Thể chế chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Tóm tắt: Thể chế chính trị một mặt là những quy định, quy chế, chuẩn mực, quy phạm,

nguyên tắc luật lệ nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác, nó là những

dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị hay

hệ thống chính trị. Xây dựng, hoàn thiệu thể chế chính trị luôn được Đảng Cộng sản Việt

Nam quan tâm nghiên cứu, chỉ đạo cùng với việc đổi mới về thể chế kinh tế ngay từ Đại hội

VI và trong suốt chặng đường hơn 30 năm đổi mới.

pdf 9 trang yennguyen 3060
Bạn đang xem tài liệu "Thể chế chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thể chế chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới

Thể chế chính trị Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
66 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
THỂ CHẾ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM 
TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI 
POLITICAL INSTITUTIONS OF VIETNAM
IN THE PERIOD OF INNOVATION
Nguyễn Văn Hùng*
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 04/03/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/9/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 27/9/2019
Tóm tắt: Thể chế chính trị một mặt là những quy định, quy chế, chuẩn mực, quy phạm, 
nguyên tắc luật lệ nhằm điều chỉnh và xác lập các quan hệ chính trị. Mặt khác, nó là những 
dạng thức cấu trúc tổ chức, các bộ phận chức năng cấu thành của một chủ thể chính trị hay 
hệ thống chính trị. Xây dựng, hoàn thiệu thể chế chính trị luôn được Đảng Cộng sản Việt 
Nam quan tâm nghiên cứu, chỉ đạo cùng với việc đổi mới về thể chế kinh tế ngay từ Đại hội 
VI và trong suốt chặng đường hơn 30 năm đổi mới. 
Từ khóa: Thể chế chính trị, đổi mới, Đại hội VI, Đảng Cộng sản, Việt Nam
Abstract: Political institutions, on the one hand, are regulations, statutes, standards, 
norms, and rules of law that regulate and establish political relations. On the other hand, 
they are forms of organizational structure, constituent parts of a political subject or 
political system. Building and perfecting political institutions has always been interested in 
researching and directing by the Communist Party of Vietnam along with the renovation of 
economic institutions right from the Sixth Congress and during the journey of over 30 years 
of renovation.
Keywords: Political institutions, innovation, Congress VI, Communist Party, Vietnam
* Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh 
1. Quá trình xây dựng, hoàn thiện 
thể chế chính trị ở Việt Nam thời kỳ đổi 
mới (từ Đại hội VI đến nay)
Đại hội VI năm 1986, Đảng ta xác 
định: “Tập trung dân chủ là nguyên tắc quan 
trọng nhất chỉ đạo mọi hoạt động tổ chức, 
sinh hoạt nội bộ và phong cách làm việc của 
chúng ta. Sức mạnh tổ chức to lớn của Đảng 
là ở sự thực hiện đầy đủ các nguyên tắc này. 
Tình trạng tập trung quan lieu, gia trưởng, 
độc đoán, không tôn trọng ý kiến cấp dưới, 
không phát huy trí tuệ tập thể dẫn tới những 
quyết định sai lầm, làm suy yếu sự đoàn kết 
trong Đảng. Tình trạng cục bộ, vô kỷ luật 
Tạp chí Khoa ọc - Viện Đại học Mở Hà Nội 59 (09/2019) 62-70
67Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
cũng gây ra những hậu quả tai hại, và làm 
cho sự lãnh đạo của Đảng, việc điều hành của 
Nhà nước kém hiệu lực”. 
