Phát triển thủy điện ở Việt Nam: Thách thức và giải pháp (Phần 2)
5.1 TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN VÀ TÁI
ĐỊNH CƯ Ở VIỆT NAM
Xây dựng các công trình thủy điện có thể có xuất phát điểm chung là mong
muốn của con người sử dụng công nghệ để chế ngự, không bỏ phí các dòng nước
tự nhiên trôi ra biển, phát triển năng lượng phục vụ sự phát triển của con người.
Rất nhiều công trình thủy điện lớn ở Việt Nam cũng như các nước khác trên
thế giới trở thành biểu tượng của sự chế ngự thiên nhiên, của sự hiện đại hóa, là
niềm tự hào dân tộc; và đội ngũ kỹ sư, chuyên gia thủy điện trở thành “nhóm
đặc nhiệm” thực thi sứ mệnh phát triển thủy điện1 (Baghel và Nusser 2010). Sức
ép nhu cầu năng lượng, bao gồm năng lượng điện từ thủy điện, trong những năm
gần đây trước yêu cầu tăng cường công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, với
mục tiêu về cơ bản đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020,
đã thúc đẩy phát triển nhanh các công trình thủy điện2. Quy hoạch và phát triển
thủy điện “bậc thang” đã được xúc tiến trên nhiều lưu vực sông. Sự phát triển ồ
ạt các công trình thủy điện ở nước ta đã dẫn đến nhiều hệ lụy khó kiểm soát về
kinh tế, xã hội và sinh thái đối với vùng lòng hồ và các cộng đồng địa phương
chịu ảnh hưởng, đặc biệt là người dân phải thực hiện di dời và tái định cư (Bui
Thi Minh Hang et al., 2013)
Ở một góc độ tổng quan hơn, phát triển thủy điện ở Việt Nam đã có sự
chuyển đổi từ diễn ngôn (discourse) khai thác phục vụ dân sinh: xây dựng thủy
điện là để chống lũ, đảm bảo nguồn nước sản xuất, đảm bảo an ninh năng lượng
sang diễn ngôn tự nhiên xã hội (socionature). Quan điểm tự nhiên xã hội cho
rằng: “tự nhiên được xác định, phân định và thậm chí được tái xây dựng về mặt
hình thể bởi các xã hội khác nhau, thường là để phục vụ các lợi ích xã hội cụ
thể, thường là chiếm ưu thế. Nói cách khác, xã hội và tự nhiên được xem là bện
vào nhau theo những cách thức mà sự tách biệt giữa chúng - hoặc trong tư duy
hoặc trong thực tiễn - đều là không thể” (Castree, 2001). Theo đó, không có tự
nhiên nào là tách biệt, bên ngoài con người và rằng các thực thể tự nhiên, như
sông ngòi, được xem như là vật thể khô khan, mà chính những thực thể tự nhiên
cũng là chủ thể (agency) (Baghel và Nusser, 2010). Tính chủ thể của tự nhiên
có nhiều hàm ý quan trọng khi kết nối và đòi hỏi phát triển thủy điện cần đặt
trong tổng thể hệ sinh thái và phát triển bền vững. Tái định cư do thủy điện với
yêu cầu quy hoạch và tổ chức cuộc sống cho cộng đồng bị di dời, thường thuộc
nhóm thiệt thòi3, theo hướng phát triển bền vững - không chỉ là yêu cầu của
nhiều hệ lụy đã được xác nhận từ thực tiễn4, mà còn thể hiện việc giải quyết tốt
mối quan hệ tự nhiên và xã hội, và đảm bảo nghĩa vụ và lợi ích của các bên liên
quan. Nói cách khác, các dự án phát triển thủy điện trước hết cần phải là những
dự án phát triển, coi trọng tính chủ thể và thúc đẩy sự phát triển bền vững của các
cộng đồng bị ảnh hưởng của thủy điện (Nguyễn Quý Hạnh và các tác giả, 2015).
