Rượu quê - Từ góc nhìn văn hoá làng xã
TÓM TẮT
Không được nhắc đến nhiều như cây đa, bến nước, sân đình, nhưng rượu quê chắc chắn là một
phần kí ức khó phai của những người xa xứ khi nghĩ về quê xưa làng cũ. Nguyên liệu cất rượu gần
gũi với người nông dân. Cách ủ men nấu rượu đơn giản, được thực hiện chủ yếu trong gia đình với
quy mô nhỏ, phản ánh đúng tính chất tập quán sản xuất, sinh hoạt của người Việt Nam: nhỏ lẻ,
manh mún, tự cấp tự túc. Người ta nấu rượu để thắp hương ngày lễ tết, để thăm biếu như một món
quà quê, để đãi anh em họ hàng. Không chỉ để uống, để làm cái “cầu giao tiếp”, rượu còn được sử
dụng với rất nhiều ý nghĩa tâm linh thiêng liêng khác. Tất cả những điều đó khiến nó trở thành thứ
đồ uống không thể thiếu trong mọi gia đình Việt.
Bạn đang xem tài liệu "Rượu quê - Từ góc nhìn văn hoá làng xã", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Rượu quê - Từ góc nhìn văn hoá làng xã
Nguyễn Thị Suối Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 181 - 185 181 RƯỢU QUÊ - TỪ GÓC NHÌN VĂN HOÁ LÀNG XÃ Nguyễn Thị Suối Linh Trường Đại học Khoa học – ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Không được nhắc đến nhiều như cây đa, bến nước, sân đình, nhưng rượu quê chắc chắn là một phần kí ức khó phai của những người xa xứ khi nghĩ về quê xưa làng cũ. Nguyên liệu cất rượu gần gũi với người nông dân. Cách ủ men nấu rượu đơn giản, được thực hiện chủ yếu trong gia đình với quy mô nhỏ, phản ánh đúng tính chất tập quán sản xuất, sinh hoạt của người Việt Nam: nhỏ lẻ, manh mún, tự cấp tự túc. Người ta nấu rượu để thắp hương ngày lễ tết, để thăm biếu như một món quà quê, để đãi anh em họ hàng. Không chỉ để uống, để làm cái “cầu giao tiếp”, rượu còn được sử dụng với rất nhiều ý nghĩa tâm linh thiêng liêng khác. Tất cả những điều đó khiến nó trở thành thứ đồ uống không thể thiếu trong mọi gia đình Việt. Từ khoá: rượu, làng xã, giao tiếp, tâm linh, tự cấp tự túc Có rất nhiều yếu tố làm nên diện mạo văn hoá của một cộng đồng, từ nói năng, đi đứng, cưới hỏi, tang mađến những thứ trừu tượng hơn như tính cách, ứng xử, ngôn ngữ, tư duy, Và tất nhiên, trong những yếu tố đó không thể ngoại trừ chuyện ăn, chuyện uống. Ăn uống là nhu cầu sinh lí của con người, cũng là một hành vi văn hoá. Có một thứ đồ uống gắn với không gian văn hoá làng quê, không phải mắt trâu, chè xanh, nụ vối nhân trần mà đó là rượu trắng.* Dưới góc độ xã hội học, có những lúc, rượu bị coi là thủ phạm số một dẫn tới bạo lực gia đình và xung đột xã hội. Với các nhà kinh tế, rượu là một chủng loại hàng hoá nhiều lợi nhuận và sức tiêu thụ lớn mặc cho ngành y tế không ngừng khuyến cáo hạn chế sử dụng rượu bia và chất kích thích. Trong Văn học nghệ thuật, có lúc, rượu gắn với những hình ảnh bê tha nhếch nhác, khổ sở, bất lực: một Chí Phèo triền miên trong những cơn say của Nam Cao, một bà Thi điên tối nào cũng uống rượu để rồi lẩn vào bóng đêm trong tiếng cười khanh khách gai người trong Hai đứa trẻ của Thạch Lam Nhưng cũng không hiếm khi rượu góp phần làm nên những bức tranh cực kì nên thơ, nên nhạc của làng quê Việt như Thu ẩm đã làm nên chùm thơ thu kiệt tác của Nguyễn Khuyến Trên thế giới, có những thứ đồ uống đã trở thành “thương hiệu văn hoá” của một quốc * Tel: 0985 056063, Email: linhnts@tnu.edu.vn