Hội nghị Trung ương 6 Khóa VI 
(3/1989), Đảng ta chính thức sử dụng khái 
niệm “hệ thống chính trị” và chỉ rõ: Đổi mới 
tổ chức và phương thức hoạt động của hệ 
thống chính trị là nhằm tăng cường vai trò 
lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý của Nhà 
nước, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, 
có nghĩa là tăng cường sức mạnh và hiệu lực 
của chuyên chính vô sản, làm cho các tổ chức 
trong hệ thống chính trị hoạt động năng động 
và có hiệu quả hơn. Sự lãnh đạo của Đảng là 
điều kiện quyết định thắng lợi cho sự nghiệp 
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa 
của nhân dân ta. Phải phê phán những khuynh 
hướng phủ nhận hoặc hạ thấp sự lãnh đạo của 
Đảng đồng thời lắng nghe, tiếp nhận những ý 
kiến trung thực phê bình những khuyết điểm 
trong sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây 
dựng Đảng. Kết hợp chặt chẽ đổi mới kinh 
tế với đổi mới hệ thống chính trị. Từ kết quả 
đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống 
chính trị.
Báo cáo chính trị tại Đại hội VII (năm 
1991) nhấn mạnh, thực chất của việc đổi mới 
và kiện toàn hệ thống chính trị nước ta là xây 
dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Dân chủ 
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công 
cuộc đổi mới.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (gọi tắt 
là Cương lĩnh 1991) đã xác định những quan 
điểm cơ bản của Đảng về dân chủ xã hội 
chủ nghĩa và hệ thống chính trị. Đây chính 
là những định hướng lớn có tính chỉ dẫn về 
quan điểm, nguyên tắc, nội dung và phương 
pháp để đổi mới chính trị mà cụ thể là đổi 
mới hệ thống chính trị ở nước ta, trong điều 
kiện chuyển đổi mô hình phát triển và cơ chế 
quản lý kinh tế, từ kinh tế kế hoạch, hiện vật 
sang kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường, từ 
cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp và bình 
quân sang cơ chế thị trường, tuân theo quy 
luật giá trị, quy luật thị trường, cạnh tranh và 
phân hóa. Cương lĩnh 1991 khẳng định “Toàn 
bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính 
trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây 
dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ 
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc 
về nhân dân”. 
Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành 
Trung ương khoá VII (6/1992) đã đánh giá 
tình hình và nhiệm vụ của Đảng trong tình 
hình mới. Hội nghị nhấn mạnh: “Thực hiện 
nghiêm ngặt các nguyên tắc tổ chức và sinh 
hoạt Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung 
dân chủ, ngăn chặn và khắc phục tệ vô tổ 
chức, vô kỷ luật, độc đoán, chuyên quyền 
trong Đảng; chấn chỉnh hệ thống tổ chức 
bộ máy của Đảng ở các cấp; lập ban cán sự 
Đảng ở Chính phủ, các bộ, các uỷ ban Nhà 
nước...; chỉnh đốn tổ chức cơ sở Đảng, xây 
dựng củng cố các chi bộ theo địa bàn dân 
cư... Xác định rõ mối quan hệ giữa Đảng với 
Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống 
chính trị nhằm nâng cao vai trò, chất lượng 
và hiệu quả lãnh đạo của Đảng”.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban 
Chấp hành Trung ương Đảng (khoá VII) 
ngày 23/01/1995 về tiếp tục xây dựng và 
hoàn thiện Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam, trọng tâm là cải cách một 
buớc nền hành chính nhấn mạnh: Quyền lực 
nhà nước là thống nhất, có sự phân công 
68 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà 
nước trong việc thực hiện ba quyền: lập 
pháp, hành pháp, tư pháp. Quán triệt nguyên 
tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt 
động của Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ 
nghĩa Việt Nam. Việc xây dựng và hoàn thiện 
Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt 
Nam đòi hỏi tăng cường vai trò lãnh đạo của 
Đảng. 
Điều lệ Đại hội VIII của Đảng đã điều 
chỉnh về tổ chức cơ quan lãnh đạo của Trung 
ương Đảng: không lập Ban bí thư mà Bộ 
chính trị cử ra Thường vụ Bộ Chính trị làm 
chức năng điều hành nhiệm vụ lãnh đạo của 
Trung ương Đảng như chức năng của Ban bí 
thư trước đây. 
Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy Ban 
Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII, (số 
13-NQ/TW, ngày 16 tháng 8 năm 1999): một 
số vấn đề về tổ chức, bộ máy của hệ thống 
chính trị và tiền lương, trợ cấp xã hội thuộc 
ngân sách nhà nước đã nhấn mạnh: “Kiện 
toàn tổ chức, bộ máy của hệ thống chính trị 
lần này là tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung 
ương 8 khoá VII, Nghị quyết Trung ương 3 và 
Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII; 
là một nội dung quan trọng của cuộc vận 
động xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nhằm đạt 
được mục tiêu: giữ vững và tăng cường vai 
trò lãnh đạo của Đảng, bản chất cách mạng 
của Nhà nước ta, nâng cao hiệu lực, hiệu quả 
hoạt động của các tổ chức trong hệ thống 
chính trị, mở rộng và phát huy quyền làm chủ 
của nhân dân, đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, 
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tăng 
cường tiềm lực quốc gia, giữ vững ổn định 
chính trị, xã hội, củng cố mối quan hệ mật 
thiết giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân” .
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 
khóa IX “Về đổi mớ i và nâng cao chất lượng 
hệ thống chính trị cơ sở xã, phường, thị trấn” 
(số 17-NQ/TW, ngày 18 tháng 03 năm 2002) 
đã chỉ rõ: 
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của 
từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng 
thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối 
hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của 
đảng bộ, chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và 
phương thức hoạt động hướng vào phục vụ 
dân, sát với dân, được dân tin cậy.
Thực hành dân chủ thực sự trong nội 
bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở 
theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy 
quyền làm chủ của dân trên cơ sở thực hiện 
quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền dân 
chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện 
quyền của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở 
cơ sở và thay thế người không đủ tín nhiệm. 
Phát huy dân chủ phải đi liền với củng cố và 
nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 Ban 
chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về đổi 
mớ i, kiện toàn tổ chức bộ máy các cơ quan 
đảng, định hướ ng về đổi mớ i tổ chức bộ máy 
nhà nướ c, Mặt trận Tổ quố c và các đoàn thể 
chính trị - xã hội” xác định: “Kiện toàn, nâng 
cao chất lượng toàn diện các cơ quan tham 
mưu và các tổ chức đảng ở Trung ương nhằm 
tăng cường và giữ vững vai trò lãnh đạo của 
Đảng. Các cơ quan tham mưu của Trung 
ương Đảng được tổ chức lại thành sáu cơ 
quan: Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban Dân 
vận Trung ương, Ban Đối ngoại Trung ương 
và Văn phòng Trung ương Đảng”. Tổ chức 
lại 7 đảng bộ khối các cơ quan Trung ương 
thành 2 đảng bộ khối trực thuộc Trung ương 
69Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
là Đảng bộ Khố các cơ quan Trung ương và 
Đảng bộ Khối doanh nghiệp Trung ương. 
Kiện toàn tổ chức các ban cán sự đảng, đảng 
đoàn, các cơ quan tham mưu của Đảng ở địa 
phương, các đơn vị sự nghiệp của Đảng. 
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 Ban 
chấp hành Trung ương Đảng khóa X về “Tiếp 
tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng 
đối với hoạt động của hệ thống chính trị” đã 
đề ra mục tiêu, quan điểm chỉ đạo, làm rõ 
chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Chính 
phủ, cơ quan tư pháp và sự lãnh đạo của Ban 
chấp hành Trung ương Đảng, Bộ Chính trị 
đối với các cơ quan đó trong bộ máy nhà 
nước, làm rõ sự lãnh đạo của Đảng đối với 
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và 
các đoàn thể chính trị - xã hội. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI 
của Đảng xác định mục tiêu, quan điểm, giải 
pháp xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta 
trong giai đoạn hiện nay. Toàn bộ tổ chức và 
hoạt động của hệ thống chính trị ở nước ta 
nhằm xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã 
hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về 
nhân dân: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện 
nền dân chủ xã hội chủ nghĩa bảo đảm tất 
cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân”. 