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phát triển thủy điện ở Việt Nam: Thách thức và giải pháp (Phần 2)
76 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP CHƯƠNG 5 TÁI ĐỊNH CƯ DO DỰ ÁN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: TỪ PHẦN CHÌM CỦA TẢNG BĂNG Nguyễn Quý Hạnh - Lâm Thị Thu Sửu 5.1 TỔNG QUAN VỀ PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN VÀ TÁI ĐỊNH CƯ Ở VIỆT NAM Xây dựng các công trình thủy điện có thể có xuất phát điểm chung là mong muốn của con người sử dụng công nghệ để chế ngự, không bỏ phí các dòng nước tự nhiên trôi ra biển, phát triển năng lượng phục vụ sự phát triển của con người. Rất nhiều công trình thủy điện lớn ở Việt Nam cũng như các nước khác trên thế giới trở thành biểu tượng của sự chế ngự thiên nhiên, của sự hiện đại hóa, là niềm tự hào dân tộc; và đội ngũ kỹ sư, chuyên gia thủy điện trở thành “nhóm đặc nhiệm” thực thi sứ mệnh phát triển thủy điện1 (Baghel và Nusser 2010). Sức ép nhu cầu năng lượng, bao gồm năng lượng điện từ thủy điện, trong những năm gần đây trước yêu cầu tăng cường công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, với mục tiêu về cơ bản đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, đã thúc đẩy phát triển nhanh các công trình thủy điện2. Quy hoạch và phát triển thủy điện “bậc thang” đã được xúc tiến trên nhiều lưu vực sông. Sự phát triển ồ ạt các công trình thủy điện ở nước ta đã dẫn đến nhiều hệ lụy khó kiểm soát về kinh tế, xã hội và sinh thái đối với vùng lòng hồ và các cộng đồng địa phương chịu ảnh hưởng, đặc biệt là người dân phải thực hiện di dời và tái định cư (Bui Thi Minh Hang et al., 2013). 1 Bài Nhà máy Thủy điện Hòa bình - Công trình thế kỷ đăng trên website của Trường Đại học Điện lực viết: “Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình là trung tâm điện lực lớn nhất Việt Nam, nằm trong bậc thang các nhà máy thuỷ điện trên sông Đà. Công trình này có chức năng tổng hợp 4 nhiệm vụ chính: chống lũ, phát điện, tưới tiêu và đảm bảo giao thông thuỷ. Những ngày cuối tháng 5, đầu tháng 6-2005, cả nước "nín thở" theo dõi mực nước lên xuống của hồ Hoà Bình. Việc Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình buộc phải cắt giảm sản lượng điện do mực nước hồ xuống dưới mực nước chết khiến nhiều tỉnh, thành phố thuộc khu vực phía Bắc phải cắt điện luân phiên, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sản xuất công nghiệp và đời sống dân cư. Lấy ví dụ đó để hiểu được vai trò to lớn của Nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình đối với nền kinh tế quốc dân, từ đó trân trọng hơn công sức và những đóng góp thầm lặng của tập thể cán bộ, công nhân viên nhà máy.” (Nguồn: aspx?BT=14424) 2 Theo Bộ Công Thương, hiện có 1.237 dự án thủy điện trong đó có 899 đập thủy điện quy mô lớn. Hiện có 260 dự án đã vận hành, 211 nhà máy đang xây dựng để vận hành trước năm 2017, số còn lại đã được đăng ký và cấp phép. Thêm vào đó, có 452 nhà máy thủy điện quy mô nhỏ đang vận hành hoặc đang xây dựng trên cả nước. Xây dựng các đập thủy điện đã di dời 44.557 hộ dân với khoảng 200.000 người dân và lấy mất 133.930 hecta đất (Pham Huu Ty và các tác giả 2013) 77 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP Ở một góc độ tổng quan hơn, phát triển thủy điện ở Việt Nam đã có sự chuyển đổi từ diễn ngôn (discourse) khai thác phục vụ dân sinh: xây dựng thủy điện là để chống lũ, đảm bảo nguồn nước sản xuất, đảm bảo an ninh năng lượng sang diễn ngôn tự nhiên xã hội (socionature). Quan điểm tự nhiên xã hội cho rằng: “tự nhiên được xác định, phân định và thậm chí được tái xây dựng về mặt hình thể bởi các xã hội khác nhau, thường là để phục vụ các lợi ích xã hội cụ thể, thường là chiếm ưu thế. Nói cách khác, xã hội và tự nhiên được xem là bện vào nhau theo những cách thức mà sự tách biệt giữa chúng - hoặc trong tư duy hoặc trong thực tiễn - đều là không thể” (Castree, 2001). Theo đó, không có tự nhiên nào là tách biệt, bên ngoài con người và rằng các thực thể tự nhiên, như sông ngòi, được xem như là vật thể khô khan, mà chính những thực thể tự nhiên cũng là chủ thể (agency) (Baghel và Nusser, 2010). Tính chủ thể của tự nhiên có nhiều hàm ý quan trọng khi kết nối và đòi hỏi phát triển thủy điện cần đặt trong tổng thể hệ sinh thái và phát triển bền vững. Tái định cư do thủy điện với yêu cầu quy hoạch và tổ chức cuộc sống cho cộng