học tập tự chủ): thường kết 
hợp với tư duy độc lập. Người học tự 
nghiên cứu vấn đề, tự thể hiện và tự điều 
chỉnh. Tự học hay học tập tự chủ được xem 
xét ở khía cạnh hình thức hoạt động giúp 
cho người học có điều kiện tự nghiền ngẫm 
các vấn đề trong nội dung học tập theo một 
cách riêng và với tốc độ thích hợp. 
- Học tập mở, học tập từ xa: quá 
trình học tập, sự nghiên cứu cá nhân được 
diễn ra bên ngoài lớp học chính thức. 
Những chương trình học tập từ xa đầu tiên 
được biết đến rộng rãi nhất là chương trình 
của Đại học mở Anh quốc vào năm 1969. 
Hiện nay, hình thức học tập này đã lan 
rộng trên khắp thế giới với sự hỗ trợ mạnh 
mẽ của các phương tiện viễn thông, công 
nghệ thông tin. 
Tuy nhiên, khái niệm Học tập tự định 
hướng có sự khác biệt với những khái 
niệm trên. Theo tác giả Maurice Gibbons, 
“Học tập tự định hướng là sự gia tăng 
kiến thức, kĩ năng, thành quả hoặc sự phát 
triển cá nhân mà cá nhân đó lựa chọn và 
thu nhận được bằng bất kì phương pháp 
nào, trong bất kì trường hợp nào, vào bất 
kì thời gian nào từ chính sự nỗ lực của cá 
nhân đó”(3). Còn Malcolm Knowles mô tả 
một cách khái quát: “Học tập tự định 
hướng là một quá trình trong đó cá nhân 
chủ động, có hoặc không có sự trợ giúp 
của các cá nhân khác; xác định nhu cầu 
học tập của mình; xây dựng mục tiêu học 
tập; xác định các nguồn tài nguyên học 
tập; lựa chọn, thực hiện chiến lược học 
tập và đánh giá kết quả học tập”(4). Các 
tác giả khác cũng cho rằng hoạt động học 
tập tự định hướng là quá trình học tập tự 
chủ và độc lập của người học. 
Trong quá trình học tập tự định hướng, 
người học và giảng viên sẽ cùng thảo luận 
với nhau để đưa ra quyết định nên học cái 
gì và có kế hoạch hoạt động như thế nào 
cho phù hợp với mục tiêu trước mắt, mục 
tiêu lâu dài. Mục đích của giảng viên là 
đáp ứng nhu cầu của người học hơn là dạy 
một khối lượng kiến thức và kĩ năng có 
được. Phương pháp này rất thích hợp để 
phát triển các kĩ năng học tập của con 
người như: viết bài luận, kĩ năng làm việc 
sáng tạo, kĩ năng nghiên cứu. 
 Phân biệt giữa học tập tự định hướng 
và học tập theo định hướng của giảng viên 
Giữa Học tập tự định hướng và Học 
tập theo sự định hướng của giảng viên có 
những điểm khác nhau cơ bản như sau: 
 Học theo định hướng của 
giảng viên 
Học tập tự định hướng 
Chủ thể 
của quá 
trình học 
tập 
Người học phụ thuộc vào 
giảng viên về những nội dung và 
phương pháp dạy – học. 
Người học được phát triển năng 
lực chủ động, tự định hướng hoạt 
động học tập. 
Tài nguyên 
học tập 
Quan niệm rằng kinh nghiệm 
của người học ít giá trị hơn kinh 
nghiệm của giảng viên, của sách 
Quan niệm rằng kinh nghiệm 
của người học trở thành nguồn tài 
nguyên ngày càng phong phú cho 
 102 
giáo khoa và những người viết 
sách. Do đó, giảng viên phải 
truyền dạy những nguồn tài 
nguyên này cho học sinh. 
học tập, cần được khai thác cùng với 
các nguồn tài nguyên từ kinh 
nghiệm của giảng viên và các 
chuyên gia. 
Nội dung 
học tập 
Người học tham gia vào quá 
trình giáo dục theo định hướng 
đối tượng để học tập. Do đó, các 
nội dung học tập được tổ chức 
thành từng đơn vị nội dung. 
Định hướng tự nhiên của người 
học là các nhiệm vụ hay vấn đề. Do 
đó, kinh nghiệm học tập được tổ 
chức như những công việc hoặc 
những dự án học tập. 
Động cơ 
học tập 
Động lực học tập của người 
học nhằm đáp ứng các mục tiêu 
bên ngoài như các lớp, các văn 
bằng, các giải thưởng, hoặc từ 
tâm lí sợ thất bại. 