Trong giai đoạn trước mắt, Đảng ta xác định 
mục tiêu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện hệ 
thống chính trị là: “Tiếp tục nâng cao năng 
lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng; đẩy 
mạnh toàn diện công cuộc đổi mới; xây dựng 
hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; 
phát huy dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết 
toàn dân tộc”.
Quan điểm xây dựng hệ thống chính trị 
được chỉ rõ trong Văn kiện Đại hội XI của 
Đảng: 
Một là, đổi mới đồng bộ, phù hợp về 
kinh tế và chính trị vì mục tiêu xây dựng 
nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, 
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
 Hai là, đổi mới tổ chức và phương 
thức hoạt động của hệ thống chính trị nhằm 
tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu 
lực quản lý của Nhà nước, phát huy quyền 
làm chủ của nhân dân: “Tập trung rà soát, 
bổ sung, điều chỉnh, ban hành mới, xây dựng 
đồng bộ hệ thống các quy chế, quy định, quy 
trình công tác để tiếp tục đổi mới phương 
thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động 
của hệ thống chính trị. Khắc phục tình trạng 
Đảng bao biện, làm thay hoặc buông lỏng 
lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước. Đổi 
mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với 
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân, 
tôn trọng nguyên tắc hiệp thương dân chủ 
trong tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ 
quốc Việt Nam”.
Ba là, đổi mới hệ thống chính trị một 
cách toàn diện đồng bộ, có kế thừa, có bước 
đi, hình thức và cách làm phù hợp: “Kiên 
trì và quyết liệt thực hiện đổi mới. Đổi mới 
chính trị phải đồng bộ với đổi mới kinh tế 
theo lộ trình thích hợp”.
Bốn là, đổi mới mối quan hệ giữa các 
bộ phận cấu thành của hệ thống chính trị với 
nhau và với xã hội, tạo ra sự vận động cùng 
chiều theo hướng tác động, thúc đẩy xã hội 
phát triển; phát huy quyền làm chủ của nhân 
dân: “Tiếp tục xác định rõ chức năng, nhiệm 
vụ và mô hình tổ chức của các tổ chức trong 
hệ thống chính trị”.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong 
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, 
phát triển năm 2011) khẳng định: Đảng Cộng 
70 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp 
công nhân, đồng thời là đội tiên phong của 
nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; 
đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công 
nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. 
Quan điểm về thể chế chính trị, về chức 
năng, nhiệm vụ của các thành tố trong hệ 
thống chính trị được xác định rõ trong Cương 
lĩnh 2011, cụ thể như sau:
Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng 
thời là một bộ phân của hệ thống ấy. Đảng 
gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và 
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa 
vào dân để xây dựng Đảng, chịu sự giám sát 
của nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ 
Hiến pháp và pháp luật. 
Tất cả quyền lực của Nhà nước thuộc 
về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa 
giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và 
đội ngũ trí thức, do Đảng Cộng sản Việt Nam 
lãnh đạo. Quyền lực nhà nước là thống nhất, 
có sự phân công phối hợp và kiểm soát giữa 
các cơ quan trong việc thực hiện các quyền 
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Nhà nước 
ban hành pháp luật, tổ chức quản lý xã hội 
bằng pháp luật và không ngừng tăng cường 
pháp chế xã hội chủ nghĩa. Tổ chức và hoạt 
động bộ máy Nhà nước theo nguyên tắc tập 
trung dân chủ, có sự phân công phân cấp, 
đồng thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất của 
Trung ương.
