Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây

TÓM TẮT

Đặt vấn đề: Điều dưỡng hàng ngày, hàng giờ phải

làm việc với cường độ rất cao, khối lượng công việc

nhiều, luôn phải đối mặt với những tình huống cấp cứu

chấn thương nặng. Rất ít nghiên cứu của Việt Nam tìm

hiểu về stress của nhóm đối tượng này. Mục tiêu: (1)

Mô tả thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng

lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại

trường Đại học Thăng Long và Thành Tây. (2) Mô tả

một số yếu tố liên quan tới stress của điều dưỡng nêu

trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương

pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng thang đo

Stress trên điều dưỡng (NSS) (Nursing stress scale)

được tiến hành trên 299 điều dưỡng lâm sàng đang

theo học hệ cử nhân vừa làm vừa học của trường Đại

học Thăng Long và Đại học Thành Tây. Kết quả:

Nhóm tác nhân gây stress thường xuyên nhất và mức

độ cao nhất đối với điều dưỡng là các nhóm liên quan

đến: (1) Chứng kiến cái chết và sự chịu đựng đau đớn

của bệnh nhân với mức độ gây stress là 1,64, tần suất

0,83, (2) Khối lượng công việc lớn với mức độ gây

stress là 1,42 tần suất 0,99. Các điều dưỡng làm việc

ở khoa Hồi sức cấp cứu có tần suất mắc stress cao

hơn điều dưỡng làm ở các khoa khác với điểm đánh

giá trung bình là 52,2. Kết luận: Bệnh viện cũng như

các nhân viên điều dưỡng cần chú ý hơn đến các tác

nhân gây stress cho điều dưỡng để có thể nâng cao

hiệu suất công việc cũng như làm hạn chế xảy ra rủi ro

khi chăm sóc bệnh nhân

pdf 6 trang yennguyen 3660
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây

Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại trường Đại học Thăng Long và Đại học Thành Tây
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
110
0,56 – 0,93 và p=0,01], mà các nghiên cứu trước đây 
chưa ghi nhận. 
* Những yếu tố liên quan góp phần vào kết quả 
điều trị lâu dài giữa 2 nhóm 
Hở van 3 lá thực thể liên quan đến việc tăng nguy 
cơ hở van 3 lá (>2) và tăng NYHA 1 độ sau thời gian 
theo dừi trờn 10 năm và kết quả phân tầng theo nhóm 
tạo hỡnh khụng vũng van và tạo hỡnh cú đặt vũng van 
thỡ ghi nhận nhóm tạo hỡnh khụng vũng cú nguy cơ 
tăng hở van 3 lá (>2) là 1,95 lần với HR=1,95 
(p<0,001), tăng NYHA 1 độ là 1,98 lần với HR=1,98 
(p<0,001). Tương tự, đường kính thất phải (VD) lớn 
(>35mm) trước phẫu thuật làm gia tăng nguy cơ hở 
van 3 lá (>2) là 1,6 lần với HR=1,6 (p=0,03), tăng 
NYHA 1 độ là 1,7 lần với HR=1,7 (p=0,02). Mức độ hở 
van 3 lá (3&4) chỉ có liên quan đến nguy cơ tăng 
NYHA 1 độ là 1,64 lần với HR=1,64 (p=0,03). Kết quả 
của chúng tôi ghi nhận được nhiều yếu tố hơn tác giả 
Sung Ho Shinn, chỉ ghi nhận độ hở van 3 lá trước 
phẫu thuật (trên 3) có liên quan đến kết quả điều trị lâu 
dài giữa 2 nhóm với HR=2,21, p=0,021. 
KẾT LUẬN 
Kết quả điều trị lâu dài của nhóm bệnh nhân được 
phẫu thuật tạo hỡnh van ba lỏ kốm đặt vũng van tốt 
hơn so với nhóm bệnh nhân được tạo hỡnh không đặt 
vũng van. Khuyến cáo nên sử dụng kỹ thuật đặt vũng 
van cho cỏc bệnh nhân có : rung nhĩ, hở van ba lá 
thực thể, mức độ hở van ba lá mức độ vừa-nặng ( > 
2), đường kính thất phải lớn (>35mm), NYHA >2 trước 
phẫu thuật để đảm bảo kết quả điều trị tốt về lâu dài 
(trên 10 năm). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Antunes MJ, Barlow JB, “Management of tricuspid 
valve regurgitation”, Heart 2007, 93 (2), pp. 271 - 276. 
2. Chang BC et al, Long-term clinical results of 
tricuspid valve replacement. Ann Thorac Surg,2006; 
81(4):1317-23. 
3. Groves P et al., “Surgery of valve disease: late 
results and late complications”, Heart 2001, 86 (6), pp. 
715 - 721. 
4. Groves PH, Hall RJ, “Late tricuspid regurgitation 
following mitral valve surgery”, J Heart Valve Dis 1992, 1 
(1), pp. 80 - 86. 
5. Kim JB, Jung SH, Choo SJ, Chung CH, Lee JW. 
Surgical outcomes of severe tricuspid regurgitation: 
predictors of adverse clinical outcomes, Heart. 2013 
Feb;99(3):181-7. 
 6. Matsuyama K, Matsumoto M, Sugita T, Nishizawa 
J, Tokuda Y, Matsuo T et al. De Vega annuloplasty and 
Carpentier-Edwards ring annuloplasty for secondary 
tricuspid regurgitation. J Heart Valve Dis 2001;10:520–4. 
7. Maziar Khorsandi, Amit Banerjee, Harpreet 
Singhand Aseem R. Srivastava, Is a tricuspid 
annuloplasty ring significantly better than a De Vega’s 
annuloplasty stitch when repairing severe tricuspid 
regurgitation?, Interactive CardioVascular and Thoracic 
Surgery 15 (2012) 129–135. 
8. McCarthy J, Cosgrove DM III, “Tricuspid valve 
repair with the Cosgrove-Edwards annuloplasty system”, 
Ann Thorac Surg 1997, 64 (1), pp. 267 - 268. 
9. McCarthy PM, Bhudia SK, Rajeswaran J, Hoercher 
KJ, Lytle BW,Cosgrove DM, Blackstone EH. Tricuspid 
valve repair: durability and risk factors for failure. J Thorac 
Cardiovasc Surg. 2004;127:674 –685. 
10. Shamin RJ et all, “Tricuspid valve disease”, 
Cardiac surgery in the adults, McGraw-Hill, New York, 
2003, pp. 1001 - 1015. 
THỰC TRẠNG STRESS NGHỀ NGHIỆP CỦA ĐIỀU DƯỠNG LÂM SÀNG ĐANG HỌC HỆ CỬ 
NHÂN VỪA LÀM VỪA HỌC TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG VÀ ĐẠI HỌC THÀNH TÂY 
TRẦN THỊ NGỌC MAI 
Trường Đại học Thăng Long, Bệnh viện Bộ Xây dựng 
