Thoát khỏi ung thư (Phần 2)
Ung thư thật đơn giản.
Y học chính thống làm chúng ta khiếp sợ với chẩn đoán ung thư bởi vì phương pháp điều trị hành
hạ bệnh nhân. Bill Henderson nói: "Chẳng có ký ức nào mạnh mẽ hơn là chứng kiến thân thể người
vợ quá cố của tôi suy sụp bởi bốn năm ung thư với hóa trị, xạ trị và thuốc giảm đau.
Cuộc vật lộn của cô ấy với ung thư đã khiến tôi nghiên cứu tìmcâu trả lời. Làm thế nào ta có
thể nhẹ nhàng đối mặt với ung thư? Làm thế nào chúng ta có thể phòng ngừa ung thư? Để làm được
điều đó,trước hết chúng ta phải hiểu ung thư."
Vài con số về ung thư
Đầu tiên, chúng tôi cung cấp cho bạn một vài con số. Năm 2004, ung thư là nguyên nhân tử vong
hàng đầu ở Mỹ. Khoảng 24% bệnh nhân tử vong mỗi năm được công bố do ung thư.
Để ý chữ "khoảng". Bill nói: "Như tôi kể ở trên, người vợ quácố của tôi - Marjorie, đã chết
ngày 1 tháng 11 năm 1994 sau cuộc vật lộn bốn năm với ung thư. Trong giấy chứng tử của cô ấy,
bác sĩ ghi "suy tim" là nguyên nhân của cái chết. Hiển nhiên mọi thống kê về tỉ lệ tử vong đều cần
được làm tỉ mỉ. Những người bạn là bác sĩ của tôi nói với tôi rằng luật yêu cầu họ phải đưa vào
nguyên nhân cuối cùng của tử vong, chứ không phải nguyên nhân trước đó theo bấtcứ nghĩa nào."
Hơn một triệu người Mỹ được chẩn đoán ung thư mỗi năm và hơn nửa triệu giấy chứng tử viện dẫn
ung thư là nguyên nhân tử vong.
Có 800.000 người khác nữa bị ung thư phát triển nhỏ không-xâm lấn và nhiều loại ung thư da ôn
hòa, cả hai loại này nói chung không lan truyền và có thể chữa khỏi dễ dàng. Những loại ung thư này
không được tính đến trong thống kê ung thư hàng năm.
Với phụ nữ từ 35 đến 74 tuổi thì ung thư là nguyên nhân hàng đầu của tử vong. Với đàn ông cùng
độ tuổi đó, ung thư đứng thứ hai sau tim mạch là nguyên nhân của tử vong.
Bất chấp tỉ lệ mắc ung thư cao và "cuộc chiến ung thư" của chính quyền liên bang bắt đầu từ năm
1974 và được tài trợ nhiều trăm tỉ đô-la cho nghiên cứu, hầu như không có tiến bộ nào trong chữa trị
những dạng ung thư phổ biến nhất.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có 7,9 triệu ca tử vong năm 2007 (13% trong tổng tử vong)
là do ung thư. Dự kiến con số này vẫn tiếp tục nâng cao đến 12 triệu ca tử vong vào năm 2030. Con
số đó quá lớn và sự chịu đựng là không thể hiểu nổi.
Ở Mỹ, tỉ lệ tử vong do ung thư tăng 8% vào năm 2004 so với năm 1970, ngay trước "cuộc chiến
ung thư" được phát động. Bất chấp số lượng lớn mọi người đã bỏ thuốc lá trong những năm gần đây,
theo Viện Ung thư Quốc gia (National Cancer Institute) thì tỉ lệ mắc một số loại ung thư phổ biến như
ruột, vú, tiền liệt tuyến. vẫn tăng vọt.Nói cách khác, ở Mỹ cứ hai người đàn ông thì có một người vàcứ ba người phụ nữ thì có một
người bị ung thư - trừ phi ta hiểu nó tốt hơn và thay đổi lối sống mà tôi sẽ chỉ cho bạn.
Nếu khối u được phát hiện sớm và cắt đi, thì tỉ lệ nó sẽ không tiếp tục phát triển hoặc xuất hiện
vào khoảng 50%. Một khi ung thư đã di căn (phát tán đến chỗ khác trong cơ thể) thì hóa trị và/hoặc
xạ trị sẽ chỉ chữa khỏi cho khoảng 2%. Chúng tôi không thích những tỉ lệ đó và không chấp nhận
chúng. Còn bạn?