gia như rượu Vang đỏ của người Pháp, rượu Vodka của người Nga, rượu Sake – niềm tự hào của người dân dưới chân núi Phú Sĩ. Nghĩa là, rượu không phải chỉ của người Việt, nhưng dường như có một thứ rượu của riêng người Việt, ấy là rượu đế, thứ rượu trắng nút lá chuối giá chỉ bằng một phần nghìn những chai rượu ngoại nhưng có lúc, một nghìn chai rượu ngoại kia cũng không thay thế được. Rượu có thể dẫn đến cãi cọ, đổ vỡ nhưng thiếu rượu thì cũng mất hẳn đi sự trọn vẹn của những cuộc vui. Trong bài viết này, tôi muốn nói về rượu như một biểu tượng của văn hoá làng quê. Nguyên liệu chính để nấu rượu là sản phẩm của nền nông nghiệp làng xã Với người nông dân Việt thì lúa gạo là thứ nhiều nhất, sẵn nhất và cũng quý nhất. Đó là sản phẩm của nền nông nghiệp lúa nước đã có từ hàng ngàn năm, trước cả sự ra đời của nhà nước đầu tiên Văn Lang – Âu Lạc. Văn hoá Việt nói chung, văn hoá làng xã nói riêng cũng thuộc về loại hình văn hoá nông nghiệp gốc trồng trọt với những tính chất đặc trưng đã được định hình và phát triển trong một thời gian dài. Cơm tẻ được nấu từ lúa, thổi từ rơm (thân cây lúa khô) là thứ đồ ăn quan trọng nhất trong cơ cấu bữa ăn của người Việt. Nó quan trọng tới mức người ta gọi tên nó thay cho cả bữa ăn (ăn cơm = cơm + thức ăn khác), đôi khi vẫn gọi là ăn cơm trong khi trên mâm không hề có món cơm. Nói như vậy, song thực tế, ít có bữa ăn nào của nguời Nguyễn Thị Suối Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 181 - 185 182 Việt mà cơm lại không phải là món chủ đạo. Ngày lễ, dù mâm cao cỗ đầy nhưng vẫn phải có tí cơm lót dạ mới thành bữa, trẻ nhỏ thiếu sữa được bú nước cơm, người ra đồng mang theo nắm cơm ăn giữa buổi, về già răng yếu có khi phải thay cơm bằng cháo. Và, khi chết đi rồi, người Việt vẫn được con cháu gửi theo nắm gạo đi đường. Không chỉ để thổi cơm, từ lúa gạo, người nông dân Việt Nam còn làm ra nhiều món ăn khác nhau như bún, bánh cuốn, bánh đúc, bánh giò, xôi, bánh chưng, bánh dàyvà rượu. Nếu như rượu Vang nổi tiếng khắp thế giới được nấu từ nho, từ táo, tức là những thứ trái cây nguồn gốc ôn đới thì bà con ở quê ta bao đời nay chỉ coi rượu nấu từ gạo mới là ngon, còn các loại rượu Tây, Tàu dù đắt tiền cũng không thể sánh bằng. Rượu ngon là rượu trong veo, sủi tăm, ngửi có mùi thơm nồng, uống vào không bị nhức đầu, choáng váng. Rượu nấu xong cất vào hũ. Muốn uống dần cần trút ra chai thuỷ tinh hoặc cút, nậm, nút bằng lá chuối khô mới đúng kiểu, chứ không đựng vào can hoặc bình nhựa vì sẽ mất mùi. Thứ gạo được dùng phổ biến nhất để nấu rượu là gạo tẻ. Dịp lễ tết thì dùng rượu nếp, sang trọng hơn có rượu cẩm màu đỏ tía, vừa thơm, vừa đẹp mắt. Đồng bào miền núi còn dùng ngô, sắn hay lá rừng để nấu rượu. Không phải người Thượng, uống rượu ngô lần đầu sẽ thấy rất nặng nên thường phải dùng kèm canh lá đắng để có cảm giác rượu bớt đắng hơn. Nhưng cái hay của rượu ngô là càng uống càng thấy ngon và đặc biệt, nếu có say thì khi tỉnh dạy cùng không hề đau đầu, mệt mỏi. Rượu ngô trở thành một thứ đặc sản của núi rừng, giống như “thuyền nâu, trâu mộng với bè nứa mai” vậy! Tuy nhiên, ở làng quê đồng bằng Bắc Bộ thì rượu trắng nấu từ gạo tẻ vẫn là thứ đồ uống phổ biến và được yêu thích hơn cả. Người ta yêu rượu trắng đến mức sáng tạo ra lời ca dao hài