NGUYỄN HỮU HÙNG, TRẦN THỊ THANH HƯƠNG 
Trường Đại học Y Hà Nội 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Điều dưỡng hàng ngày, hàng giờ phải 
làm việc với cường độ rất cao, khối lượng công việc 
nhiều, luôn phải đối mặt với những tình huống cấp cứu 
chấn thương nặng. Rất ít nghiên cứu của Việt Nam tìm 
hiểu về stress của nhóm đối tượng này. Mục tiêu: (1) 
Mô tả thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng 
lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa học tại 
trường Đại học Thăng Long và Thành Tây. (2) Mô tả 
một số yếu tố liên quan tới stress của điều dưỡng nêu 
trên. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phương 
pháp nghiên cứu mô tả cắt ngang, sử dụng thang đo 
Stress trên điều dưỡng (NSS) (Nursing stress scale) 
được tiến hành trên 299 điều dưỡng lâm sàng đang 
theo học hệ cử nhân vừa làm vừa học của trường Đại 
học Thăng Long và Đại học Thành Tây. Kết quả: 
Nhóm tác nhân gây stress thường xuyên nhất và mức 
độ cao nhất đối với điều dưỡng là các nhóm liên quan 
đến: (1) Chứng kiến cái chết và sự chịu đựng đau đớn 
của bệnh nhân với mức độ gây stress là 1,64, tần suất 
0,83, (2) Khối lượng công việc lớn với mức độ gây 
stress là 1,42 tần suất 0,99. Các điều dưỡng làm việc 
ở khoa Hồi sức cấp cứu có tần suất mắc stress cao 
hơn điều dưỡng làm ở các khoa khác với điểm đánh 
giá trung bình là 52,2. Kết luận: Bệnh viện cũng như 
các nhân viên điều dưỡng cần chú ý hơn đến các tác 
nhân gây stress cho điều dưỡng để có thể nâng cao 
hiệu suất công việc cũng như làm hạn chế xảy ra rủi ro 
khi chăm sóc bệnh nhân. 
Từ khóa: Stress nghề nghiệp, điều dưỡng lâm 
sàng, NSS. 
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
111
SUMMARY 
STRESS IN CLINICAL NURSES STUDYING AT 
THANG LONG AND THANH TAY UNIVERSITY 
Background: There were limited study on stress in 
clinical nurses in Vietnam. 
Objectives: (1) To investigate stress in clinical 
nurses who studying at ThangLong and ThanhDo 
University (2) To identify some factors related to stress 
in nurses. 
Methods: Cross-sectional survey was applied in 
299 clinical nurses who were studying nursing degree 
at Thang Long University and Thanh Tay University by 
using NSS (Nursing Stress Scale) questionnaire. 
Results: The most prevalent groups of causes of 
stress (stressors) are: (i) death and dying, (ii) 
physicians and superior nurses, (iii) workload. 
Conclusion: Intervention stressor for nurse is 
important in supporting nurses to perform their jobs 
efficiently and safely. 
Keywords: Occupational stress, clinical nurses, 
NSS. 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Stress nghề nghiệp là vấn đề của mọi thời đại và 
được coi là một tiêu điểm của các nhà nghiên cứu hiện 
nay. Nghề Y là một nghề đặc biệt, do đối tượng trực 
tiếp là con người, đồng thời đây cũng nghề tiềm ẩn 
nhiều nguy cơ gây stress, trong đó phải kể tới người 
làm công tác điều dưỡng (ĐD). Hans Selye (nhà sinh 
lý học người Canada) đã sử dụng thuật ngữ stress để 
mô tả hội chứng của quá trình thích nghi với mọi loại 
bệnh tật và đã đưa ra định nghĩa: “Stress là một phản 
ứng sinh học không đặc hiệu của cơ thể trước những 
tình huống căng thẳng”. [1] 
Qua nghiên cứu 464 ĐD tại 13 bệnh viện ở 
Jordani, nhóm tác giả S,H, Hamaideh RN, và cộng sự 
kết quả chỉ ra: tình trạng quá tải và việc phải đối mặt 
với các vấn đề liên quan đến tử vong của bệnh nhân 
trong quá trình làm việc là những nguyên nhân căn 
bản dẫn đến áp lực căng thẳng trong công việc của 
người điều dưỡng [2]. Nghiên cứu của tác giả Hiromi 
Fukuda, năm 2006 chỉ ra rằng có rất nhiều nhân tố dẫn 