đồng bị di dời, thường thuộc nhóm thiệt thòi3, theo hướng phát triển bền vững - không chỉ là yêu cầu của nhiều hệ lụy đã được xác nhận từ thực tiễn4, mà còn thể hiện việc giải quyết tốt mối quan hệ tự nhiên và xã hội, và đảm bảo nghĩa vụ và lợi ích của các bên liên quan. Nói cách khác, các dự án phát triển thủy điện trước hết cần phải là những dự án phát triển, coi trọng tính chủ thể và thúc đẩy sự phát triển bền vững của các cộng đồng bị ảnh hưởng của thủy điện (Nguyễn Quý Hạnh và các tác giả, 2015). Phát triển quan điểm đó, chương này lập luận rằng công tác tái định cư do thủy điện không thể giản đơn hóa vào quá trình đền bù và xây dựng khu tái định cư, mà cần phải bao gồm phần chìm của tảng băng, đó là các vấn đề về sinh kế bền vững, văn hóa, xã hội, chủ thể của phát triển trong chuỗi quan hệ tự nhiên - xã hội. Sau phần thảo luận về các thay đổi liên quan đến chính sách tái định cư, chương này sẽ tập trung phân tích, sử dụng nhiều nghiên cứu trường hợp, các vấn đề về tái định cư theo hướng mở rộng vấn đề từ đền bù đến văn hóa, xã hội, môi trường và sự tham gia của người dân. Bài viết kết thúc bằng việc đưa ra một mô hình toàn diện về tái định cư, nhấn mạnh chỉ khi phần chìm của tảng băng được chú trọng, phát triển thủy điện mới thực sự bền vững. 3 Theo thống kê của Bộ Công Thương, 90% số người bị ảnh hưởng bởi thủy điện ở Việt Nam là đồng bào dân tộc thiểu số sống ở vùng núi (Pham Huu Ty và các tác giả 2013). 4 Tài Diễn đàn nhân dân về Thủy điện Miền Trung, Tây Nguyên - Quan tâm của người dân và trách nhiệm của các bên liên quan do Mạng lưới sông ngòi Việt Nam và Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển xã hội tại Huế ngày 28/10/2014, một thông điệp quan trọng được đưa ra là: Chừng nào các tác động tiêu cực của các dự án thủy điện hiện nay chưa được giải quyết thì không nên phê duyệt và thực hiện thêm dự án thủy điện mới ở Việt Nam. 78 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP 5 Theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, có hai loại quy hoạch: (1) Dự án thủy lợi, thủy điện thực hiện di dân, tái định cư từ 02 huyện trở lên hoặc có quy mô số hộ tái định cư từ 300 hộ trở lên (gồm cả nơi đi và nơi đến) phải lập quy hoạch tổng thể di dân, tái định cư và quy hoạch chi tiết khu, điểm tái định cư; (2) Dự án thủy lợi, thủy điện thực hiện di dân, tái định cư tại 01 huyện hoặc có quy mô số hộ tái định cư dưới 300 hộ chỉ lập quy hoạch chi tiết khu, điểm tái định cư. 5.2 CHÍNH SÁCH VỀ TÁI ĐỊNH CƯ: NHỮNG THAY ĐỔI Ở Việt Nam theo Hiến pháp 1980, 1992, 2013, đất đai là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân, do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Về thu hồi đất, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Nhà nước thu hồi đất do tổ chức, cá nhân đang sử dụng trong trường hợp thật cần thiết do luật định vì mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng. Việc thu hồi đất phải công khai, minh bạch và được bồi thường theo quy định của pháp luật” (Điều 54). Trước năm 1993, tất cả các giao dịch đất đai đều được thực hiện theo quyết định của Nhà nước, đất không có giá trị, thị trường đất đai chưa được công nhận. Trong giai đoạn này, tái định cư được thực hiện đơn giản là quá trình đưa người dân từ vùng dự án đến nơi định cư mới, có đền bù những mất mát cho người dân nhưng không quan tâm đến người dân tái định cư phục hồi sinh kế và tái xây dựng cuộc sống - kết quả là người dân tái định cư bị rơi vào nghèo đói sau khi di dời (Bui Thi Minh Hang and Schreinemachers, 2011). Từ năm 1993 trở đi khi hệ thống đất đai theo định hướng thị trường được thực thi, nhiều luật và nghị định mới được ban hành quy định cụ thể hơn về khung bồi chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư. UBND cấp tỉnh quyết định hoặc ủy quyền UBND cấp huyện quyết định và tổ chức thực hiện lập khu tái định cư tập trung hoặc phân tán cho phù hợp với tình hình thực tế của địa phương. Điều kiện bắt buộc phải có của khu tái định cư là “Khu tái định cư phải xây dựng phù hợp với quy hoạch, tiêu chuẩn và quy chuẩn xây dựng ở đô thị hoặc nông thôn. Trước khi bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu tái định cư phải được xây dựng cơ sở hạ tầng thích hợp, phù hợp với thực tế quy hoạch về đất ở, đất xây dựng của địa phương.” (Nghị định 22/1998/NĐ-CP ngày 24/4/1998). Nghị định 197/2004/NĐ-CP ngày 