Các đoàn thể nhân dân có vai trò rất 
quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn 
dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đại 
diện và bảo vệ quyền lợi, lợi ích hợp pháp, 
chính đáng của nhân dân, chăm lo lợi ích cho 
các hội viên, đoàn viên, xây dựng xã hội lành 
mạnh, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước.
Kết luận số 64-KL/TW của Hội nghị 
Trung ương 7 khóa XI: “Một số vấn đề về 
tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị 
từ Trung ương đến cơ sở” đã xác định rõ quan 
điểm và mục tiêu đổi mới hệ thống chính trị 
từ Trung ương đến cơ sở: 
Về quan điểm: Đổi mới, hoàn thiện 
hệ thống chính trị phải bám sát, cụ thể hóa, 
thể chế hóa các quan điểm của Cương lĩnh, 
Điều lệ, văn kiện Đại hội XI của Đảng, đồng 
bộ với nội dung sửa đổi Hiến pháp 1992; bảo 
đảm tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, 
hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, 
phát huy quyền làm chủ của nhân dân; giữ 
vững ổn định chính trị, xã hội, đáp ứng yêu 
cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ 
mới; Đổi mới, hoàn thiện đồng bộ giữa các 
tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng bộ với 
đổi mới thể chế kinh tế, phù hợp với đổi mới 
nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng 
trong điều kiện Đảng duy nhất cầm quyền, 
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ 
nghĩa, nền kinh tế thị trường định hướng xã 
hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Đổi mới, 
kiện toàn tổ chức bộ máy phải gắn với hoàn 
thiện chức năng, nhiệm vụ, nâng cao chất 
lượng đội ngũ cán bộ, công chức; xác định 
rõ quan hệ giữa tập thể lãnh đạo với cá nhân 
phụ trách; quyền hạn đi đôi với trách nhiệm 
và đề cao trách nhiệm của người đứng đầu; 
Về tổ chức bộ máy, không nhất thiết ở Trung 
ương có tổ chức nào thì ở địa phương cũng 
có tổ chức đó. Căn cứ điều kiện cụ thể, tiêu 
chí và quy định khung của Trung ương, địa 
phương có thể lập (hoặc không lập) tổ chức 
sau khi được sự đồng ý của cấp trên có thẩm 
quyền, về biên chế, cần tăng cường kiêm 
nhiệm một số chức danh trong các tổ chức 
của hệ thống chính trị. Đổi mới mạnh mẽ về 
71Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
tổ chức và cơ chế hoạt động của các đơn vị 
sự nghiệp công; Tiếp tục đổi mới, hoàn thiện 
hệ thống chính trị cần thực hiện mạnh mẽ 
với quyết tâm chính trị cao. Những vấn đề 
thực tiễn đòi hỏi, đã đủ rõ, chín muồi thì kiên 
quyết thực hiện. Những vấn đề chưa đủ rõ 
thì khẩn trương nghiên cứu, làm thí điểm và 
tổng kết thực tiễn để làm rõ, có bước đi thích 
hợp, không nóng vội, chủ quan, duy ý chí. 
Những chủ trương đã thực hiện, nhưng thực 
tiễn khẳng định là không phù hợp thì điều 
chỉnh, sửa đổi ngay.
Về mục tiêu: Đổi mới, hoàn thiện hệ 
thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở 
nhằm xây dựng tổ chức bộ máy đồng bộ, 
tinh gọn, có tính ổn định, phù hợp với chức 
năng, nhiệm vụ; xây dựng đội ngũ cán bộ, 
công chức có số lượng hợp lý, có phẩm chất 
chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực chuyên 
môn nghiệp vụ ngày càng cao, đáp ứng được 
yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị và có 
tiền lương, thu nhập bảo đảm cuộc sống.