đến áp lực căng thẳng trong công việc của điều 
dưỡng, trong đó yếu tố đối mặt với sự tử vong của các 
bệnh nhân chiếm tỷ lệ cao nhất (117 người trong tổng 
số 118 người được điều tra) [3]. Qua nghiên cứu của 
Đặng Trần Ngọc Thanh và cộng sự tại 7 khoa cấp cứu 
của 7 bệnh viện đa khoa cấp tỉnh ở thành phố HCM, 
năm 2008 kết quả chỉ ra: sự mâu thuẫn nơi làm việc, 
công việc quá tải là những yếu tố gây chán nản trong 
công việc của ĐD [4]. 
Stress không những ảnh hưởng đến sức khỏe của 
nhân viên ĐD mà còn làm giảm sự tập trung chú ý 
trong công việc, dễ gây ra tình trạng sai sót làm nguy 
hại đến tính mạng người bệnh. Hiện nay ở Việt Nam 
việc nghiên cứu các yếu tố gây stress của ĐD còn hạn 
chế đặc biệt là ĐD đang học hệ cử nhân vừa làm vừa 
học. Vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này 
với mục tiêu: 
Mô tả thực trạng stress nghề nghiệp của điều 
dưỡng lâm sàng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa 
học tại trường Đại học Thăng Long và Thành Tây, năm 
2013. 
Mô tả một số yếu tố liên quan tới stress của điều 
dưỡng nêu trên. 
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
1. Đối tượng nghiên cứu 
Các điều dưỡng lâm sàng đang học tại trường đại 
học Thăng Long và Thành Tây. 
* Tiêu chuẩn lựa chọn: 
- Là điều dưỡng đang học hệ cử nhân vừa làm vừa 
học tại hai trường đại học trên. 
- Là điều dưỡng lâm sàng, hiện đang làm việc tại 
các khoa lâm sàng tại các bệnh viện. 
- Đồng ý tham gia nghiên cứu. 
* Tiêu chuẩn loại trừ: 
- Không phải là điều dưỡng lâm sàng. 
- Không phải đang học lớp cử nhân điều dưỡng hệ 
vừa làm vừa học tại hai trường đại học nêu trên. 
- Không đồng ý tham gia nghiên cứu. 
2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu 
- Từ tháng 11/2012 đến tháng 11/2013. 
- Tại trường Đại học Thăng Long và Thành Tây. 
3. Thiết kế nghiên cứu: Phương pháp mô tả cắt 
ngang, sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng. 
4. Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu 
- Cỡ mẫu: Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho một 
nghiên cứu mô tả, kết quả là 300 điều dưỡng. 
- Cách chọn mẫu: Sử dụng phương pháp chọn 
mẫu thuận tiện. Trong quá trình thu thập và xử lý số 
liệu, các thông tin cá nhân của đối tượng tham gia 
nghiên cứu được giữ bí mật. 
5. Công cụ nghiên cứu 
5.1. Thang đo Stress trên đối tượng điều dưỡng 
- NSS 
Thang đo gồm 35 câu hỏi là các tác nhân gây 
stress thường gặp nhất trong công việc của điều 
dưỡng, người tham gia điều tra được yêu cầu đánh 
giá tần suất gây ra stress và mức độ stress theo thang 
điểm tần suất: 0 (không bao giờ), 1 (thi thoảng), 2 
(thường xuyên); và thang điểm mức độ: 0 (không 
stress), 1 (stress nhẹ), 2 (stress vừa), 3 (stress nhiều), 
4 (stress rất nhiều). 35 câu này được chia thành 07 
nhóm các tác nhân có đặc điểm tương đồng liên quan 
đến: (1) nhóm tác nhân liên quan đến cái chết và sự 
chịu đựng của bệnh nhân, (2) sự bất đồng với bác sĩ, 
(3) thiếu kiến thức và sự chuẩn bị tâm lý của điều 
dưỡng, (4) mối quan hệ trong công việc, (5) sự bất 
đồng với ĐD cấp trên, (6) khối lượng công việc, (7) 
nhóm tác nhân liên quan đến việc điều trị bệnh nhân. 
Thang đo NSS đã được rất nhiều nghiên cứu trên 
thế giới áp dụng cho thấy tính giá trị và độ tin cậy rất 
cao. 
5.2. Xây dựng bộ câu hỏi điều tra 
Do thang đo này chưa được chuẩn hóa tại Việt 
Nam nên chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm và đánh 
giá tính giá trị của thang đo theo các bước như sau: 
+ Bước 1: Dịch thang đo từ tiếng Anh sang tiếng 
Việt, sau đó xin ý kiến của chuyên gia và các điều 
dưỡng chuyên ngành khác nhau để Việt hóa bộ công 
cụ. 
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
112
+ Bước 2: Thử nghiệm bộ công cụ trên 30 điều 
dưỡng lâm sàng, hiện đang công tác tại các khoa khác 
nhau tại Hà Nội. Các điều dưỡng điền vào bộ công cụ 
theo 2 lần, mỗi lần cách nhau 1 tuần. 
+ Bước 3: Tính toán tính giá trị của bộ công cụ, 
đồng thời xin ý kiến chuyên gia về xã hội học, y học, y 
tế công cộng và chỉnh sửa bộ công cụ lần cuối trước 
khi tiến hành nghiên cứu chính thức 
* Phân tích và xử lý số liệu 
Nhập số liệu bằng phần mềm Epidata 3.1, số liệu 
được nhập 2 lần sau đó 2 bản ghi sẽ được so sánh 
với nhau nhằm loại bỏ sai sót. 
Phân tích số liệu bằng phần mềm STATA 12.0. 
KẾT QUẢ 
Tổng số ĐD tham gia nghiên cứu là 299, trong đó 
nữ giới chiếm đa số (78,9%), chỉ có 21,1% là nam. 
1. Thực trạng stress nghề nghiệp của đối 
tượng nghiên cứu 
Bảng 1. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan 
đến chứng kiến cái chết, sự chịu đựng đau đớn của 
người bệnh 
Các tác nhân 
Mức độ 
stress 
Tần suất 
stress 
Giá trị 
trung bình 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
Giá trị 
trung bình 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
1. Chứng kiến cái chết của 
người bệnh 
2,37 
(1,69) 0,83 (0,53) 
2. Nhìn thấy sự chịu đựng của 
người bệnh 
2,05 
(1,09) 1,56 (0,57) 
3. Thực hiện các quy trình, thủ 
thuật làm bệnh nhân phải đau 
đớn 
1,99 
(1,28) 1,13 (0,61) 
4. Cảm giác bất lực khi thấy tình 
trạng của bệnh nhân không 
được cải thiện 
1,85 
(1,00) 0,99 (0,39) 
5. Bác sỹ đã không có mặt khi 
người bệnh chết 
1,39 
(1,66) 0,40 (0,50) 
6. Cái chết của người bệnh mà 
Anh/Chị đã có mối quan hệ thân 
thiện với họ 
1,13 
(1,29) 0,53 (0,51) 
7. Phải nghe hoặc nói với người 
bệnh về khả năng người bệnh 
sẽ chết 
0,69 
(1,15) 0,36 (0,56) 
Nhận xét: Bảng 2 cho thấy: Việc chứng kiến cái 
chết của bệnh nhân gây ra căng thẳng nhất (2,37) 
trong nhóm các tác nhân.Các tác nhân khác cũng có 
mức độ và tần suất cao như: Nhìn thấy sự chịu đựng 
đau đớn của bệnh nhân (mức độ 2,05; tần suất 1,56). 
Thực hiện các quy trình, thủ thuật làm bệnh nhân phải 
đau đớn (mức độ 1,99; tần suất 1,13). Cảm giác bất 
lực khi thấy tình trạng của bệnh nhân không được cải 
thiện (mức độ 1,85; tần suất 0,99). Tác nhân có khả 
năng tạo áp lực căng thẳng thấp nhất của nhóm là: 
Phải nghe hoặc nói với người bệnh về khả năng người 
bệnh sẽ chết (mức độ 0,69). 
Bảng 2. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan 
đến sự bất đồng với bác sĩ 
Các tác nhân 
Mức độ 
stress 
Tần suất 
stress 
Giá trị 
trung bình 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
Giá trị 
trung bình 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
1. Bất đồng với bác sỹ 1,31 (0,99) 0,82 (0,47) 
2. Bị chỉ trích bởi bác sỹ 1,21 (1,02) 0,73 (0,49) 
3. Bất đồng liên quan tới chăm 
sóc, điều trị người bệnh 1,17 (0,93) 0,81 (0,45) 
4. Đã có những quyết định liên 
quan tới người bệnh khi bác sỹ 
không có mặt 
1,05 (0,90) 0,89 (0,45) 
Nhận xét: Vấn đề bất đồng ý kiến giữa bác sĩ điều 
trị với các điều dưỡng tham gia nghiên cứu ở mức độ 
nhẹ (mức độ tối đa 1,31 <4) và ở tần suất thấp (tần 
suất tối đa 0,89 <2) (bảng 2). 
- Với nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến 
thiếu chuẩn bị kiến thức, hay do tâm lý ĐD được thể 
hiện với mức độ nhẹ, tần suất thường gặp thấp. Cao 
nhất là cảm thấy trang bị kiến thức, kĩ năng để hỗ trợ 
cho gia đình người bệnh chưa đầy đủ với mức độ 
stress đạt giá trị trung bình là 1,03 và tần suất thường 
gặp là 0,82. 
Bảng 3. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan 