hước như sau: Rượu làm từ gạo mà ra Cho nên uống rượu cũng là ăn cơm Những người đàn ông hóm hỉnh vẫn nói thế khi muốn cùng anh em khề khà thêm dăm ba chén trong khi người phụ nữ thân thương bên cạnh miệng cười mà mắt biếc vẫn lườm thay cho lời căn dặn: “Đủ rồi đấy anh, kẻo uống nữa lại say” Quy mô sản xuất nhỏ lẻ phản ánh đúng đặc trưng của một nền nông nghiệp tiểu nông tự cấp, tự túc. Ở phương Tây, những chai rượu vang được đóng gói từ xướng sản xuất lớn. Nhiều ông chủ giàu nên bởi các trang trại trồng nho bạt ngàn, những hầm chứa rượu khổng lồ với hàng trăm thùng lớn nhỏ. Và đương nhiên, rượu là một thứ hàng hoá khá xa xỉ (đối với họ, bia mới là thực là món đồ uống đồng quê, gắn với hình ảnh phiêu diêu của những chàng cowboy lãng tử. Phải chăng, vì thế mà hầu hết các ca sĩ dòng nhạc country người Mĩ đều chọn riêng cho mình một ca khúc viết về bia). Còn nông thôn đồng bằng Bắc bộ, trước kia, và cả bây giờ vẫn không giống như vậy. Một làng nhỏ chưa đầy một trăm hộ nhưng có thể có tới hàng chục nhà làm nghề nấu rượu. Đó là chưa kể đến rất nhiều gia đình khác tuy không thường xuyên nhưng đôi tháng một lần vẫn cất một mẻ rượu để uống với nhau, để biếu anh em họ hàng trong nhà, ngoài ngõ. Làm được điều đó bởi cái “xưởng rượu” của người Việt đơn giản lắm. Chỉ một chiếc lò tự đắp, một chiếc nồi nhôm đặt đúc trong làng, bể làm lạnh tự xây, vài ba cái thạp hay chum vại, ấy là thành một mẻ rượu. Cũng không mấy gia đình phải mua gạo về để nấu rượu. Họ tận dụng thóc lúa của nhà, có khi chỉ để nấu chục lít, uống đến đâu, làm tới đó. Có nhà nấu rượu gọi là để bán nhưng mục đích chính lại là tận dụng chút “bỗng rượu” để chăn nuôi, thậm chí làm quà cho con trẻ, làm gia vị cho món cá chua ngày hè. Có thể thấy, chúng ta có cả một thứ văn hoá gọi là tận dụng: rơm rạ lợp nhà bện chổi, tro bếp bón cây, vỏ bưởi gội đầu, đến quả mít, thân cây đu đủ ăn xong cũng không nỡ vứt mà phải giữ lại làm rau, làm nộm Quy mô sản xuất manh mún, nhỏ lẻ như vậy nên không mấy gia đình làm giàu nên từ nghề nấu rượu hay coi đó làm nghề chính. Họ vẫn thuỷ chung với vườn tược, ruộng đồng, vẫn coi đó chỉ là một thứ nghề tay trái phụ thêm Nguyễn Thị Suối Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 181 - 185 183 lúc nông nhàn đổi lấy đồng quà tấm bánh, quyển vở, cái bút cho người già, con trẻ Không chỉ để uống, rượu còn được sử dụng cho các mục đích tâm linh Đối với người Việt, thì từ say vừa bao hàm nghĩa xấu, vừa gói cả ý nghĩa tốt đẹp. Uống say để nghiện, để đánh thầy mắng bạn, để bán vợ đợ con thì không thể tha thứ. Nhưng có cuộc hội ngộ nào mà thiếu được chén rượu, có ngày vui nào người ta không nâng chén chúc nhau. Khi đó, ai cũng muốn say một chút để hưởng trọn vẹn niềm vui. Và nói gì thì nói, rượu vẫn là đồ uống không thể thiếu trong những nghi lễ quan trọng nhất của đời người và của cộng đồng. Trên bàn thờ gia tiên, ngày thường người ta đặt chén nước lã. Nhưng vào những ngày đặc biệt như lễ tết, giỗ chạp, mồng một hôm rằm, họ lại có thêm chén ruợu mời tiên tổ. Xôi gà có thể thiếu nhưng chén rượu thì không thể. Ngày chạm ngõ, ăn hỏi, xin dâu, trong mâm lễ của nhà trai cần phải có chai rượu. Lấy đuợc vợ về nhà nhưng anh rể mới vẫn phải thực hiện một nhiệm vụ quan trọng tỏ lòng biết ơn đối với bố mẹ vợ. Đó là lễ lại mặt với gà, gạo nếp và rượu thơm. Trong đêm động phòng hoa chúc, xưa có tục cô dâu chú rể uống chung chén rượu với ý nghĩa cầu mong tình cảm mãi mãi đươc mặn nồng. Phong tục ấy ta học từ Trung quốc, gọi là giao bôi. Ngày nay nghi thức đó dù không còn phổ biến nhưng trong ngày vui, trước bạn bè anh em, đôi trẻ cũng phải uống rượu, vừa để cảm ơn, vừa thầm cầu mong điều may mắn. Ngày thanh minh đi tảo mộ, trước khi ra về, người sống rảy những giọt rượu thơm lên mộ người thân - một hành động thể hiện lòng thành kính. Trong các nghi lễ tâm linh như Hầu bóng, giải hạn, cúng cơm, luôn có nghi thức mời rượu bậc thần thánh hay những người đã khuất. Đốt xong vàng mã, người ta cũng vẩy rượu lên đống tro bởi họ tin rằng, có như vậy, người thân của mình mới nhận được. Đi đám ma về, người vô tâm đến đâu cũng biết rửa mặt mũi chân tay, hơ người qua đống lửa, và thận trọng hơn thì rửa tay bằng chút rượu gừng để xua đi hơi lạnh. Bữa cỗ của người Việt phải có rượu mới thành. Vì vậy, có cách nói hoán dụ như: Mời bác sang uống rượu (sang ăn cỗ), máy mắt trái có rượu thịt (có người mời ăn), Khi nào cho tôi uống rượu đây? (khi nào nhà có đám cưới) Có thể nói, chén rượu trắng có mặt và chứng kiến tất cả những nghi thức quan trọng nhất trong cuộc đời một con người từ lúc cúng mụ, thôi nôi, đến khi trưởng thành cưới hỏi, rồi khao vọng, vinh quy, lên lão, mừng thọ, trăm tuổi, giỗ chạp, đoạn tang Thậm chí, cho đến khi “thay áo”, người ta cũng dùng nước thơm và rượu trắng để tắm rửa cho người chết lần cuối cùng cho sạch sẽ xương thịt bụi trần Rượu - vị thuốc của làng quê Ở nông thôn, không phải lúc nào cũng sẵn thuốc thang, bệnh viện. Cho đến nay, rất nhiều người vẫn tin tưởng vào những bài thuốc dân gian từ cây lá trong vườn, những mẹo chữa bệnh ông cha để lại. Rất nhiều bài thuốc quen thuộc có thành phần quan trọng là rượu. Phổ biến nhất là rượu ngâm gừng để đánh cảm, rượu ngâm tỏi xoa bóp chân tay. Người ta còn dùng rượu như một thứ thuốc bồi bổ sức khoẻ, từ những loại rượu thuốc quý học tập của người phương Bắc như rượu rắn, rượu bìm bịp, tắc kè cho đến những loại dân dã hơn như rượu ngâm mật ong, rễ đinh lăng, rượu trứng Dùng rượu giải cảm có hai ý nghĩa. Về mặt khoa học thì đó là cách lấy nóng (rượu, gừng) để dung hoà cái lạnh (cơ thể). Về mặt tâm linh, người xưa vẫn tin rằng khi bị ốm là do gặp hồn lạ, vía dữ nên dùng rượu để xua đuổi chúng đi. Cùng bởi quan niệm trên mà sau khi đi đám ma về, người Việt thường bước qua đống lửa, hơ tay trên lửa hoặc xoa tay vào rượu để xua đuổi tà ma như phần trên chúng tôi đã nhắc tới. Cách ứng xử của người Việt trong khi uống rượu Tính cộng đồng thể hiện rõ trong những bữa rượu Một buổi tiệc rượu của người nước ngoài có thể gợi cho ta hình ảnh về những bộ vectông Nguyễn Thị Suối Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 181 - 185 184 sang trọng, những chiếc váy đầm, những bộ ly sáng bóng, tiếng nhạc du dương và lời nói lịch sự. Một bữa rượu của người Việt thì muôn hình vạn dạng, khách khí, lịch sự cũng có, nhưng dân dã, thiết thân thì phổ biến hơn. Bữa ăn trong gia đình sẽ kéo dài hơn khi người cha có thói quen “nhắm rượu”. Khi đó, người trong gia đình thường ăn uống chậm rãi để chờ đợi và có ý để phần thức ăn cho người mải nhâm nhi