Động lực học tập của người học 
là những mục tiêu nội tại như: mong 
muốn phát triển, mong muốn hiểu 
biết về một vấn đề, tâm lí tò 
mò.v.v 
 Quy trình 
Quá trình học tập tự định hướng diễn 
ra qua các giai đoạn cơ bản như sau: 
- Tự đánh giá: tự đánh giá kĩ năng 
kiến thức, giá trị của người học (xác định 
đầu vào). Quá trình tự đánh giá yêu cầu 
người học phải chấp nhận những điểm mạnh 
và điểm yếu của họ một cách trung thực. 
- Thiết lập mục tiêu: xem xét nguyện 
vọng và thiết lập mục tiêu hay mục đích 
phấn đấu. Thiết lập mục tiêu cũng đồng 
thời thiết lập các tiêu chí đánh giá sản 
phẩm học tập. Đây là giai đoạn quan trọng 
trong học tập tự định hướng. 
- Lập kế hoạch học tập: người học 
vạch ra kế hoạch học tập để đạt những mục 
tiêu gần và mục tiêu xa. Kế hoạch học tập 
cũng bao gồm những yếu tố như phương 
pháp thực hiện, hình thức thực hiện, thời 
gian thực hiện, nguồn tài liệu và công cụ 
học tập, v.v... 
- Thực hiện: thực hiện theo kế hoạch 
đã đề ra. Giai đoạn này yêu cầu người học 
phải chịu trách nhiệm tự giác thực hiện 
 103 
theo kế hoạch đã đề ra nhằm phát triển 
bản thân. 
- Đánh giá kết quả: tự đánh giá 
những thành quả đạt được và so sánh với 
giá trị ban đầu (đánh giá đầu ra). 
2.3. Phát huy tính chủ động tích cực 
của sinh viên qua hoạt động tự định 
hướng học tập 
Có thể thấy hoạt động tự định hướng 
học tập không những thể hiện được những 
đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học 
tích cực mà còn yêu cầu tính chủ động của 
người học phải được thể hiện cao hơn so 
với các phương pháp dạy học tích cực theo 
định hướng của giảng viên. 
Phương thức đào tạo theo hệ thống tín 
chỉ hiện nay ở một số trường đại học đã 
làm cho mỗi sinh viên có thêm nhiều cơ 
hội lựa chọn những điều kiện khác nhau 
khi bắt đầu học tập một học phần. Sự lựa 
chọn đó cho thấy sự khác nhau về kinh 
nghiệm, năng lực, nguyện vọng học tập của 
mỗi sinh viên. Vì thế, hoạt động đào tạo 
của nhà trường nói chung và hoạt động 
giảng dạy của giảng viên nói riêng cần dựa 
trên cơ sở quá trình nhận thức của từng cá 
nhân, diễn ra theo hướng cá thể hoá. Sử 
dụng phương pháp tự định hướng học tập 
thì sinh viên được chủ động chọn hoạt 
động học phù hợp với mình về nội dung 
học tập, hình thức học tập, thời gian và 
phương pháp học tập. 
Giảng viên là người phối hợp cùng 
sinh viên để tìm ra lí do học tập, tìm ra 
nguyện vọng và phương pháp học mà sinh 
viên mong muốn. Như vậy, quá trình học 
tập tự định hướng mang lại cho sinh viên 
những phẩm chất như: năng động, độc lập, 
sáng tạo, tự giác, tự tin và có định hướng 
mục tiêu. Bước đầu có thể vận dụng 
phương pháp tự định hướng học tập vào 
quá trình dạy học tại trường đại học thông 
qua những hoạt động như sau: 
 Chọn chương trình học tập: một 
trong những ưu điểm của hình thức tổ chức 
dạy học theo hệ thống tín chỉ chính là tạo 
điều kiện cho sinh viên chủ động cho kế 
hoạch học tập của mình khi lựa chọn các 
học phần để đăng kí học tập. Thông thường 
ở học kì đầu tiên, các sinh viên đều học tập 
trung theo những môn học do nhà trường 
sắp xếp do chưa có sự ổn định sau khi 
tuyển sinh cũng như do các sinh viên chưa 
quen với phong cách học tập tại trường đại 
học. Với sự giúp đỡ của các cố vấn học 
tập, sinh viên sẽ xác định nhu cầu cụ thể 
của bản thân, vạch ra kế hoạch học tập phù 
hợp với điều kiện và hoàn cảnh của bản 
thân để lựa chọn đăng kí học những học 
phần kế tiếp trong chương trình đào tạo. 
 Thực hiện chuyên đề trong từng 
môn học: trong quá trình dạy học, giảng 
viên sẽ tuỳ theo điều kiện thực tế về thời 
gian, kế hoạch giảng dạy học phần để tổ 
chức học tập tự định hướng. Có thể cho 
sinh viên xác định nhu cầu hiểu biết về một 
vấn đề nào đó của một chương, một phần 
trong nội dung môn học. Sau đó, giảng 
viên và sinh viên cùng thống nhất về kế 
hoạch thực hiện, cách thức thực hiện, cũng 
như về việc đánh giá kết quả thực hiện 
chuyên đề. 