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thoát khỏi ung thư (Phần 2)
CHƯƠNG 3 UNG THƯ LÀ GÌ? "Những triết lý của một thế hệ trở nên ngớ ngẩn ở thế hệtiếp theo và sự ngu ngốc của ngày hôm qua lại trở nên sáng suốttrong ngày mai." WILLIAM OSLER (1902) Ung thư thật đơn giản... Y học chính thống làm chúng ta khiếp sợ với chẩn đoán ung thư bởi vì phương pháp điều trị hành hạ bệnh nhân. Bill Henderson nói: "Chẳng có ký ức nào mạnh mẽ hơn là chứng kiến thân thể người vợ quá cố của tôi suy sụp bởi bốn năm ung thư với hóa trị, xạ trị và thuốc giảm đau. Cuộc vật lộn của cô ấy với ung thư đã khiến tôi nghiên cứu tìmcâu trả lời. Làm thế nào ta có thể nhẹ nhàng đối mặt với ung thư? Làm thế nào chúng ta có thể phòng ngừa ung thư? Để làm được điều đó,trước hết chúng ta phải hiểu ung thư." Vài con số về ung thư Đầu tiên, chúng tôi cung cấp cho bạn một vài con số. Năm 2004, ung thư là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở Mỹ. Khoảng 24% bệnh nhân tử vong mỗi năm được công bố do ung thư. Để ý chữ "khoảng". Bill nói: "Như tôi kể ở trên, người vợ quácố của tôi - Marjorie, đã chết ngày 1 tháng 11 năm 1994 sau cuộc vật lộn bốn năm với ung thư. Trong giấy chứng tử của cô ấy, bác sĩ ghi "suy tim" là nguyên nhân của cái chết. Hiển nhiên mọi thống kê về tỉ lệ tử vong đều cần được làm tỉ mỉ. Những người bạn là bác sĩ của tôi nói với tôi rằng luật yêu cầu họ phải đưa vào nguyên nhân cuối cùng của tử vong, chứ không phải nguyên nhân trước đó theo bấtcứ nghĩa nào." Hơn một triệu người Mỹ được chẩn đoán ung thư mỗi năm và hơn nửa triệu giấy chứng tử viện dẫn ung thư là nguyên nhân tử vong. Có 800.000 người khác nữa bị ung thư phát triển nhỏ không-xâm lấn và nhiều loại ung thư da ôn hòa, cả hai loại này nói chung không lan truyền và có thể chữa khỏi dễ dàng. Những loại ung thư này không được tính đến trong thống kê ung thư hàng năm. Với phụ nữ từ 35 đến 74 tuổi thì ung thư là nguyên nhân hàng đầu của tử vong. Với đàn ông cùng độ tuổi đó, ung thư đứng thứ hai sau tim mạch là nguyên nhân của tử vong. Bất chấp tỉ lệ mắc ung thư cao và "cuộc chiến ung thư" của chính quyền liên bang bắt đầu từ năm 1974 và được tài trợ nhiều trăm tỉ đô-la cho nghiên cứu, hầu như không có tiến bộ nào trong chữa trị những dạng ung thư phổ biến nhất. Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), có 7,9 triệu ca tử vong năm 2007 (13% trong tổng tử vong) là do ung thư. Dự kiến con số này vẫn tiếp tục nâng cao đến 12 triệu ca tử vong vào năm 2030. Con số đó quá lớn và sự chịu đựng là không thể hiểu nổi. Ở Mỹ, tỉ lệ tử vong do ung thư tăng 8% vào năm 2004 so với năm 1970, ngay trước "cuộc chiến ung thư" được phát động. Bất chấp số lượng lớn mọi người đã bỏ thuốc lá trong những năm gần đây, theo Viện Ung thư Quốc gia (National Cancer Institute) thì tỉ lệ mắc một số loại ung thư phổ biến như ruột, vú, tiền liệt tuyến... vẫn tăng vọt. Nói cách khác, ở Mỹ cứ hai người đàn ông thì có một người vàcứ ba người phụ nữ thì có một người bị ung thư - trừ phi ta hiểu nó tốt hơn và thay đổi lối sống mà tôi sẽ chỉ cho bạn. Nếu khối u được phát hiện sớm và cắt đi, thì tỉ lệ nó sẽ không tiếp tục phát triển hoặc xuất hiện vào khoảng 50%. Một khi ung thư đã di căn (phát tán đến chỗ khác trong cơ thể) thì hóa trị và/hoặc xạ trị sẽ chỉ chữa khỏi cho khoảng 2%. Chúng tôi không thích những tỉ lệ đó và không chấp nhận chúng. Còn bạn? Một cái nhìn thú vị khác vào bằng chứng thống kê về "thành công" của điều trị ung thư chính thống được một nhóm ba nhà nghiên cứu chuyên nghiệp tại Úc thực hiện. Công bố năm 2004 trong Tạp chí ung thư (Journal of Oncology), nghiên cứu này đã xem xét các hồ sơ của hơn 200.000 bệnh nhân ung thư ở Mỹ và Úc từ 1990 đến 2004. Họ nhận thấy mức tăng trung bình của 5-năm sống sót trong số những người được điều trị bằng hóa trị liệu liều cao là 2,1% ở Mỹ và 2,3% ở Úc. Hãy đặt mình vào vị trí của chuyên gia ung thư. Với tỉ lệthất bại 98% của hóa trị trong việc kéo dài sự sống của bệnh nhân, bạn không bi quan sao khi họ sắp được bạn tiên đoán? Ung thư đến từ đâu? Tất cả các ung thư có nguồn gốc từ tế bào bình thường của cơ thể chúng ta. Do vậy, điều trị một cách nhẹ nhàng rất có ý nghĩa. Hầu hết ung thư phát sinh từ sự tiếp xúc của chúng ta với môi trường xung quanh. Gần 1/3 ung thư được chẩn đoán ở châu Âu và Mỹ có liên quan đến sử dụng thuốc lá. Con số đó nghĩa là hơn 150.000 