mà ăn chậm nhất. Ở phương Tây, mỗi người có suất riêng và coi việc nói chuyện khi ăn là mất vệ sinh sẽ không thể có cách ứng xử như vậy. Anh em họ hàng đi làm ăn xa ngày tết mới về có lẽ sẽ mong nhất giây phút được ngồi chụm lại bên mâm rượu. Bàn ăn có thể có sẵn nhưng người Việt, nhất là ở nông thôn thường chỉ “sủng ái” cái chiếu, bởi ăn bằng chiếu, nhắm rượu ngâm nga trên chiếu mới thoải mái, mới có thể sát vai bá cổ, chén chú chén anh. Người Việt không quá coi trọng thời gian, những ngày nông nhàn, đàn ông thường tụ tập trên chõng tre, gốc đa, quán nước để mời nhau chén rượu, uống bằng chén, bằng bát, uống chung một cốc hoặc uống trực tiếp từ chai, có khi chỉ lấy quả ổi, cái bánh đa làm thức ăn đưa đẩy. Bữa rượu làng không cần quần nọ áo kia, không cần không gian sang trọng, không cần lời lẽ xã giao bóng bảy. Nó thể hiện rất rõ tính chất cộng đồng của nông thôn Việt: trọng quan hệ và suồng sã trong giao tiếp. Cụng chén, nghi thức uống rượu phổ biến trên thế giới đã được “Việt hoá” Trừ khi uống rượu một mình, còn phàm cứ có hai người uống rượu là phải cụng chén. Nghi thức này không phải do người Việt sáng tạo ra. Nó có từ thời cổ đại ở phương Tây. Để đảm bảo với khách rằng trong rượu không có thuốc độc, người ta cụng ly theo nguyên tắc chủ ở dưới, khách ở trên để khi đập chén vào nhau thi rượu ở chén khách sẽ trộn lẫn vào rượu của chủ. Sang Việt Nam, nghi thức đó đã được tiếp biến. Không còn phải cảnh giác với thuốc độc, người Việt cụng chén cụng chén theo thói quen chén của người lớn tuổi ở trên, chén của người ít tuổi hơn ở dưới hoặc sắp xếp theo thứ bậc, người có địa vị thấp hơn thường khiêm tốn để chén thấp. Đó là cách ứng xử của người Việt theo nguyên tắc quen thuộc là trọng tuổi tác và địa vị. Hai đặc trưng tính cách của người Việt thể hiện qua việc uống rượu: thích giao tiếp và trọng việc ăn uống Người Việt thích giao tiếp và coi trọng giao tiếp. Đó là hệ quả của tính cộng đồng trong văn hoá làng xã. Sống trong cộng đồng với vô số những mối quan hệ chằng chịt theo hàng ngang (láng giềng) và hàng dọc (huyết thống), người dân ở làng quê có nhu cầu giao tiếp rất cao. Rượu không chỉ là đồ uống, mà còn là một phương tiện hỗ trợ giao tiếp. Khi ngồi uống rượu, người ta mới có cảm hứng và dễ tâm sự những suy nghĩ thầm kín nhất, chân thật nhất. Cùng ngồi uống chè, người Việt còn ít nhiều giữ lễ nhưng khi đã ngồi xuống chiếu, nâng chén rượu thì mọi khoảng cách dường như bị xoá mờ. Trừ khi ai đó uống rượu một mình để giải sầu, còn hầu hết các cuộc rượu có đông người tham gia là phải ồn ào, phải huyên náo. Rượu trở thành cầu nối để mọi người gần gũi nhau hơn, cởi mở với nhau hơn. Người Việt uống chén rượu để thay lời chào, thay cho thủ tục làm quen kết bạn, mượn chén rượu để cảm ơn, xin lỗi, để tạm biệt cáo từ, để chia sẻ nỗi buồn niềm vui, để chỉ non hẹn biển, để tha thứ, bỏ quavà rất nhiều lời muốn nói khác. Rượu phát huy tác dụng trong việc giao tiếp như vậy, một phần quan trọng bởi nó gắn với sự ăn uống - một thú vui ngàn đời của người Việt Nam. Dân tộc ta trọng sự ăn uống, có lẽ bởi nước ta có truyền thống nông nghiệp. Ngay trong sự yêu thích giao tiếp đã nói ở trên, người Việt cũng thể hiện thông qua sự ăn uống. Khách đến nhà thường lấy bánh trái, hoa quả làm quà cho chủ. Chủ cũng thể hiện sự mến khách bằng “cơm gà, cá gỡ”, “chén nước chè xanh”, “miếng trầu là đầu câu chuyện” dù có phải “nhịn miệng tiếp khách”. Ít người uống rượu suông, dù ít, dù nhiều vẫn cần có chút đồ nhắm làm “mồi”. Vừa uống rượu, vừa nhâm nhi chân gà, đầu cá, khúc Nguyễn Thị Suối Linh Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 96(08): 181 - 185 185 lòng lợn trắng tinh, béo ngậy là thú vui bình dị chốn làng quê. Ở thành phố, những quán nhỏ ven đường sẽ không bao giờ vắng khách khi tạo dựng một không khí làng quê với những món ăn và một vài chén rượu quê như thế. Đời Đường, nhà thơ Đỗ Mục có bài thơ nổi tiếng vẫn được dùng để dạy học trò: Thanh minh thời tiết vũ phân phân Lộ thượng hành nhân dục đoạn hồn Cố vấn tửu gia hà xứ hữu Mục đồng dao chỉ Hạnh Hoa thôn Dù không hiểu hết tiếng Hán, nhưng nhiều người Việt khi nghe bài thơ này vẫn mường tượng được phần nào cái không khí mùa xuân yên bình ở chốn thôn dã. Tác giả người Trung Quốc, quán rượu kia và cả thôn Hạnh Hoa yêu kiều cũng của người Trung Quốc mà sao vẫn thấy bài thơ kia, phong cảnh kia thân thuộc quá. Ngày thanh minh, giọt mưa xuân lất phất, trẻ chăn trâu, quán rượu nhỏ ven đường cũng có ở Việt Nam, cũng gắn với vẻ nên thơ, yên bình của bao nhiêu làng Việt. Rượu Việt nói được rất nhiều điều về đặc trưng, tính cách, về phong tục tập quán, đời sống tâm linh, nếp sống cộng đồng của người Việt. Không cao như cây đa, không rộng như giếng làng, không linh thiêng như mái đình làng cổ, song rượu quê vừa ngọt vừa say sẽ mãi là một mảnh hồn không bao giờ vơi cạn của làng quê người Việt. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Phan Kế Bính, (2005), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hoá thông tin. [2]. Nguyễn Từ Chi, (1984), Cơ cấu tổ chức của làng Việt cổ truyền ở Bắc bộ. [3]. Phan Đại Doãn, (2000), Mấy vấn đề về làng xã Việt Nam trong lich sử, Nxb Văn hoá thông tin. [4]. Phan Đại Doãn, (1992), Làng quê, thành thị, một thể thống nhất về kinh tế, xã hội, Nxb Khoa học xã hội. [5]. Bùi Xuân Đính, (1985), Lệ làng phép nước, Nxb Pháp lí. HN. [6]. Trần Ngọc Thêm, (2006),Tìm về bản sắc văn hoá Việt nam, Nxb Tổng Hợp TP HCM. [7]. Ngô Đức Thịnh, (2004), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá Việt Nam, Nxb Trẻ. SUMMARY COUNTRY WINE IN THE CUTURAL VIEWPOINT Nguyen Thi Suoi Linh* College of Sciences - TNU Although it is not mentioned as much as the banyan trees, ferry docks, or temple yards, country wine is definitely part of the unforgettable memories of expatriates when thinking about old villages. The raw materials used to make wine are close to farmers. The way to warm the wine’s ferment is simple and it is made in small-scale family businesses. This reflects the custom of Vietnamese production and living: small, scattered, and self-sufficient. Wine is used for worshipping or as a gift on the Tet holiday. Wine is not only used for drinking or as a means of communication, but it also has many other sacred spiritual meanings. For these reasons, wine has become an indispensable part of every Vietnamese family. Key words: wine, country, communication, spirituality, self-sufficiency * Tel: 0985 056063, Email: linhnts@tnu.edu.vn
File đính kèm:
- ruou_que_tu_goc_nhin_van_hoa_lang_xa.pdf