đến mối quan hệ trong công việc 
Các tác nhân 
Mức độ 
stress 
Tần suất 
stress 
Giá trị TB 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
Giá trị TB 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
1. Thiếu cơ hội để nói chuyện 
cởi mở với lãnh đạo về các 
vấn đề của Khoa 
1,57 (1,22) 0,96 (0,60) 
2. Khó khăn khi làm việc với 
điều dưỡng khác ngoài khoa 1,13 (0,90) 0,78 (0,47) 
3. Thiếu cơ hội để chia sẻ kinh 
nghiệm và chia sẻ cảm xúc với 
đồng nghiệp 
0,89 (0,83) 0,74 (0,52) 
4. Khó khăn khi làm việc với 
điều dưỡng khác trong khoa 0,86 (0,83) 0,72 (0,51) 
5. Thiếu cơ hội để bày tỏ với 
đồng nghiệp trong khoa về 
cảm giác tiêu cực về người 
bệnh 
0,85 (0,85) 0,65 (0,53) 
Nhận xét: Với nhóm các tác nhân gây stress liên 
quan đến mối quan hệ trong công việc thì: 
- “Thiếu cơ hội để nói chuyện cởi mở với lãnh đạo 
về các vấn đề của Khoa” là tác nhân nổi bật nhất trong 
nhóm với mức độ gây stress 1,57 và tần suất stress 
0,96 (ở mức trung bình). 
- “Thiếu cơ hội để bày tỏ với đồng nghiệp trong 
khoa về cảm giác tiêu cực của người bệnh” là tác 
nhân có mức độ gây stress thấp nhất của nhóm (mức 
độ 0,85; tần suất 0,65). 
- Với nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến 
sự bất đồng với điều dưỡng cấp trên thì: 
‘Bất đồng với y tá trưởng/ cấp trên/người giám sát’ 
và ‘Bị y tá trưởng/cấp trên phê bình/chỉ trích’ có mức 
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
113
độ và tần suất gần bằng nhau (mức 1,56; tần suất 
0,79) và (mức 1,51; tần suất 0,86). 
Bảng 4. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan 
đến khối lượng công việc 
Các tác nhân 
Mức độ 
stress 
Tần suất 
stress 
Giá trị TB 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
Giá trị TB 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
Quá tải công việc do không đủ 
điều dưỡng 2,52 (1,27) 1,51 (0,62) 
Phải làm quá nhiều các công 
việc khác (thống kê, kế toán) 2,18 (1,39) 1,25 (0,70) 
Không đủ thời gian để hoàn 
thành tất cả các nhiệm vụ của 
điều dưỡng 
1,57 (1,03) 0,94 (0,52) 
Lịch làm việc không lường 
trước được 1,42 (1,05) 0,98 (0,58) 
Không đủ thời gian để hỗ trợ 
tâm lý cho người bệnh 1,36 (0,98) 1,07 (0,59) 
Phải tắt/không nghe điện thoại 
do tính chất công việc 0,91 (0,85) 1,17 (0,58) 
Bị chuyển tới khoa khác do 
thiếu nhân viên 0,63 (0,95) 0,42 (0,55) 
Nhận xét: Được đánh giá ở mức độ căng thẳng 
nhiều (2,52) và tần suất tương đối thường xuyên 
(1,52) là tác nhân ‘Quá tải công việc do không đủ 
điều dưỡng’ (xem bảng 7) tiếp theo đó là tác nhân 
‘Phải làm quá nhiều các công việc khác (thống kê, kế 
toán)’ với mức độ 2,18; tần suất 1,25. Cả hai tác 
nhân này được đánh giá là gây nhiều stress nhất 
trong tất cả 35 tác nhân. 
Bảng 5. Nhóm các tác nhân gây stress liên quan 
đến việc điều trị 
Các tác nhân 
Mức độ 
stress 
Tần suất 
stress 
Giá trị TB 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
Giá trị TB 
(Độ lệnh 
chuẩn) 
Bác sĩ không chia sẻ đủ thông 
tin về người bệnh gây khó khăn 
cho quá trình chăm sóc và tư 
vấn 
1,87 
(1,96) 
0,92 
(0,51) 
Thiếu trang thiết bị cần thiết để 
giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp và 
đảm bảo an toàn cho sức khỏe 
1,53 
(1,21) 
0,89 
(0,57) 
Lo sợ sẽ mắc lỗi trong quá trình 
chăm sóc cho người bệnh 
1,37 
(1,05) 
0,87 
(0,47) 
Các chỉ định của bác sỹ không 
thích hợp với việc điều trị cho 
người bệnh 
1,19 
(0,94) 
0,77 
(0,45) 
Băn khoăn có nên thông báo 
cho người bệnh và gia đình về 
tình trạng bệnh và khả năng 
điều trị 
1,00 
(0,96) 
0,69 
(0,49) 
Bác sỹ đã không có mặt 
 trong trường hợp cấp cứu 