ca tử vong mỗi năm ở Mỹ. Thức ăn đóng góp cũng khoảng 1/3 ung thư, đặc biệt là ung thư dạ dày và đường ruột. Người gầy có ít rủi ro hơn về ung thư vú, tiền liệt tuyến và tử cung. Điều này có lẽ vì những ung thư này liên quan đến mật độ cao của hoóc-môn giới tính, estrogen và testosterone. Những hoóc-môn này tàng chứa trong chất béo. Những người uống nhiều rượu rất dễ mắc ung thư miệngvà gan. Những nguy hiểm nghề nghiệp như môi trường làm việc thường xuyên phải tiếp xúc với asbestos và formaldehyde là nguyên nhân gây ra 5% ung thư. Điều ngạc nhiên là chỉ khoảng 3% ung thư là có yếu tố di truyền. Nhóm ung thư xảy ra trong một gia đình thường có nguyên nhân giống nhau là những lựa chọn lối sống - đặc biệt là chế độ ăn. Điều quan trọng nhất cần phải biết về nguyên nhân gây ung thư là trong mọi trường hợp nó thường là nguyên nhân của: 1) một tổn thương tình cảm như mất đứa con một cách bi thảm hoặc áp lực tinh thần kéo dài như do ly dị; 2) ống tủy răng và/hoặc lỗ hổng răng. Chúng ngăn cản hệ miễn dịch và cho phép ung thư phát triển (trong một điều kiện thuận lợi); và 3) những thứ chúng ta đưa vào miệng - chắc chắn là thuốc lá và rượu, và cả thức ăn nữa. Thực phẩm nấu chín không có enzyme và có ít chất bổ. Enzyme là chất thiết yếu để tiêu hóa thức ăn. Tuyến tụy phải sản xuất tất cả enzyme để tiêu hóa thức ăn đã nấu chín. Quá trình [tiêu hóa] không suôn sẻ 100%. Màng tế bào của chúng ta (phương tiện giao tiếp chính của tế bào) bị "mắc kẹt" với các phân tử không tiêu hóa được từ thức ăn nấu chín. Việc thiếu các chất dinh dưỡng, enzyme và số lượng khổng lồ các hóa chất trong tất cả đồ ăn siêu thị đóng gói hoặc đóng hộp là bê bối chính và chịu trách nhiệm cho hàng triệu người tử vong mỗi năm. Thực phẩm tươi sống các loại có các enzyme mà cơ thể chúng ta cần để tiêu hóa. Có ngạc nhiên không khi các bệnh nhân tiểu đường cải thiện được các chỉ số trong một vài tuần sau khi áp dụng chế độ ăn thực phẩm tươi sống? Tiểu đường cũng giống như ung thư là kết quả của một đứt vỡ trong liên kết của tế bào. Cải thiện màng tế bào chữa lành bệnh tiểu đường cũng như ung thư. Một trong những khác biệt lớn nhất giữa chế độ ăn uống lành mạnh Địa Trung Hải và chế độ ăn uống của Mỹ là chế độ ăn trước chứa nhiều dầu Omega 3 hơn. Chế độ ăn sau chứa nhiều dầu Omega 6. Các dầu Omega 3 là thiết yếu cho hoạt động khỏe mạnh của màng tế bào. Giải thích tuyệt vời về tế bào của chúng ta giao tiếp như thế nào, viết cho người thường, hãy đọc cuốn Sinh học của niềm tin (Biology of Belief) của tiến sĩ Bruce Lipton. Ung thư chính xác là gì? Ung thư có nghĩa là sự phát triển của khối u. Hầu hết các loại ung thư (khoảng 90%) liên quan đến một khối u. Tuy nhiên, không phải mọi khối u đều là ung thư. Ung thư cũng bao gồm một loạt các (những gì bác sĩ gọi) "bệnh" nhưng không biểu hiện các khối u. Chúng gồm các ung thư hệ thống bạch cầu gọi là "ung thư hệ bạch huyết", các ung thư máu như "bạch cầu", và các ung thư da như "u hắc sắc tố". Như bạn sẽ thấy, chúng tôi không tin ung thư hay bất cứ bệnh suy thoái nào là một "bệnh". Chính xác hơn, đó là một "phản ứng". Thông thường, đó là phản ứng đối với lựa chọnlối sống của bạn và những gì xảy ra với bạn trong những năm trước đó. Ngoài hút thuốc, uống rượu và những lựa chọn dại dột khác, nếu không phải là tổn thương tình cảm hay ống tủy răng thì nguyên nhân trực tiếp hầu như luôn luôn là chế độ ăn uống. Thường thì cả ba đều liên quan. Có khoảng 3 đến 4% các loại ung thư bắt nguồn từ gen di truyền. Còn 96 đến 97% gây ra bởi sự đứt gãy trong giao tiếp của tế bào mà chúng tôi đã nêu ở trên. Nỗ lực giải thích về sự đứt gãy này là rất khác nhau. Một số cho rằng "vi khuẩn" trong các tế bào tạo ra tế bào ung thư; số khác cho rằng "gốc tự do" làm hư hại ADN; số khác lại cho rằng một lớp phủ của đạm khó tiêu trên màng tế bào; số khác nữa cho rằng sự "thụt áp" trong tế bào; số khác nữa thì cho rằng do độ a-xít. Bạn thấy đấy, các chuyên gia không thống nhất nguyên nhân chính xác về "sự cố tế bào" này. Một điều chắc chắn là: Nếu cơ thể bạn (nhất là hệ miễn dịch) đủ khỏe mạnh để chống trả tất cả độc tố đưa vào hoặc khu trú trong cơ thể thì bạn không bị "phản ứng" gọi là ung thư. Một điểm chung cho tất cả ung thư là sự phá hỏng ADN trong nhân tế bào. ADN được nhân đôi với mỗi phân chia tế bào. Trung bình người trưởng thành có 75 nghìn tỉ tế bào trong cơ thể. Xin