03/12/2004 quy định thêm: “Trước khi bố trí đất ở cho các hộ gia đình, cá nhân, khu tái định cư phải được xây dựng cơ sở hạ tầng đồng bộ đảm bảo đủ điều kiện cho người sử dụng tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ” và “Tạo điều kiện cho các hộ vào khu tái định cư được xem cụ thể khu tái định cư và thảo luận công khai về dự kiến bố trí”. Quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất được nêu chi tiết tại Nghị định 47/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014. Quyết định 34/2010/QĐ-TTg ngày 8/4/2010 của Thủ tướng Chính phủ đã có những quy định riêng về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư của các dự án thủy lợi và thủy điện. Quyết định 64/2014/QĐ-TTg ngày 18/11/2014, có hiệu lực 79 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP từ ngày 15/1/2015, Thủ tướng Chính phủ ban hành chính sách đặc thù về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư các dự án thủy lợi, thủy điện và có yêu cầu cụ thể đối với quy hoạch tái định cư5, không chỉ gắn với các vấn đề phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, mà nhấn mạnh đến phù hợp với phong tục, tập quán của từng dân tộc và đảm bảo bền vững về môi trường sinh thái. Ngoài ra, công tác hỗ trợ ổn định cuộc sống, hỗ trợ sản xuất đối với cộng đồng bị ảnh hưởng, bao gồm hỗ trợ chuyển đổi sang cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao, hỗ trợ bảo vệ, phát triển rừng và sản xuất nông, lâm kết hợp, đào tạo chuyển đổi nghề nghiệp và việc làm, đã được định rõ. Sắp xếp lại dân cư tái định cư (tái định cư lần hai) cũng được yêu cầu và hướng dẫn đối với những điểm tái định cư không có điều kiện ổn định đời sống, phát triển sản xuất cho người dân sau tái định cư và bị ảnh hưởng do thiên tai. Như vậy, chính sách về tái định cư do thủy điện của Việt Nam đã có nhiều thay đổi, phù hợp với những chuẩn mực quốc tế, ví dụ những nguyên tắc hướng dẫn của Ngân hàng Thế giới6 hay 5 nguyên tắc trọng yếu khi ra quyết định xây dựng đập lớn do Ủy hội đập lớn thế giới đề xuất bao gồm: công bằng, hữu hiệu, ra quyết định có sự tham gia, bền vững và trách nhiệm giải trình. Tuy vậy, từ chính sách đến lập kế hoạch, đến thực thi luôn đòi hỏi nỗ lực lớn. Dù công tác tái định cư do thủy điện và lập kế hoạch tái định cư đã được phân cấp cho địa phương, những người hiểu về điều kiện và nhu cầu của địa phương nhiều nhất, vai trò kiểm tra, theo dõi, đôn đốc, giám sát của các cơ quan chức năng cấp trung ương và cấp tỉnh cần phát huy, và quan trọng hơn chính sách mới không chỉ đáp ứng đơn thuần các nhu cầu thiết yếu của người dân, mà cần dựa trên cách tiếp cận trao quyền cho người dân (Đặng Nguyên Anh, 2007; Nguyễn Thị Minh Phượng, 2014). Hirsch (2010) lập luận rằng khi mà quyền của những người bị ảnh hưởng bởi dự án thủy điện vẫn ở rất xa so với điểm khởi đầu của lập quy hoạch dự án thì sinh kế và cuộc sống của họ do nhóm các chuyên gia thủy điện, tái định cư và nông học v.v... lên kế hoạch cho, thay vì người dân có thể quyết định tương lai của chính họ. Dao Nga (2010) cho rằng trong trường hợp các lợi ích và mục tiêu phát triển không đồng nhất, các chủ đầu tư và doanh nghiệp lớn, thông qua các thể chế nhà nước và thị trường có thể hợp thức hóa và hàng hóa hóa các nguồn tài nguyên thiên nhiên, đẩy người dân ra khỏi đất, rừng, nguồn nước của họ và làm cho các mục tiêu của tái định cư khó có thể đạt được. Một số hạn chế trong cơ chế chuyển dịch đất đai bắt buộc ở Việt Nam cũng cần được 6 Nguyên tắc hướng dẫn cơ bản của Chính sách hoạt động OP 4.12 của Ngân hàng Thế giới là: (a) Tái định cư bắt buộc cần được tránh ở mọi nơi có thể tránh được, hoặc được giảm đến mức tối thiểu, bằng cách đưa ra mọi phương án có thể lựa chọn trong quá trình thiết kế kỹ thuật; (b) Ở những nơi mà tái định cư bắt buộc là không tránh khỏi, hoạt động tái định cư cần được nhận thức và thực thi như những chương trình phát triển bền vững, cần cung cấp đủ nguồn đầu tư. 80 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP lưu ý như: các cơ quan hành chính thường thiếu khách quan do tâm lý muốn ưu tiên phát triển kinh tế nên hay thiên vị về quyền lợi của nhà đầu tư, hay cơ chế xin cho của nền kinh tế bao cấp vẫn tồn tại, từ đó dễ phát sinh tham nhũng, cán bộ quản lý dễ đưa quyền lợi của bản thân vào và giải quyết không thỏa đáng phân chia lợi ích của các bên tham gia (Ngân hàng Thế giới, 2011). 