2. Xây dựng, hoàn thiện thể chế 
chính trị ở Việt Nam theo Văn kiện Đại hội 
XII của Đảng 
Đại hội XII xác định, tiếp tục đổi mới, 
kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và hệ 
thống chính trị theo hướng tinh gọn, nâng 
cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo, điều 
hành; nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, 
công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập thể 
lãnh đạo với cá nhân phụ trách... Đặc biệt 
là hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế 
kiểm soát quyền lực nhằm ngăn ngừa sự lạm 
quyền, vi phạm kỷ luật, kỷ cương: “Xây dựng 
tổ chức bộ máy của toàn hệ thống chính trị 
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy 
mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, 
lãng phí, quan liêu”.
2.1. Đối với Đảng
Nhất quán với quan điểm, chủ trương, 
đường lối mà Đảng ta đã nêu ra từ các kỳ 
Đại hội trước, tại Đại hội XII, Đảng ta tiếp 
tục khẳng định: Đảng lãnh đạo là yếu tố tiên 
quyết đảm bảo sự vận hành của cơ chế, làm 
cho cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản 
lý, Nhân dân làm chủ đạt hiệu quả, thực sự 
đi vào cuộc sống. Sự khẳng định vai trò lãnh 
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội, 
đối với cách mạng Việt Nam là một vấn đề có 
tính nguyên tắc. Đây là một quy luật khách 
quan, không tự nhiên mà có và không phải cứ 
tự nhận mà được.
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác 
định nhiệm vụ đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ 
máy Đảng và hệ thống chính trị trong thời 
gian tới: “Tiếp tục đổi mới bộ máy của Đảng 
và hệ thông chính trị theo hưóng tinh gọn, 
nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo, chỉ 
đạo, điều hành. Đổi mối, kiện toàn tổ chức 
bộ máy pliải gắn vói hoàn thiện chức năng, 
nhiệm vụ, nâng cao chất lượng đội ngũ cán 
bộ, công chức; xác định rõ quan hệ giữa tập 
thê lãnh đạo với cá nhân phụ trách; quyền 
hạn đi đôi với trách nhiệm và đề cao trách 
nhiệm của ngưòi đứng đầu. Hoàn thiện và 
thực hiện ngliiêm cơ chế kiểm soát quyền lực, 
ngăn ngừa sự lạm quyền, vi phạm kỷ luật, 
kỷ cương. Nghiên cứu thực hiện thí điểm 
hợp nhất một số cơ quan đảng và nhà nước 
tương đồng về chức năng, nhiệm vụ”. Để 
Đảng ta hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo Nhà 
nước và xã hội, đáp ứng được sự kỳ vọng, 
mong muốn của Nhân dân, Đảng phải “đoàn 
kết, đổi mới, dân chủ, trí tuệ, kỷ cương”, có 
đường lối lãnh đạo đúng đắn và sáng suốt; có 
72 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
biện pháp nhân lên sức mạnh nội sinh để phát 
huy cao nhất sức mạnh của khối đại đoàn kết 
toàn dân tộc và thời đại; tạo mọi điều kiện 
thuận lợi để Nhân dân làm chủ xã hội và phát 
huy tốt vai trò quản lý của Nhà nước ngay 
từng địa phương, cơ sở. Cùng với đó, Đảng 
phải đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống nguy 
cơ thoái hoá, biến chất, “tự diễn biến”, “tự 
chuyển hoá” trong nội bộ; chủ động, tích 
cực đấu tranh phòng, chống chiến lược “diễn 
biến hoà bình” chống phá Việt Nam do các 
thế lực thù địch chủ mưu. Điều đó chỉ có thể 
thực hiện tốt khi cơ chế vận hành: Đảng lãnh 
đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ 
được tiếp tục phát huy cao nhất. Trong đó, 
Đảng phải thật sự là nhân tố lãnh đạo có trí 
tuệ, là đạo đức, là văn minh. Văn kiện nhấn 
mạnh: “Tiếp tục cụ thể hoá phương thức lãnh 
đạo của Đảng đã được xác định trong Cương 
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ 
lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 
2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, 
quy định, quy trình cụ thể. Quy định rõ hơn 
Đảng phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của 
nhân dân về những quyết định của mình”.