nhắc lại 75.000.000.000.000 tế bào. 99% tế bào trong cơ thể chúng ta là tế bào "thân". Toàn bộ tế bào của chúng ta, trừ tế bào não và thần kinh, đều được thay thế hàng nghìn hoặc hàng trăm nghìn lần trong suốt cuộc đời. Trong vòng bảy năm, quá trình tế bào phân đôi và chết đi thay thế gần như mọi tế bào trong thân thể chúng ta. Một cách nhìn khác là mỗi ngày có khoảng 300 tỉ tế bào được thay thế trong cơ thể chúng ta. Tại sao điều này lại quan trọng? Bởi vì "lỗi" không tránh khỏi phát sinh trong quá trình này là một trong những "nguyên nhân" nêu trên. Nếu những "lỗi" của ADN trong tế bào chỉ chiếm 0,003% (ba phần nghìn phần trăm) thời gian thì chúng ta đã sản sinh mười triệu tế bào ung thư mỗi ngày. Con số đó chắc là còn dè dặt. Một tỉ tế bào ung thư có kích cỡ bằng cục tẩy ở đầu bút chì. Những vấn đề của sự phân đôi Khi một tế bào phân đôi thì ADN trong tế bào đó được sao chép và chuyển sang tế bào mới. Thế nhưng ADN trong bất kỳ một tế bào nào có thể đã bị hư hỏng. Những chỉ dẫn trên gen có thể bị phá vỡ hoặc thay đổi - đột biến. Nếu đột biến này xảy ra nhầm vị trí - tại gen hoạt tính chẳng hạn - nó có thể phá vỡ chức năng của tế bào, nếu điều đó xảy ra nó sẽ làm mất đi khả năng tồn tại với "hô hấp" bình thường. Đúng thế, mỗi tế bào hít vào ô-xy để tạo ra năng lượng. Cơ thể đẹp đẽ của bạn có một hệ điều hòa kỳ diệu. Ví dụ khi bạn bị đứt tay, các tế bào sẽ tiến hành làm công việc sửa chữa tổn hại. Khi lượng tế bào tụ tập đến vết thương để chữa đã đủ thì tế bào ngừng phân đôi. Đã bao giờ bạn tự hỏi sao lại thế chưa? Đó là do có một "gen tự sát" trong ADN nói lên "đủ rồi". Không những tổng lượng tế bào bị kiểm soát, mà những gen "hiệu chỉnh" trong ADN còn tìm kiếm những bất thường trong tế bào. Khi chúng tìm thấy một bất thường, chúng sẽ hoặc là chỉnh lại hoặc là tiêu diệt tế bào đó. Chúng làm việc 24/7. Ngạc nhiên chưa? Hệ miễn dịch của bạn (khoảng 20 nghìn tỉ trong 75 nghìn tỉ tế bào) cũng tiêu diệt những tế bào hư hỏng lên đến hàng triệu mỗi ngày. Đó là hàng phòng thủ thứ hai của bạn chống lại những tế bào bất thường. Các tế bào ung thư trông khác thường đối với hệ miễn dịch của bạn bởi vì chúng đã mất khả năng sử dụng ô-xy. Thay vào đó, chúng sử dụng quá trình lên men của fructose và glucose cho năng lượng của chúng. Trong thực tế, chúng có khoảng 17 lần các thụ thể cho glucose trên màng của chúng như một tế bào bình thường. Vậy thì các tế bào ung thư (phân đôi ngoài kiểm soát) xuất hiện hàng ngày trong cơ thể bạn. Nếu các tế bào có chức năng "cảnh sát" bị thất bại, thì hệ miễn dịch phải nhận biết tế bào "ương ngạnh" này và tiêu diệt nó. Hệ miễn dịch không gì khác là những tế bào chuyên dụng. 130 loại tế bào khác nhau của hệ miễn dịch sống trong cùng "môi trường" như những tế bào khác trong cơ thể bạn. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng bị yếu đi bởi cũng quá trình đó mà gây ra phân đôi "bất thường" của tế bào? Khi đó thì sao? Tế bào đã mất khả năng "tự sát" của nó. Gen "hiệu chỉnh" đã bỏ qua lỗi. Hệ miễn dịch của bạn quá yếu để làm hàng phòng thủ thứ hai như thông thường. Kết quả là: bị ung thư. Các tế bào ung thư thường di chuyển đến bộ phận yếu nhấtvà nhiều a-xít nhất trong cơ thể bạn và một khối u được nuôi dưỡng. U ung thư phát triển do các tế bào "con cái" kế thừa cùng nhóm gen bất thường đó. Một số u ung thư phát triển rất chậm và không được chẩn đoán sau 5-15 năm. Số khác phát triển nhanh hơn và được ghi nhận chỉ trong một vài tháng hoặc vài ba năm. Và tất nhiên một số ung thư (bạch cầu, hệ bạch huyết và u melanin) không hề phát triển thành khối u. Có khoảng 90% ung thư liên quan đến khối u. Khối u ung thư Hãy quan sát một khối u ung thư điển hình, giả sử trong đường ruột. Một khối u (triệu chứng ung thư) là lượng (thường là tỉ) tế bào ung thư được mô bao quanh. Các tế bào ung thư không phải là tổ chức cơ quan. Khối u ung thư chính là "phản ứng cấp cứu" của cơ thể chúng ta đối với những tế bào không bình thường bị mất kiểm soát. Cơ thể chúng ta cố gắng "ngăn cách chúng" với các tế bào còn lại để hạn chế hư hại bằng cách gói chúng trong mô. Tất nhiên là các tế bào ung thư vẫn tiếp tục phân đôi ngoài sự kiểm soát và khối u phát triển. Vào thời điểm nào đó, tác động của khối u được bạn hay bác sĩ của bạn "ghi nhận", thường là sau vài tháng hoặc vài năm. Bạn cảm thấy có một cục u hay bạn thấy chảy máu bất thường hoặc đau, ví dụ thế. Điển hình khi đó bác sĩ ung thư của bạn sẽ tiến hành một vài "thủ pháp" thăm khám. Thông thường, là chiếu chụp hoặc xét nghiệm máu, và tiếp theo thường là "sinh thiết". Về lý thuyết, sinh thiết là chọc một lỗ vào mô khối u và lấy ra mẫu tế bào bên trong khối u để xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Luôn có nhiều cách ít can thiệp hơn [ít xâm lấn] để chẩn đoán ung thư. Bạn nghĩ việc này có ích chăng? Vâng, phải rồi. Nó chẳng íchgì. Phá vỡ nguyên trạng của mô quanh khối u thường dẫn đến sự phát tán của các tế bào ung thư. Không có "thủ pháp" này chúng có thể đã "nằm yên" bên trong lớp mô khối u. Lấy khối u ra bằng phẫu thuật luôn luôn có hiệu ứng tươngtự. Nhà phẫu thuật nói "Ta đã lấy hết", trong khi thực tế ông/bà ấy lấy đi phần lớn tế bào ung thư, nhưng một số đã thoát khỏi "thủ pháp" này. Vậy thì có luôn luôn thông minh hơn không khi chối từ lấy sinh thiết và phẫu thuật? Vài tranh cãi trong y tế thích hợp với "luôn luôn": Sinh thiết, được. Phẫu thuật, đôi lúc. Có số ít trường hợp thủ pháp dùng phẫu thuật hoặc "dao gama" để "lấy" khối u ra là cần thiết - như một số u não và u ruột chẳng hạn. Bạn có muốn biết chúng tôi sẽ làm gì không? Đơn giản là tránh mọi "thủ pháp" có thể làm phát tán (di căn) các tế bào ung thư, trừ phi cuộc sống của bạn đang bị đe dọa. Chúng tôi biết rằng một khối u hiếm khi giết được chúng tôi, cho dù nó ác hiểm (ác tính) hay không. Với một chế độ (xem Chương 5) đưa hầu hết các ung thư vào sự kiểm soát trong vài tuần, bạn hiếm khi cần "những thủ pháp" can thiệp đó. Xin lưu ý rằng quan điểm lạc quan về thời gian phục hồi này chỉ áp dụng cho các bệnh nhân ung thư không trải qua hóa trị hoặc xạ trị. Những phương pháp này làm tổn hại rất lớn đến khả năng phục hồi của cơ thể. Khi đó việc phục hồi mất hàng tháng chứ không phải hàng tuần. Gốc tự do là gì? Gốc tự do, một trong những nguyên nhân phổ biến nhất sinh ra ADN ung thư, nằm trong sự kiểm soát của bạn. Gốc tự do là gì? Hàng ngày chúng ta sản xuất ra hoặc đưa vào hàng triệu gốc tự do. Chúng là những hợp chất có một điện tử không ghép cặp trong nguyên tử của chúng. Dù có cố gắng đến mấy bạn không thể tránh gốc tự do. Chúng nằm trong cơ thể bạn và có trong không khí. Giữa ... ra, các nguồn cung cấp thuốc đều ở nước ngoài, độc giả đọc sách rồi mà không mua được thuốc tại Việt Nam thì cũng chả ích lợi gì nhiều. Xuất phát từ ý nghĩ đó, tôi đã liên hệ với Tập đoàn Y tế AMV - là một Tập đoàn có uy tín trong nước, để nhập khẩu và phân phối một số thuốc và thực phẩm bổ sung nêu trong sách. Bạn có thể tìm hiểu thêm về Tập đoàn tại: www.amv.vn www.thoatkhoiungthu.com E-mail: infor@amv.vn Tel: (+84 4) 6258 6666 Đường dây nóng: 098 877 8822 SỔ TAY 4 CHỮA ĐAU LƯNG NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ LƯNG TSM - Sự kết nối thú vị tinh thần và thể xác Đau lưng và, trong phạm vi hẹp hơn, đau vai và cổ là than phiền phổ biến. Khoảng chừng 80% dân số Mỹ có tiểu sử đau cái này hay cái khác. Đây là nguyên nhân đầu tiên của công nhân nghỉ việc trong quốc gia. Là nguyên nhân xếp hàng thứ hai phải đi khám bác sĩ sau viêm nhiễm hô hấp. Một bài báo của Tạp chí Forbes tháng 8 năm 1986 công bố 56 tỉ đô-la chi phí hàng năm để chống chọi với những hậu quả của đau lưng và cổ. Nay thì cao hơn nhiều, bạn có thể tin chắc điều đó. Bác sĩ không thể nhìn thấy đau. Vì thế, lý thuyết về cái gì gây ra đau lưng và cổ vẫn chỉ là lý thuyết. May mắn lắm thì một cuộc phẫu thuật "cố định" việc "lệch đĩa đệm" được dự đoán là nguyên nhân gây đau. Có nhiều bằng chứng về nhiều cuộc phẫu thuật được thực hiện trên cột sống là không cần thiết. Trở lại năm 1985, bác sĩ Hubert Rosomoff - nhà phẫu thuật thần kinh nổi tiếng và chủ tịch Ban của ông ấy ở Trường Y Miami, đã công bố bài viết nhan đề "Thoát vị đĩa đệm có gây đau không?" Bác sĩ Rosomoff làm phẫu thuật lưng đã nhiều năm. Kết luận của ông dựa trên lô-gíc cũng như kinh nghiệm. Ông nói rằng nén liên tục lên thần kinh sẽ gây ra ngừng truyền thông điệp đau sau một thời gian ngắn. Kết quả là tê liệt. Vậy thoát vị đĩa đệm có thể gây đau liên tục như thế nào? Câu trả lời của ông: Nó không thể. Bác sĩ nắn xương "nắn chỉnh" lưng bạn. Họ cũng không thể nhìn thấy đau. Trong phần lớn các trường hợp, theo kinh nghiệm của chúng tôi thì những người bị đau lưng đến bác sĩ nắn xương chỉ đạt đến đỡ đau tạm thời. Cũng có thể nói như vậy với bác