5.3 ĐỀN BÙ VÀ XÂY DỰNG KHU TÁI ĐỊNH CƯ: PHẦN NỔI CỦA TẢNG BĂNG Hầu hết các chính sách và thực hành liên quan đến tái định cư các dự án thủy điện ở Việt Nam đặt trọng tâm vào công tác bồi thường, hỗ trợ và xây dựng khu tái định cư. Tuy nhiên để triển khai tốt các “phần cứng” này của dự án đòi hỏi phải kết hợp với nhiều hợp phần mềm không thể tách biệt. Dù sao đi nữa, đây cũng chỉ là phần nổi của tảng băng về tái định cư do thủy điện. 5.3.1 Đền bù Công tác đền bù được phân cấp cho địa phương thực hiện, dù được điều chỉnh bởi khung chính sách chung ngày càng cập nhật và hoàn thiện, nhưng được thực hiện với phương thức và hiệu quả khác nhau ở các địa phương khác nhau. Mặc khác, việc áp dụng các chính sách được sửa đổi và bổ sung với các định mức và quy định khác nhau khi thực hiện đền bù trong thời điểm cùng một dự án càng làm việc đền bù trở nên khó giải quyết một cách thuận lợi. Thêm nữa, việc đền bù cũng được định dạng rất lớn bởi nhà tài trợ và người thi công các công trình khai thác tài nguyên nước. Trong trường hợp các nguyên tắc và định mức quốc tế được thi hành, thông thường, cộng đồng địa phương sẽ được hưởng lợi nhiều hơn so với các dự án chỉ giao cho địa phương thực hiện khai thác (Asian Development Bank, 2014). Một đặc điểm liên quan đến đền bù trong các dự án thủy điện, khác với các dự án di dân ở khu vực đô thị, là không phải mức đền bù là nguyên nhân gây ra các mâu thuẫn hoặc không ủng hộ dự án từ người dân địa phương. Các cộng đồng địa phương được thông tin và hiểu rõ vai trò của thủy điện đối với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay cũng như vai trò của chính quyền trong định giá đền bù. Các bất cập trong đền bù liên quan đến dự án thủy điện thường liên quan đến việc thực hiện chính sách không đồng bộ và xuyên suốt. Ví dụ, có trường hợp, nhiều hộ đồng ý tái định cư không chậm trễ với định mức bồi thường đưa ra, trong khi đó những hộ dân trì hoãn, hoặc không chấp nhận mức bồi thường cũ hoặc do biết thông tin về mức bồi thường mới7, sau này 7 Thông thường những hộ này là hoặc liên quan đến lãnh đạo địa phương/cộng đồng nên có nhiều thông tin về dự án thủy điện hơn so với các hộ dân thông thường khác. Nghịch lý là ở việc, các hộ lãnh đạo này đóng vai trò tích cực trong công tác vận động người dân chấp nhận các phương thức bồi thường ... điện dẫn theo nhiều hệ luỵ liên quan đến quy luật thay đổi nguồn nước, tính đa dạng sinh học, vòng tuần hoàn vật chất, hiện tượng bồi - xói, nguồn lợi thủy sản và điều kiện vi khí hậu khu vực và phần nào góp phần làm giảm khả năng hấp thu khí CO 2 và gia tăng phát thải khí CH 4 vào bầu khí quyển. Nhiệm vụ và trách nhiệm trồng bù đủ diện tích rừng như các cam kết trong các báo cáo ĐTM thường không được tuân thủ và giám sát nghiêm túc trong thời gian qua. ● Phát triển thủy điện liên quan không tránh khỏi việc thu lấy đất sinh sống và canh tác của cư dân địa phương và buộc phải có kế hoạch đền bù, di dân, tái định cư, khắc phục các mâu thuẫn phát sinh và khôi phục sinh kế ở nơi ở mới. Có nhiều ví dụ thực tế cho thấy chính sách và quy định tái định cư thủy điện thường không đồng bộ, thiếu công bằng, thiếu thực tế và bất cập. Các cam kết “nơi ở mới phải bằng và tốt hơn nơi ở cũ” ít nhiều mang tính chủ quan của chủ đầu tư và một số cán bộ chính quyền sở tại. ● Việt Nam có nhiều con sông chảy liên quốc gia. Việc sử dụng nước sông từ đầu nguồn sẽ ảnh hưởng ít nhiều đến các vùng đất ở hạ nguồn. Tác động xuyên biên giới của các dự án thủy điện như trường hợp sông Mekong đến vùng Đồng bằng sông Cửu Long đã có nhiều cảnh báo tác động liên quan đến sự thay đổi đặc điểm thủy văn dòng chảy, phân bố phù sa, khả năng gia tăng xâm nhập mặn, tác động đến nguồn lợi thủy sản, tính đa dạng sinh học, hệ sinh thái đất ngập nước và những vấn đề xã hội khác. Cần thiết phải có những đánh giá đầy đủ, toàn diện hơn, đặt trong những bối cảnh khác như biến đổi khí hậu và nước biển dâng để chính phủ các nước trong lưu vực cân đối những chiến lược sử dụng giữa nguồn nước xuyên biên giới, thoả nhu cầu năng lượng nhưng vẫn duy trì bảo vệ môi trường và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. 