2.2. Đối với Nhà nước
Văn kiện Đại hội XII của Đảng xác 
định: 
“Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà 
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do Đảng 
lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới 
hệ thống chính trị
Trong tổ chức và hoạt động của Nhà 
nước, phải thực hiện dân chủ, tuân thủ các 
nguyên tắc pháp quyền và phải tạo ra sự 
chuyển biến tích cực, đạt kết quả cao hơn. 
Xây dựng Nhà nước pháp quyền phải tiến 
hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, tư 
pháp và được tiến hành đồng bộ vói đổi mới 
hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu 
lực, hiệu quả; gắn vói đổi mới kinh tế, văn 
hoá, xã hội. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo 
vệ Hiến pháp và pháp luật.
Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm 
vụ, phương thức và cơ chế vận hành, nâng 
cao hiêu lực, hiệu quả của Nhà nước pháp 
quyền xã hội chủ nghĩa
Tiếp tục hoàn thiện chức năng, nhiệm 
vụ, quyền hạn, tổ chức của Nhà nước theo 
quy định của Hiến pháp năm 2013, đáp ứng 
các đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội 
chủ nghĩa trong điều kiện phát triển kinh tế 
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và 
hội nhập quốc tế. Nhà nước được tổ chức 
và hoạt động theo Hiếp pháp và pháp luật, 
quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, 
thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Phân 
định rõ hơn vai trò và hoàn thiện cơ chế giải 
quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước và thị 
trường”. 
Đảng ta đã nhìn nhận thẳng thắn, đánh 
giá đúng những ưu điểm và nghiêm khắc chỉ 
ra những tồn tại, hạn chế trong xây dựng và 
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN ở 
nước ta trong thời gian qua, đồng thời xác 
định những nguyên nhân cốt lõi nhất của hạn 
chế, khuyết điểm. Theo đó, những tồn tại, hạn 
chế trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước 
pháp quyền ở nước ta trong thời gian qua 
được Đảng ta chỉ ra bao gồm cả những vấn 
đề thuộc về thể chế, cơ chế, chính sách; cả về 
tổ chức và hoạt động; cả về yếu tố con người. 
Về nguyên nhân của những hạn chế, Báo cáo 
chính trị Đại hội XII của Đảng không trình 
bày dàn trải mà chỉ tập trung vào hai nguyên 
nhân cơ bản nhất: “Xây dựng Nhà nước pháp 
73Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
quyền XHCN là vấn đề mới đối với nước ta. 
Sự phân định giữa vai trò lãnh đạo của Đảng 
và vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước 
còn những nội dung chưa rõ; phương thức và 
cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước 
ở các cấp còn nhiều điểm chưa được chế định 
rõ và phù hợp với nguyên tắc của Nhà nước 
pháp quyền. Tổ chức thực hiện pháp luật và 
pháp chế XHCN chưa nghiêm”. Nếu nguyên 
nhân thứ nhất là khách quan, thì nguyên nhân 
thứ hai là chủ quan, trong đó tập trung trọng 
tâm vào vai trò của Đảng. Cách nhìn nhận, 
đánh giá như vậy cho thấy, Đảng ta đã sẵn 
sàng cho một sự “chuyển mình” cả về nhận 
thức và hành động trong thời gian tới, nhằm 
tháo gỡ, minh bạch, chính xác hóa mối quan 
hệ Đảng - Nhà nước. Đây cũng chính là then 
chốt cho sự hoàn thiện Nhà nước pháp quyền 
ở nước ta hiện nay.