sĩ mát-xa, nhân điện, Rolfing, bùa chú..., bạn đặt tên đi. Đối với chúng tôi, tập luyện là "phép thuật" chữa đau lưng lâu dài. Giảm áp lực có thể là thay đổi hữu ích khác nữa. Vợ quá cố của Bill là Marge bị co thắt cơ kinh niên ở vai và cổ gây đau gần như không chịu nổi. Chẳng bác sĩ nào có khả năng chữa trị. Bác sĩ vật lý trị liệu giúp cô ấy đỡ đau, nhưng cũng chỉ tạm thời. Cô ấy bị áp lực thường xuyên bởi những hành vi tinh quái của đứa con gái tắc trách và lũ cháu. Kinh nghiệm mách bảo chúng tôi rằng nghiên cứu sau đây về nguyên nhân và chữa trị đau lưng (cả vai và cổ) là khá gần với sự thật. "Hội chứng căng cơ co giật" (Tension Myositic Syndrom - TMS) là tên của hầu hết loại đau này do bác sĩ John E. Sarno đặt ra trong cuốn "Chữa trị Đau Lưng - Kết nối Tinh thần và Thể xác" (Healing Back Pain - The Mind-Body Connection) của ông. Xuất bản năm 1991, cuốn sách này đi trước hầu hết nghiên cứu về sự tương giao giữa tinh thần và thể xác được bác sĩ Sternberg tập hợp và nói lại ở Sổ tay 1 về chế độ ăn. Lần xuất bản đầu tiên của bác sĩ Sarno năm 1984 cũng đi trước những thấu hiểu đầy sáng tạo của bác sĩ Chopra về kết nối tinh thần-thể xác. Nguyên nhân đau lưng và cổ là gì? Bác sĩ Sarno nói nguyên nhân là kìm nén cảm xúc. Hơn nữa, cái đau có tác động như ngụy trang để chúng ta không xử lý cái đau tâm lý, cái tạo ra ý thức về những kìm nén cảm xúc đó. Chúng tôi không thể gạt bỏ lý thuyết này và mong bạn cũng thế. Kết luận của ông là kết quả của 26 năm điều trị cho hàng ngàn bệnh nhân bị đau lưng và cổ. Kinh nghiệm của bác sĩ Sarno bắt đầu từ khi làm Giám đốc dịch vụ bệnh nhân ngoại trú ở Viện Phục Hồi Chức Năng Howard A. Rusk tại Trung tâm Y học Trường Đại học New York nói: "Y học chính thống đào tạo và dạy tôi những đau nhức này chủyếu do các cấu trúc không bình thường của cột sống, phổ biến nhất là đau khớp, đĩa đệm sắp xếp lộn xộn hoặc do tập hợp không rõ ràng của các tình trạng cơ được quy cho tư thế xấu, ít thể dục, cố gắng quá sức và tương tự. Trải nghiệm về điều trị những bệnh nhân này là chán nản vàthất vọng; chẳng bao giờ có thể dự đoán được kết quả. Hơn nữa, thật bất an để thừa nhận rằng kiểu đau và kết quả khám thân thể thường không tương quan với nguyên nhân được coi là của đau nhức. Ví dụ, đau có thể quy cho suy thoái khớp thay đổi ở phần thấp cột sống nhưng bệnh nhân có thể đau ở những chỗ chẳng liên quan gì đến xương ở khu vực đó. Hay ai đó có thể có một đĩa vùng thắt lưng bị thoát vị sang trái và đau ở chân phải. Cùng với nghi ngờ về độ chuẩn xác của chẩn đoán chính thốngdẫn đến nhận thức rằng các mô chính dính líu là cơ, đặc biệt là cơ ở cổ, vai, lưng và mông. Nhưng thậm chí quan trọng hơn là quan sát 88% người có tiền sử về những thứ như căng thẳng hay đau nửa đầu, ợ nóng, thoát vị khe, loét dạ dày, viêm đại tràng, đại tràng co thắt, hội chứng co thắt ruột kết, sốt mùa hè, hen suyễn, eczema và một loạt rối loạn khác, tất cả đều là rất khả nghi liên quan đến tình trạng căng thẳng.Có vẻ lô-gíc để kết luận rằng đau cơ có thể cũng do căng thẳng gây ra. Đó là hội chứng căng cơ co giật (Tension Myositic Syndrom - TMS). (Myo nghĩa là 'cơ'; Định nghĩa Hội chứng căng cơ co giật ở đây là thay đổi tình trạng trong cơ gây ra đau). Bác sĩ nghĩ gì về chẩn đoán này? Không chắc nhiều bác sĩ biết điều này. Tôi có viết một số trang và chương cho các sách về chủ đề này nhưng chúng rất hạn chế đến được với độc giả làm việc chủ yếu trong lĩnh vực vật lý trị liệu và phục hồi. Trong những năm gần đây, các bài viết về TMS trở nên không thể được chấp nhận cho công bố, chắc chắn bởi vì những quan niệm này công khai chống đối tín điều y tế đương thời. Đối với những bác sĩ đọc được sách này, tôi muốn chỉ rõ rằng cuốn này hoàn chỉnh hơn bất cứ bài viết nào tôi đã công bố và sẽ có ích cho họ mặc dù thực tế nó được viết cho đông đảo độc giả. Mục đích chính của cuốn sách là gợi lên ý thức cả trong và ngoài lĩnh vực y tế bởi vì hội chứng đau phổ biến này đại diện cho vấn đề sức khỏe số đông cộng đồng không thể giải quyết được cho đến khi có sự thay đổi trong nhận thức y tế về nguyên nhân của đau. Tuyên bố mục đích của cuốn sách, tôi sẽ thiếu vô tư nếu không báo cáo rằng nhiều độc giả của cuốn sách trước cuốn này, cuốn Tinh thần khi đau lưng (Mind Over Back Pain), đã thông báo làm tốt hơn hoặc làm tiêu tan hoàn toàn triệu chứng. Điều này minh chứng ý tưởng rằng đó là