144 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP ● Các ý kiến quan ngại về môi trường và xã hội của các nhà khoa học và các tổ chức xã hội dân sự cũng như các bên liên quan khác trong các dự án thủy điện cần phải được lưu ý và cân nhắc nhiều hơn nữa. Thắng lợi của quá trình vận động huỷ bỏ dự án Thủy điện Đồng Nai 6 và 6A là một trường hợp điển hình. Vấn đề là cần phải giảm thiểu tối đa những tác động của thủy điện lên môi trường và xã hội, đồng thời cũng cần đánh giá đủ và đúng những tổn thất môi trường và xã hội như là một phần của giá thành sản xuất. Việc áp dụng chính sách chi trả dịch vụ rừng bước đầu thí điểm đã chứng tỏ một số hiệu quả về kinh tế, môi trường và xã hội, tạo ngân sách và việc làm cho người dân vùng ảnh hưởng. Tuy nhiên việc áp dụng này cần mang tính công bằng hơn cho nhóm người được chi trả, số tiền được chi trả và thủ tục chi trả. 9.3 KHUYẾN CÁO ● Phát triển thủy điện nhỏ không gây hại nhiều tới môi trường và xã hội có thể là những hoạt động bổ sung nguồn năng lượng địa phương và một phần cho lưới điện quốc gia trong những năm tới. Đầu tư thủy điện nhỏ thường không yêu cầu vốn lớn và thời gian thu hồi vốn nhanh. Nhìn chung, thủ tục xin phép không quá khó khăn, kỹ thuật thiết kế và công tác thi công cũng tương đối đơn giản. Hiện nay có trên 1.000 địa điểm, chủ yếu ở vùng núi phía Bắc, Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, có tiềm năng phát triển thủy điện nhỏ, với tổng công suất lắp máy trên 7.000 MW (Nguyễn Đức Cường, 2012; Nguyễn Thị Thu Hường, 2014). Đặc biệt với các vùng cao và trung du, nếu làm nhà máy thủy điện theo kiểu thủy điện không hồ chứa hoặc theo nguyên lý “run-of-the-river” thì ảnh hưởng đến sự thay đổi dòng chảy không lớn, diện tích rừng bị ảnh hưởng là nhỏ. Ngoài ra, trên thế giới có nhiều phát minh sáng kiến làm các trạm thủy điện không đập nước, thủy điện thủy triều các tiến bộ khoa học có thể áp dụng ở nước ta. ● Việt Nam là một quốc gia có nhiều tiềm năng phát triển năng lượng tái tạo như năng lượng gió, năng lượng mặt trời, năng lượng sóng biển, năng lượng sinh học, năng lượng từ chất thải rắn,... Việt Nam có trên 3.000 km đường bờ biển và nhiều núi cao, hải đảo có nguồn gió đủ mạnh để tạo ra các trạm phong điện. Ở độ cao trên mực nước biển khoảng 80 m, tốc độ gió trung bình ở vùng biển nước ta vào khoảng 6,5 - 7,0 m/s tạo nên một tiềm năng cung cấp điện năng gần 2.100.000 MW (MOIT, True Wind Solutions (USA) and World Bank, 2010). Nằm trong khu vực nhiệt đới, Việt Nam nhận một nguồn năng lượng mặt trời khá dồi dào, đặc biệt là khu vực miền Trung và miền Nam với tổng số giờ nắng trong năm dao động trong khoảng 1.400 - 3.000 giờ, cường độ bức xạ mặt trời trung bình khoảng 4-5 kWh/m2/ngày (Nguyễn Thế Chinh, 2014). Quyết định số 1208/QĐ ngày 145 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP 21/7/2011 phê duyệt quy hoạch điện lực quốc gia giai đoạn 2011 - 2020 có xét đến 2030 (gọi tắt là Tổng sơ đồ phát triển điện VII), theo đó đến năm 2020, điện gió phát triển đạt 1.000 MW, sinh khối đạt 500 MW. Đến năm 2030, phát triển và đưa vào sử dụng lượng công suất từ gió đạt 6.200 MW, sinh khối là 2.000 MW. Ngày 25/11/2015 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược phát triển năng lượng tái tạo của Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050” nhằm mục tiêu tăng nguồn năng lượng tái tạo khoảng 101 tỷ kWh năm 2020, 186 kWh năm 2030 và 452 kWh năm 2050. Đây là định hướng quan trọng thúc đẩy các nhà quy hoạch, nhà khoa học và đầu tư năng lượng xác định hướng phát triển điện nhằm giảm sự phụ thuộc vào nguồn thủy điện. ● Song song với các lưu ý phát triển thủy điện nhỏ và năng lượng tái tạo cho Việt Nam, việc thúc đẩy các khuyến khích và vận động tiết kiệm năng lượng cần được xác định như một chính sách cộng đồng và xã hội. Tiết kiệm năng lượng bao gồm hợp lý hoá sản xuất, giảm thiểu tiêu thụ và tổn thất điện năng và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật trong chiếu sáng, chuyển hoá năng lượng và kiểm soát tiêu thụ điện. Tiết kiệm được 1 kW điện năng sẽ có ý nghĩa nhiều hơn việc tạo ra 1 kW điện năng. Tiết kiệm năng lượng còn đóng vai trò như một giải pháp giảm thiểu sự phát thải khí nhà kính, hạn chế những tác động của biến đổi khí hậu ở quy mô toàn cầu. ● Tiếp tục rà soát và củng cố các chính sách liên quan đến phát triển thủy điện và năng lượng tái tạo bao gồm giảm quy mô phát triển thủy điện vừa và lớn có nhiều bất hợp lý và rủi ro cho môi trường và xã hội. Nhà nước cần chú ý hơn nữa những khuyến cáo của các nhà khoa học và các phản biện của các tổ chức xã hội dân sự. Nghiên cứu lại chính sách mua điện, phân phối và bán điện theo từng đối tượng và vùng miền. Giảm thuế cho vay ưu đãi và ưu tiên đầu tư, mua điện cho các dự án phát triển năng lượng tái tạo. 146 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP TÀI LIỆU THAM KHẢO CHƯƠNG 9 1. IEA (2013). Vietnam Electricity and Heat for 2013. Có thể truy cập từ iea.org/statisticác tác giả/statisticác tác giảsearch/report/?country=Vietnam&produ ct=electricityandheat 2. MOIT, True Wind Solutions and World Bank (2010). Wind Resource Atlas of Vietnam. https://www.esmap.org/sites/esmap.org/files/MOIT_Vietnam_Wind_ Atlas_Report_18Mar2011.pdf 3. Nguyễn Đức Cường (2012). Tổng quan về hiện trạng và xu hướng của thị trường năng lượng tái tạo của Việt Nam. Viện Năng lượng. 4. Nguyễn Thế Chinh (2014). Nguồn tài nguyên năng lượng Việt Nam và khả năng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Viện Chiến lược, Chính sách tài nguyên và môi trường. 5. Hoàng Thị Thu Hường (2014). Thực trạng năng lượng tái tạo Việt Nam và hướng phát triển bền vững, Năng lượng Việt Nam. 6. WorldBank (2014). Electricity production from hydroelectric sources (% of total). Có thể truy cập từ 7. World Energy Council (2013). World Energy Resources: 2013 Survey. Regency House 1-4 Warwick Street, London W1B 5LT, ISBN: 978-0-946121-29-8. Có thể truy cập từ https://www.worldenergy.org/publications/2013/world-energy- resources-2013-survey/ 8. Worldwatch Institute (2012). Use and Capacity of Global Hydropower Increases. Có thể truy cập từ 147 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP ĐÀO THỊ VIỆT NGA ĐỖ VĂN TỨ LÂM THỊ THU SỬU TS. Đào Thị Việt Nga là Giám đốc Trung tâm Bảo tồn và Phát triển Tài nguyên nước (WARECOD) và là giảng viên của Chương trình Nghiên cứu Phát triển, Khoa Khoa học xã hội, Đại học York, Toronto, Canada. TS. Nga đồng thời là Trưởng Ban Điều hành của Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN). Bà tham gia viết sách và có nhiều các bài viết được đăng tải trên các tạp chí quốc tế có uy tín như Journal of Peasant Studies, Journal of Agrarian Changes, Water Alternatives, và các tạp chí khác. TS. Đỗ Văn Tứ công tác tại Phòng Sinh thái môi trường nước, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Với chuyên môn về phân loại thủy sinh vật, sinh thái học thủy vực (suối, sông, hồ, cửa sông ven biển), ông Tứ đã tham gia xây dựng bộ quan trắc đa dạng sinh học Việt Nam và hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về đa dạng sinh học ở Việt Nam, tham gia xây dựng bộ sách động vật chí, thực vật chí Việt Nam; Tu chỉnh sách Đỏ Việt Nam (phần động vật). Là tác giả chính và đồng tác giả của 35 bài báo khoa học, trong đó có 9 bài thuộc danh lục SCI và SCI-E. ThS. Lâm Thị Thu Sửu hiện là Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu Phát triển xã hội (CSRD), đồng thời cũng tham gia nghiên cứu về biến đổi khí hậu, thủy điện và tài nguyên nước. Được đào tạo về khoa học xã hội, bà Sửu rất đam mê nghiên cứu và hoạt động để tìm kiếm sự công bằng cho môi trường và xã hội. Bà đã và đang thực hiện nhiều dự án lớn nhỏ liên quan đến quản lý rủi ro cấp cộng đồng và thích ứng địa phương, bình đẳng giới trong quản trị tài nguyên nước, đánh giá tác động môi trường, xã hội của các công trình thủy điện của Việt Nam và lưu vực Mekong. Các công trình xuất bản của bà Sửu tập trung về quản lý rủi ro, sức chống chịu, giới và thủy điện. Bà là một trong hai người Việt Nam được học bổng danh giá từ Chương trình Lưu trú khoa học tại Bellagio Italy của Quỹ Rockerfeller sau 50 năm hoạt động của Chương trình này. Bà Sửu từng làm học giả Fullbright tại Trung tâm East West, Haiwaii. GIỚI THIỆU VỀ CÁC TÁC GIẢ 148 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP LÊ ANH TUẤN LÊ HÙNG ANH LÊ VĂN HÙNG PGS.TS. Lê Anh Tuấn là Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Biến đổi khí hậu - Đại học Cần Thơ (Viện DRAGON - Mekong) và Giảng viên chính của Khoa Môi trường và Tài nguyên thiên nhiên, Đại học Cần Thơ về các lĩnh vực tài nguyên nước, môi trường và biến đổi khí hậu. Ông Tuấn còn là Điều phối viên Mạng lưới bảo vệ môi trường và Ứng phó với biến đổi khí hậu vùng Đồng bằng sông Cửu Long (MekongNet) và là thành viên trong Ban Cố vấn cho Mạng lưới Sông ngòi Việt Nam (VRN). Ông có rất nhiều các công trình nghiên cứu và các bài viết đăng tại các tạp chí