2.3. Đối với Mặt trận Tổ quốc Việt 
Nam và các tổ chức chính trị - xã hội
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân 
dân tiếp tục tăng cường tổ chức, đổi mới nội 
dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình 
trạng hành chính hoá, phát huy vai trò nòng 
cốt tập hợp, đoàn kết nhân dân xây dựng cơ 
sở chính trị của chính quyền nhân dân; thực 
hiện dân chủ, giám sát và phản biện xã hội; 
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong 
sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi 
đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân 
dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh 
tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối 
ngoại.
Tiếp tục rà soát, kiện toàn tổ chức bộ 
máy của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể 
chính trị - xã hội theo hướng tinh gọn, rõ 
chức năng, nhiệm vụ, không chồng chéo. Đổi 
mới phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản 
lý của Nhà nước, cơ chế tài chính đối với Mặt 
trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã 
hội, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các 
đoàn thể chính trị - xã hội tăng thêm tính tự 
chủ, chủ động hơn trong hoạt động, không bị 
“hành chính hóa”, để gần dân, sát dân hơn.
Thực hiện có hiệu quả quy chế phối 
hợp, quy định về giám sát, phản biện xã hội 
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính 
trị - xã hội, cơ chế để nhân dân tham gia góp ý 
xây dựng Đảng, chính quyền. Quy định chặt 
chẽ về tổ chức và hoạt động của các hội theo 
nguyên tắc tự nguyện, tự quản, tự bảo đảm 
kinh phí hoạt động và tuân thủ pháp luật. Sửa 
đổi, bổ sung các quy định của Nhà nước về tổ 
chức quản lý, và hoạt động hội phù hợp với 
tình hình mới.
3. Đánh giá chung về đổi mới và hoàn 
thiện thể chế chính trị ở Việt Nam
Đảng ta đã nhận thức rõ hơn bản chất 
của thể chế chính trị. Thực chất và mục tiêu 
về xây dựng, hoàn thiện thể chế chính trị 
trong thời kỳ đổi mới là thực hiện dân chủ, 
phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Cơ 
chế vận hành của hệ thống chính trị ở nước ta 
là: “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân 
dân làm chủ”, chú trọng phát huy vai trò của 
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức 
chính trị - xã hội trong sự nghiệp đại đoàn kết 
toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, 
thực hiện dân chủ và xây dựng xã hội lành 
mạnh, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, 
tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết 
giữa nhân dân với Đảng, Nhà nước; thực hiện 
chức năng giám sát và phản biện xã hội.
Đảng ta xác định trong thời gian tiếp 
theo cần: “đổi mới toàn diện, tiếp tục hoàn 
74 Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
thiện hệ thống chính trị cả về chức năng, cơ 
cấu tổ chức, cơ chế vận hành, về đội ngũ cán 
bộ và phương thức hoạt động của các tổ chức 
trong hệ thống chính trị ở tất cả các cấp. Đổi 
mới chính trị phải đồng bộ, phù hợp với đổi 
mới kinh tế, trọng tâm là đổi mới phương 
thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng Nhà nước 
pháp quyền xã hội chủ nghĩa”.
Tài liệu tham khảo:
1. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn 
tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, t.47, 
tr.470
2. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn 
tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, t.52, 
tr.196
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị 
lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương khóa 
VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1999, tr.34
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị 
lần thứ tư Ban chấp hành Trung ương khóa X, 
Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.28-29
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.238
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.188
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 264
8. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 99
9. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 99
10. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.432
11. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.203
12. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.214-215
13. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội 
đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.175-176
14. Đảng Cộng sản Việt Nam: Báo cáo tổng kết 
một số vấn đề lý luận – thực tiễn qua 30 năm đổi 
mới (1986-2016), Nxb. Chính trị quốc gia - Sự 
thật, Hà Nội, 2015, tr.141
Địa chỉ tác giả: Học viện Chính trị Quốc gia Hồ 
Chí Minh 
Email: nguyenhungxdd135@gmail.com

File đính kèm:

  • pdfthe_che_chinh_tri_viet_nam_trong_thoi_ky_doi_moi.pdf