sự đồng nhất với và kiến thức về rối loạn là những nhân tố chữa bệnh then chốt. [Đây là một ví dụ trong nhiều bệnh nhân của bác sĩ Sarno] Bệnh nhân là một phụ nữ trung niên; bà đã nằm liệt giường khoảng hai năm khi tôi biết. Bà bị đau từ vùng dưới phía sau và chân đã nhiều năm, đã qua phẫu thuật hai lần, và dần dần đều tồi tệ đến khi cuộc sống của bà bị giới hạn hầu như hoàn toàn ở phòng ngủ trên gác. Bà được nhận vào bệnh viện, ở đó chúng tôi không tìm thấy bằng chứng về vấn đề cấu trúc, nhưng có biểu hiện nghiêm trọng của TMS. Và không ngạc nhiên, đánh giá tâm lý để lộ ra bà đã chịu đựng hành hạ tâm lý và tình dục như một đứa trẻ và bà đã nổi xung, không phóng đại, và không nhận biết về điều đó. Bà là người dễ chịu, là người phụ nữ với đức tính người mẹ, dạng người tự động kìm nén tức giận. Và thế là nó day dứt bà trong nhiều năm, luôn luôn phải đi khám do đau dữ dội. Sự phục hồi của bà rất sóng gió, như thể chi tiết cuộc đời củabà xuất hiện và bà bắt đầu thừa nhận sự dữ dội, bà trải qua nhiều triệu chứng - tuần hoàn tim, tiêu hóa, dị ứng - nhưng đau bắt đầu thuyên giảm. Liệu pháp tâm lý cá nhân và nhóm đã gia tăng. May thay bà rất thông minh và hiểu thấu các quan niệm về TMS nhanh chóng. Khi đau đã giảm hẳn, nhân viên đã giúp bà đi lại. 14 tuần sau khi vào viện, bà trở về nhà cơ bản là không đau và sẵn sàng trở lạicuộc sống." KHÔNG PHẢI tất cả là tinh thần Bác sĩ Sarno không nói "tất cả là tinh thần của bạn". Không hề như thế. Ông chỉ ra rằng đau nhức có thể là dấu hiệu cảnh báo mạnh mẽ của những vấn đề thực sự thuộc về cơ thể. Bác sĩ phải loại bỏ những vấn đề này trước khi bắt đầu nghi ngờ đó là TMS. Ở chương cuối của sách, bác sĩ Sarno in lại 10 bức thư dài của các bệnh nhân. Những lá thư chứa chan tình cảm và rất có sức thuyết phục. Chúng tôi không thể đưa ra đây cả 10 lá thư đó. Chúng tôi đã chọn một thư khá điển hình. Hãy nhớ, Bác sĩ Sarno làm công việc này trong đầu những năm 1980. Ngày ấy không có số liệu khoa học xác nhận giữa tinh thần và thể xác tồn tại sự kết nối tự nhiên. Đây là lá thư: "Bác sĩ Sarno thân mến, Tôi muốn cảm ơn ông vì đã giúp đỡ rất nhiều cho sức khỏe của tôivà theo đó cả chất lượng cuộc sống của tôi... Tôi từng bị đau lưng dữ dội (cả trên và dưới, gồm cả hông) suốt bảy năm cho đến lúc tôi gọi cho ông. Tôi cũng thường bị chứng đau quặn ruột dữ dội, đau nhói ở ngực, đau đầu gối, mắt cá, khủy tay, cổ tay, đốt ngón tay và một bên vai. Toàn bộ đau đớn đó, đặc biệt là đau lưng hạn chế ghê gớm khả năng làm việc và vui chơi của tôi. Tôi không thể lau sàn, rửa bát đĩa, bế trẻ con (hoặc cái gì nặng hơn 1,4kg), tham gia thể thao... Thậm chí chải tóc cũng đau. Tôi từng rất khỏe, là người hăng hái với nhu cầu rất lớn để phát huy thể chất bản thân - mà tôi (và những người khác nữa) thường đổ cho là nguyên nhân các vấn đề về lưng. Ở lần khám đầu tiên, tôi được bác sĩ bảo rằng ngừng các hoạt động nếu có thể, không làm gì gây đau, và như thế thì chắc chắn có nhiều thứ gây đau. Tôi làm theo lời khuyên. Suốt hơn bảy năm tiếp theo, tôi trở thành 'chuyên gia' về nguyên nhân và chữa trị tưởng tượng của đau lưng, nhưng chẳng ích lợi gì cả. Tôi có 14 đợt châm cứu, 17 đợt nắn xương, 17 đợt 'cân bằng cơ thể', rất nhiều đợt vật lý trị liệu, sử dụng 'chạy điện TENS khối thần kinh', tham gia 'lớp thể dục đau lưng', gia nhập Spa sức khỏe - đi bơi và sử dụng Jacuzzi và tắm hơi, mát-xa nhiều... Một bác sĩ nghĩ đó có thể là hội chứng rối loạn gây đau cơ và cố cho tôi uống L-tryptophan và B6. Tất cả những phương pháp điều trị đó có vẻ như cũng giúp được chút ít, nhưng tôi vẫn phải chịu đau kinh khủng. Sau khi nói chuyện với ông, tôi đã cân nhắc việc đi khám bác sĩ tâm lý, trước hết tôi quyết định thử làm mà không cho ai biết. Tôi đã nhận ra rằng chẳng có vấn đề cơ bản nào sinh ra căng thẳng ở tôi mà thay vì học một chút gì đó trong cuộc sống hàng ngày, thì tôi đã học sợ và/hoặc gây căng thẳng, bắt đầu chu kỳ đau của tôi, căng thẳng hơn, đau hơn... Nếu nguyên nhân là xung đột tâm lý không được giải quyết, tôi để ý thấy phần lớn thời gian tôi không thực sự giải quyết để đau nhức qua đi, mà thay vào đó tôi chỉ nhận biết rằng đó là nguyên nhân gây đau cho tôi. Nhưng giờ thì tôi thấy rồi, tôi nhắm tới giải quyết mọi thứ nhanh hơn trước đây. Tôi rất ngạc nhiên và hạnh phúc vì khả năng xoay chuyển một cơn co thắt thành dấu hiệu của cái gì đó làm phiền tôi (cảm xúc hay tinh thần) và sau đó cơn đau tan biến hoàn toàn chỉ trong một phút hoặc ít hơn. Tôi mất bốn tháng để kiểm soát được quá trình và mất khoảng chưa đến một năm là tôi đã có thể nói với bạn bè và gia đình, 'vâng, cuối cùng thì lưng tôi đã được chữa khỏi. Tôi thoát khỏi đau đớn!' Cùng lúc lưng tôi khỏi đau, thì mọi phần khác trên cơ thể tôi nói tới trước đây cũng không đau nữa. Cuối cùng thì tôi đã có thể làm việc và vui chơi trở lại, cái tôi đã không làm được suốt bảy năm qua. Nhẹ nhõm biết bao! Tôi sẽ luôn luôn biết ơn ông, bác sĩ Sarno, về dũng khí và sự tử tếông đã làm suốt hơn 20 năm qua - giúp mọi người hoàn toàn thoát khỏi đau đớn. Cảm ơn ông." Lịch sử cổ đại Phần lớn chúng ta khi đọc những dòng trên lần đầu sẽ cho đây là một ý tưởng mới. Nhầm rồi! Bác sĩ Sarno chỉ ra chính Hippocrat, 2500 năm trước, đã khuyên bệnh nhân hen suyễn của ông hãy cảnh giác với cơn tức giận. "Vào cuối thế kỷ XIX, nhà thần kinh học nổi tiếng người Pháp,Jean-Martin Charcot đã cho cuộc sống mới nguyên lý tương tác tinh thần và thể xác, khi ông chia sẻ với thế giới y học những kinh nghiệm của ông với nhóm bệnh nhân mắc chứng hysterics. Họ có những triệu chứng thần kinh ấn tượng như mất cảm giác ở một cánh tay hoặc chân mà không có dấu hiệu nào của bệnh thần kinh. Hãy hình dung tác động lên thính giả y học khi ông chứng minh bại liệt có thể biến mất khi bệnh nhân bị thôi miên! Người ta không thể đòi hỏi một giải thích thuyết phục hơn của sự kết nối tinh thần và thể xác". Bác sĩ Sarno mô tả "chính giới" y học hiện nay như nô lệ của Rene Descrates (1596-1650). Lý thuyết của Descrates về tách biệt tinh thần và thể xác vẫn cầm cương hầu hết suy nghĩ hôm nay. Cơ thể là phạm vi hoạt động của bác sĩ và toàn bộ công nghệ liên quan. Tinh thần là phạm vi hoạt động của nhà tâm lý và chuyên gia tâm thần học. Một lượng đáng kể bác sĩ ở Mỹ, phần lớn bác sĩ ở châu Âu và các nước khác đã vươn xa hơn tầm nhìn này từ năm 1991, vào lúc bác sĩ Sarno viết. Quan niệm này vẫn bám lấy nhiều bác sĩ. Dẫn đến nương tựa vào "cứu chữa" hóa chất cho đau ốm tinh thần và thể xác. Tất nhiên, việc này khiến các công ty dược vui thích. Rất nhiều bác sĩ vẫn chữa trị triệu chứng hơn là đi tìm nguyên nhân. Với "tương tác tinh thần - thể xác", nhiều bác sĩ thậm chí ngày nay coi đó là dân gian hoặc bùa mê. Xác nhận là ở đây Trong chừng mực chấp nhận được nào đó của "chính giới" y học, thì đã có chút thay đổi trong những năm qua kể từ quan sát trên của bác sĩ Sarno. Tuy nhiên, chúng ta quả thực may mắn. Chúng ta có sẵn xác nhận về lý thuyết của bác sĩ Sarno ở dạng bằng chứng tự nhiên. Bác sĩ Esther Sternberg (Sổ tay 1) đã dẫn chứng bằng tài liệu trong cuốn sách hay của bà Cân bằng bên trong (The Balance Within). Hãy nghe sự chân thật của bà. Bà là Giám đốc chương trình sinh học thần kinh hợp nhất phân tử, Tế bào và Hành vi (Molecular, Cellular, and Behavioral Integrative Neuroscience Program), và Trưởng ban tương quan hệ thần kinh - nội tiết - hoóc môn miễn dịch và hành vi của Đại học Quốc gia về Sức khỏe Tinh thần và Đại học Quốc gia về Sức khỏe (Chief of the Section on Neuroendocrine Immunology and Behavior at the National Institute of Mental Health and National Institutes of Health). Dù khó để in danh tính của bác sĩ Sternberg trên danh thiếp của bà, chúng ta có bổn phận cẩn trọng nghe lời bà. Hãy xem lại lần nữa phần về cuốn sách của bà ở Sổ tay 1 về Chế độ Ăn. TMS có liên quan đến bạn nếu bạn được chẩn đoán bị bất cứbệnh gì trong những bệnh sau: đau lưng, cổ hoặc vai; trẹo khớp; ợ nóng; thoát vị khe; loét; loét hệ tiêu hóa; hội chứng co thắt ruột; táo bón; khí; rối loạn đau cơ; viêm mũi dị ứng (sốt mùa hè); zô-na; thấp khớp viêm khớp; viêm túi dịch; tiểu đường; lupus ban đỏ; xơ cứng rải rác; tim đập nhanh; sa van hai lá; và xơ cứng động mạch. Hãy mang sách của bác sĩ Sarno vào giường ngủ. Đọc vớitâm mở rộng. Thức dậy dứt khoát, làm tất cả có thể để vượt qua yếu tố tinh thần/tình cảm của "bệnh". Tôi không hạ thấp tình trạng nghiêm trọng của bạn. Tôi chỉ giục bạn thực hiện phương pháp kỹ thuật đã hiệu quả cho rất nhiều bệnh nhân khác không cần hóa chất cùng với tất cả sự đắt đỏ và các tác dụng phụ. Hãy khỏe mạnh và Chúa phù hộ bạn! Chia sẽ ebook : Tham gia cộng đồng chia sẽ sách : Fanpage : https://www.facebook.com/downloadsachfree Cộng đồng Google :
File đính kèm:
- thoat_khoi_ung_thu_phan_2.pdf