1,26 
(1,26) 
0,60 
(0,54) 
Không chắc chắn về chức năng 
và cách sử dụng của các dụng 
cụ chuyên dụng 
0,85 
(0,95) 
0,59 
(0,52) 
Nhận xét: Các tác nhân gây stress cao hơn cả là 
‘Bác sĩ không chia sẻ đủ thông tin về người bệnh gây 
khó khăn cho quá trình chăm sóc và tư vấn’ (mức độ 
1,87; tần suất 0,92); ‘Thiếu trang thiết bị cần thiết để 
giảm thiểu rủi ro nghề nghiệp và đảm bảo an toàn cho 
sức khỏe’ (mức độ 1,53; tần suất 0,89); tác nhân ít gây 
stress hơn cả là ‘Không chắc chắn về chức năng và 
cách sử dụng của các dụng cụ chuyên dụng’ (mức độ 
0,85; tần suất 0,59). 
2. Mối liên quan giữa stress nghề nghiệp với 
một số yếu tố 
Bảng 6. Mối liên quan giữa stress nghề nghiệp với 
một số yếu tố 
 Mức độ stress 
Tần suất 
stress 
n Mean SD Mean SD 
Giới Nam 63 46,89 20,81 29,43 8,46 Nữ 236 47,16 20,20 29,40 7,54 
 p = 0,82 p = 0,96 
Khoa 
làm 
việc 
Hồi sức 
cấp cứu 37 52,22 15,80 31,84 5,60 
Nội khoa 106 50,47 20,60 30,57 7,24 
Ngoại 
khoa 64 47,00 19,07 30,22 6,65 
Chuyên 
khoa khác 92 41,17 21,20 26,53 8,92 
 p = 0,003 p = 0,0008 
Khoảng giá trị (Min-
Max) 0-150 0-70 
Nhận xét: Bảng 6 cho thấy tình trạng stress giữa 
nhóm nam (46,9) và nữ (47,1) không có sự khác biệt 
nhiều; ngược lại mức độ stress lại thể hiện sự khác 
biệt giữa nhóm ĐD làm ở khoa HSCC và Nội khoa với 
các đối tượng làm ở các khoa còn lại sự khác biệt có ý 
nghĩa thống kê (P = 0,003< 0,05). 
BÀN LUẬN 
Về nhóm các tác nhân gây stress liên quan đến 
sự đau đớn, chịu đựng của người bệnh: Theo kết 
quả nghiên cứu của chúng tôi thì các yếu tố gây áp lực 
cao nhất trong nhóm này bao gồm việc chứng kiến cái 
chết của người bệnh và nhìn thấy sự chịu đựng đau 
đớn của người bệnh. Kết quả này thấp hơn so với kết 
quả thu được trong nghiên cứu của Elizabeth 
M.Andal đối với các y tá ở Philippine [5]. Mặc dù các 
chỉ số này ở ĐD Việt Nam thấp hơn so với ở 
Philippine nhưng vẫn ở mức độ cao. Điều này cho 
thấy sự tiến triển bệnh của bệnh nhân có ảnh hưởng 
lớn đến ĐD vốn là người trực tiếp chăm sóc theo dõi 
bệnh nhân, đặc biệt là khi điều xấu xảy ra. Do đó 
nhân viên ĐD cần chuẩn bị tâm lý sẵn sàng để đối 
phó với mọi tình huống cấp cứu xảy ra. 
Nhóm nhân tố gây stress liên quan đến bất 
đồng với bác sỹ: Nghiên cứu cho thấy áp lực tạo ra 
bởi nhóm này có mức thấp nhất là do quyết định liên 
quan tới người bệnh khi bác sĩ không có mặt gây ra và 
ở mức cao nhất (1.31) liên quan tới bất đồng với bác 
sỹ. Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu trên điều 
dưỡng ở Philippine [3]. 
Nhóm tác nhân gây stress liên quan đến kiến 
thức và sự chuẩn bị của bản thân: Tác nhân này 
đều ở mức độ và tần suất thấp theo kết quả nghiên 
cứu của chúng tôi. Cũng cùng so sánh với nghiên cứu 
của Elizabeth M.Andal đối với các y tá ở Philippine thì 
 Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
114
áp lực từ việc cảm thấy mình chưa được chuẩn bị đầy 
đủ kiến thức, kỹ năng để hỗ trợ vấn đề tâm lý cho gia 
đình người bệnh là cao hơn. Mức áp lực là (1.96). 
Điều đó cho thấy hệ thống đào tạo, chương trình đào 
tạo nói chung và chương trình đào tạo cho hệ cử nhân 
ĐD vừa làm vừa học nói riêng ở nước ta đã và đang 
được thực hiện khá tốt, đáp ứng được nhu cầu về kiến 
thức, kỹ năng, giúp ĐD viên có sự chuẩn bị tốt hơn 
trong công việc. 
Về nhóm tác nhân gây stress liên quan đến mối 
quan hệ trong công việc 
Trong số 05 tác nhân của nhóm thì 03 tác nhân có 
mức độ tạo stress thấp, dưới (1.00); 02 tác nhân còn 
lại có khả năng gây stress cao hơn do thiếu cơ hội để 
nói chuyện cởi mở với lãnh đạo về các vấn đề của 
khoa và do khó khăn khi làm việc với điều dưỡng khác 