trong và ngoài nước. TS. Lê Hùng Anh là Trưởng phòng Phòng Sinh thái Môi trường nước, Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Với chuyên môn về phân loại thủy sinh vật, sinh thái học thủy vực (suối, sông, hồ, cửa sông ven biển), ông Lê Hùng Anh đã tham gia xây dựng bộ quan trắc đa dạng sinh học Việt Nam, bộ sách động vật chí, thực vật chí Việt Nam; Tu chỉnh sách Đỏ Việt Nam (phần động vật), đồng thời là tác giả sách chuyên khảo: Động vật giáp xác chân khác đáy biển Việt Nam (NXB Khoa học tự nhiên và Công nghệ, 2013). Ông đã đăng nhiều bài báo trên Tạp chí Sinh học và các tuyển tập hội nghị khoa học về Sinh thái và Tài nguyên sinh vật (2007-2015) và Tạp chí Tài nguyên và Môi trường (2015). ThS. Lê Văn Hùng có 15 năm kinh nghiệm làm việc tại Viện Kinh tế Việt Nam, thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam. Ông Hùng có nhiều kinh nghiệm tổ chức, thiết kế, chọn mẫu, điều tra khảo sát, phân tích và đánh giá, viết báo cáo cuối cùng các đề tài và dự án thuộc các lĩnh vực chuyên ngành kinh tế phát triển, đặc biệt các chủ đề về lao động, phát triển vùng, phân tích thể chế chính sách phát triển. Sử dụng thành thạo các phương pháp như PRA, PPA, phỏng vấn sâu; mô hình kinh tế lượng để phân tích/đánh giá tác động của các chính sách, dự án. 149 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP NGUYỄN QUÝ HẠNH LÊ TRẦN CHẤN NGUYỄN THỊ HẢI TS. Nguyễn Quý Hạnh hiện là Phó Chủ tịch kiêm Tổng thư ký Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam tỉnh Thừa Thiên Huế (HueFO). Ông Hạnh cũng đang đảm nhiệm vai trò Phó Trưởng nhóm Nhóm tư vấn đánh giá tác động môi trường và xã hội. Ông có bằng Tiến sĩ Nghiên cứu phát triển của Đại học Bonn (Đức), và bằng Thạc sĩ Thực hành Phát triển của Đại học Queensland (Úc). Ông có gần 15 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực phát triển cộng đồng ở các tỉnh miền Trung và miền Nam Việt Nam. TS. Lê Trần Chấn có 35 năm công tác tại Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Hiện nay ông Chấn làm việc tại Trung tâm Đa dạng và An toàn Sinh học. Lĩnh vực nghiên cứu chính của ông là đánh giá tác động môi trường, và đa dạng sinh học. Ông có nhiều bài báo trên các Tạp chí Sinh học, Kinh tế Sinh thái, Lâm nghiệp, Môi trường và Proceeding các hội thảo ở Côn Minh, Chiang Mai, Chiang Rai, Phú Kẹt, và là đồng tác giả của 6 quyển sách về tài nguyên rừng, hệ thực vật và bảo tồn các loài gen quý hiếm. Nguyễn Thị Hải là nhà nghiên cứu về lâm nghiệp hiện đang công tác tại Viện Nghiên cứu Sinh thái và Môi trường rừng, Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam. Cô có bằng Thạc sỹ Lâm nghiệp và bằng đại học về Quản lý và Phát triển môi trường từ Trường Đại học Quốc gia Úc. Lĩnh vực nghiên cứu của cô tập trung về chi trả dịch vụ môi trường và biến đổi khí hậu. Cô có 10 năm kinh nghiệm nghiên cứu về định giá giá trị dịch vụ môi trường rừng và xây dựng cơ chế chi trả dịch vụ môi trường rừng ở Việt Nam. 150 PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP TRẦN THỊ THUÝ VÂN Trần Thị Thuý Vân hiện đang công tác tại Phòng Địa lý Sinh vật, Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam. Lĩnh vực chuyên môn chính của bà Vân là thành lập bản đồ thảm thực vật, hệ sinh thái, đa dạng sinh học, và đánh giá tác động môi trường. Bà Vân có các bài báo đăng trên tạp chí và hội nghị quốc gia và là đồng tác giả một số công trình nghiên cứu về hệ thực vật và bảo tồn, phát triển nguồn gen quý hiếm ở Việt Nam. PHÁT TRIỂN THỦY ĐIỆN Ở VIỆT NAM: THÁCH THỨC VÀ GIẢI PHÁP NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT CHI NHÁNH NHÀ XUẤT BẢN KHOA HỌC VÀ KỸ THUẬT In 300 bản, khổ 17 x 24 cm, tại Công ty cổ phần Văn hóa Kinh Bắc Địa chỉ: 16 Trung Liệt - Đống Đa - Hà Nội Số ĐKXB: 2330-2016/CXBIPH/3-87/KHKT. Số QĐXB: 100/QĐ-NXBKHKT, ngày 26/7/2016. In xong và nộp lưu chiểu Quý III năm 2016 Mã ISBN: 978-604-67-0766-0 PHẠM NGỌC KHÔI GIÁM ĐỐC - TỔNG BIÊN TẬP Chịu trách nhiệm xuất bản Biên tập và sửa bản in: LÊ THỊ HỒNG THỦY Họa sỹ bìa: ĐỖ XUÂN TÙNG 70 Trần Hưng Đạo - Hoàn Kiếm - Hà Nội ĐT: P. KH-TH: 04 3942 3172; TT. Phát hành: 04 3822 0686; Ban Biên tập: 04 3942 1132 - 04 3942 3171 Fax: 04 3822 0658 - Website: Email: nxbkhkt@hn.vnn.vn 28 Đồng Khởi - Quận 1 - TP. Hồ Chí Minh. ĐT: 08 3822 5062 View publication stats
File đính kèm:
- phat_trien_thuy_dien_o_viet_nam_thach_thuc_va_giai_phap_phan.pdf