 Thực hiện dự án học tập của môn 
học: hoạt động này có thể tiến hành vào 
thời gian sau khi học một phần nội dung 
của môn học hoặc toàn bộ nội dung môn 
học. Sau khi học những nội dung cơ bản, 
những kiến thức cơ sở trong nội dung môn 
học, giảng viên có thể yêu cầu sinh viên 
xác định nhu cầu học tập những nội dung 
tiếp theo của môn học, giúp sinh viên xác 
định mục tiêu học tập tiếp theo để đề xuất 
các dự án học tập. Do số lượng sinh viên 
thường rất đông nên giảng viên có thể lập 
 104 
thành nhóm những sinh viên có nhu cầu 
học tập giống nhau để thực hiện chung một 
dự án. Việc này cũng giúp sinh viên được 
rèn luyện năng lực làm việc hợp tác nhóm. 
 Thực hiện các đề tài nghiên cứu 
khoa học: hoạt động nghiên cứu khoa học 
là hoạt động thường xuyên của sinh viên 
trong quá trình học tập. Giảng viên có thể 
tổ chức cho sinh viên chọn những vấn đề 
mà mình mong muốn được hiểu biết và 
phù hợp với điều kiện của cá nhân: về năng 
lực, thời gian, nguồn tài nguyên, điều kiện 
thực hiện.và đề xuất với giảng viên để 
tiến hành thực hiện. Sinh viên tự đánh giá 
bản thân về các yếu tố: kiến thức, kĩ năng, 
thái độ, từ đó xác định mục tiêu cho đề tài 
nghiên cứu. Có thể lựa chọn những đề tài 
nghiên cứu đáp ứng các mục tiêu sau: 
+ Kiến thức: có thể là kiến thức về lĩnh 
vực chuyên môn hoặc kiến thức khoa học 
xã hội. 
+ Kĩ năng: kĩ năng chuyên sâu hoặc kĩ 
năng tổng hợp; kĩ năng chuyên môn hay kĩ 
năng xã hội. 
+ Thái độ: tích cực, tự giác, tự tin 
Đặc biệt là hoạt động tự định hướng 
học tập rất phù hợp với việc giảng dạy các 
môn kĩ thuật, các học phần thực hành tạo 
sản phẩm. 
2.3.1. Ví dụ học phần Thực hành thiết 
kế thời trang (học phần thực hành): đây là 
học phần được giảng dạy sau khi sinh viên 
đã học qua các nội dung: Cắt may cơ bản, 
Trang phục nữ, Trang phục nam. Giảng 
viên có thể tổ chức quá trình học tập qua 
các giai đoạn như sau: 
- Nêu mục đích của môn học: giúp 
sinh viên biết được các giai đoạn thiết kế 
một bộ sưu tập thời trang và củng cố, bổ 
sung những kiến thức về xây dựng bản vẽ 
cắt may và kĩ thuật cắt may những trang 
phục cho các đối tượng. 
- Sinh viên xác định mục tiêu học tập 
của mình: để rèn luyện thêm về kĩ thuật cắt 
may, để học những kĩ thuật cắt may chưa 
được biết trong chương trình học, hoặc để 
biết kĩ thuật thiết kế trang phục phù hợp. Ở 
giai đoạn này, sinh viên phải đánh giá một 
cách trung thực khả năng của mình để có 
thể định hướng đúng cho việc học tập. 
- Sinh viên tự lựa chọn những chủ đề 
phù hợp với mục tiêu mà mình mong muốn 
hướng tới và đề xuất với giảng viên. Sinh 
viên và giảng viên cùng thống nhất về chủ 
đề, phương pháp học tập, tiêu chí đánh giá 
kết quả của việc học tập. 
- Sau đó tiến hành những bước tiếp 
theo như: lập kế hoạch thực hiện, tiến hành 
thực hiện đề tài và đánh giá sản phẩm. 
2.3.2. Ví dụ học phần Văn hoá ẩm 
thực Việt Nam (học phần lí thuyết): đây là 
học phần được giảng dạy ở học kì đầu tiên 
trong chương trình đào tạo giảng viên 
Công nghệ - Kinh tế gia đình. Sau khi đã 
giảng dạy phần đại cương về những yếu tố 
ảnh hưởng đến văn hoá ẩm thực Việt nam 
cũng như những đặc điểm chung về văn 
hoá ẩm thực Việt Nam, giảng viên có thể 
tổ chức quá trình học tập nội dung tiếp theo 
qua các giai đoạn sau: 
- Nêu mục đích của học phần: giảng 
viên giúp sinh viên hiểu được những ảnh 
hưởng của điều kiện văn hoá, lịch sử, tự 
nhiên tác động đến văn hoá ẩm thực của 
các vùng miền, bổ sung những kiến thức về 
bản sắc văn hoá ẩm thực của vùng miền thể 
hiện qua các món ăn. 
- Sinh viên xác định mục tiêu học tập 
của mình: sinh viên tự xác định nhu cầu 
của bản thân đối với học phần này: để hiểu 
biết về một món ăn cụ thể của dân tộc (ví 
dụ: món bún, món phở, món xôi); để 
hiểu biết về nét đặc trưng văn hoá ẩm thực 
của một địa phương cụ thể; hoặc để có thể 
 105 
so sánh những điểm khác nhau về văn hoá 
ẩm thực của các địa phương. Sinh viên 
phải đánh giá trung thực năng lực của bản 
thân, những kiến thức cơ bản đã có để có 
thể định hướng cho việc lựa chọn những 
chủ đề ở giai đoạn tiếp theo. 
- Sinh viên tự lựa chọn những chủ đề 
phù hợp với mục tiêu mà mình mong muốn 
hướng tới và đề xuất với giảng viên. 
Những chủ đề có thể lựa chọn là: tìm hiểu 
về một món ăn hay một thức uống cụ thể 
của Việt Nam thông qua đó hiểu thêm về 
văn hoá ẩm thực của Việt Nam, hoặc tìm 
hiểu về văn hoá ẩm thực của một địa 
phương để biết về bản sắc văn hoá của địa 
phương đó. Sinh viên và giảng viên cùng 
thống nhất về chủ đề, phương pháp thực 
hiện (theo cá nhân hay theo nhóm), tiêu chí 
đánh giá kết quả của đề tài nghiên cứu. 
- Sau đó tiến hành những bước tiếp 
theo như: lập kế hoạch thực hiện, phân chia 
công việc cho các cá nhân trong nhóm (nếu 
là đề tài thực hiện theo nhóm), thực hiện đề 
tài và đánh giá kết quả. 
3. KẾT LUẬN 
Phương pháp học tập tự định hướng 
đòi hỏi người học phải năng động, tự giác 
trong việc học tập của mình, đồng thời 
phương pháp này cũng đòi hỏi ở giảng viên 
năng lực chuyên môn cao để có thể giảng 
dạy theo nhu cầu của người học. Giảng 
viên cũng phải là người có năng lực tổ 
chức, quản lí khi việc học tập của sinh viên 
diễn ra theo nhiều hướng khác nhau trong 
cùng một lớp học. 
Phương pháp học tập tự định hướng 
nâng cao vai trò chủ động của người học 
nhưng không có nghĩa là xem nhẹ vai trò 
của giảng viên. Người thầy phải thể hiện 
vai trò chủ đạo trong quá trình dạy học khi 
giúp người học xác định hướng học tập, 
mục tiêu học tập nhằm đáp ứng tốt nhất 
nhu cầu của người học. Tất cả các hoạt 
động dạy học dù theo phương pháp tự định 
hướng của người học cũng phải đáp ứng 
mục tiêu của môn học và mục tiêu đào tạo 
của nhà trường. 
Chú thích: 
(1) Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam. Phương hướng nhiệm vụ phát triển kinh tế - 
xã hội 5 năm 2006 – 2010. Hà Nội ngày 25/4/2006. 
(2)
 Trần Bá Hoành (2006), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách Giáo khoa, 
NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
(3)
 Gibbons, M. (2002), The self-directed learning handbook: Challenging adolescent 
student to excel. San Francisco, Jossey-Bass Publishers, p.2. 
(4)
 Xem thêm: [PDF] from wikispaces.net. 
 106 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Đặng Vũ Hoạt (chủ biên), Hà Thị Đức (2009), Lí luận dạy học đại học, Nxb ĐH Sư 
phạm, Hà Nội. 
2. Knowles, M. (1975), Self-directed learning: A guide for learners and teachers. 
New York, Association Press. [PDF] from wikispaces.net. 
3. Gibbons, M. (2002), The self-directed learning handbook: Challenging adolescent 
student to excel. San Francisco, Jossey-Bass Publishers. 
4. City & Guilds (2009), Textbook for International teaching, training and assessing 
learning (1106). Diploma in training skills level 2. 
5. Nguyễn Quang Huỳnh (2006), Một số vấn đề lí luận giáo dục chuyên nghiệp và đổi 
mới phương pháp dạy học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 
6. Trần Bá Hoành (2006), Đổi mới phương pháp dạy học, chương trình và sách Giáo 
khoa, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
7. Nguyễn Thị Diệu Thảo (2005), Lí luận dạy học môn Kinh tế gia đình, Nxb Đại học Sư 
phạm, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfphat_huy_tinh_tich_cuc_chu_dong_cua_sinh_vien_qua_hoat_dong.pdf