ngoài khoa. Điều này không gây cho chúng ta ngạc 
nhiên bởi những nhân viên cùng làm việc với nhau sẽ 
dễ dàng chia sẻ thông tin hơn là những người làm ở 
các công việc khác nhau. Các giá trị giữa các nhân tố 
gần tương đương nhau cho thấy quan hệ giữa nhân 
viên và lãnh đạo khá cởi mở và thân thiện. Như vậy 
nhân viên ĐD cần phát huy tốt việc trao đổi kinh 
nghiệm cũng như mối quan hệ cởi mở giữa các đồng 
nghiệp để thực hiện nhiệm vụ chăm sóc bệnh nhân tốt 
nhất. 
Về nhóm tác nhân gây stress liên quan đến 
điều dưỡng cấp trên: Bất đồng với y tá trưởng/cấp 
trên/người giám sát và bị y tá trưởng/cấp trên phê 
bình, chỉ trích có mức độ và tần suất gần bằng nhau 
và ở mức trung bình (1.56) và (1.51). Kết quả này 
phản ánh phải chăng những y tá trưởng/cấp trên là 
những người có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề, 
đòi hỏi những ĐD trẻ phải rèn luyện thật tốt những kỹ 
năng nghề nghiệp cũng như cách ứng xử trong cuộc 
sống để phù hợp với tình hình thực tế hiện nay. 
Về nhóm tác nhân gây stress liên quan tới khối 
lượng công việc: Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quá 
tải công việc do không đủ điều dưỡng là yếu tố tạo 
stress cao nhất (2.52) với tần suất cũng ở mức cao 
(1.51). So với các nghiên cứu khác trên thế giới thì 
quá tải công việc dẫn đến stress cũng là thực trạng 
chung trong ngành ĐD ở các nước này. Theo nghiên 
cứu của Raeda Fawzi AbuAlRub, qua điều tra bằng 
Internet 263 y tá người Mỹ cho thấy tỷ lệ căng thẳng 
trung bình liên quan khối lượng công việc là khá cao 
(2,77), và qua điều tra bằng phương pháp truyền 
thống 300 y tá người Jordani thì tỷ lệ này là (2,31) [6]. 
Điều này gián tiếp suy ra rằng ngành ĐD đang cần bổ 
sung thêm nguồn nhân lực do nhu cầu khám chữa 
bệnh của người dân ngày càng tăng về số lượng và 
chất lượng. Ngoài ra việc bố trí, đào tạo cho các nhân 
viên điều dưỡng về các công việc cần hợp lý hơn, 
tránh tình trạng kiêm nhiệm quá nhiều việc. 
Về nhóm tác nhân gây stress liên quan đến việc 
điều trị: Nhóm này bao gồm 7 tác nhân có khả năng 
gây ra stress cho ĐD. Trong đó, việc bác sỹ không 
chia sẻ đủ thông tin về người bệnh gây khó khăn cho 
quá trình chăm sóc và tư vấn tạo áp lực với điều 
dưỡng ở mức cao nhất là (1.87). Kết quả này phản 
ánh ở Việt Nam, hiện nay ĐD vẫn chưa được coi 
trọng, hay bác sỹ có quá nhiều công việc nên không có 
đủ thời gian chia sẻ thông tin với ĐD, thêm vào đó ĐD 
cũng chưa phát huy được vai trò “phối hợp” trong 
chăm sóc điều trị bệnh nhân.Vì vậy, điều dưỡng chúng 
ta cần mạnh dạn, tự tin, chủ động trao đổi với bác sỹ 
những thông tin về người bệnh để phối hợp trong 
chăm sóc và điều trị ngày một tốt hơn. 
Stress nghề nghiệp của điều dưỡng trong nghiên 
cứu của chúng tôi có sự khác nhau giữa các chuyên
Y HỌC THỰC HÀNH (914) - SỐ 4/2014 
115
ngành về mức độ cũng như tần suất gặp stress. Kết 
quả này cũng tương đồng với kết quả từ nhiều nghiên 
cứu khác trên thế giới khi áp lực gây stress nhiều nhất 
là ở điều dưỡng tại các khoa hồi sức cấp cứu. 
KẾT LUẬN 
1. Trong 7 nhóm tác nhân gây stress phổ biến ở 
nhân viên điều dưỡng thì nhóm các tác nhân liên quan 
đến cái chết của bệnh nhân và qúa tải công việc là 
những yếu tố gây mức độ stress và tần suất cao nhất 
với mức tạo áp lực lần lượt là 1,64 tần suất 0,83 và 
1,42 tần suất 0,99, ngược lại với nhóm tác nhân stress 
liên quan đến thiếu chuẩn bị tâm lý có mức độ tạo áp 
lực thấp 0,99 tần suất 0,75. 
2. Các điều dưỡng làm việc ở khoa Hồi sức cấp 
cứu có tần suất mắc stress cao hơn hẳn điều dưỡng 
làm ở các khoa khác với điểm đánh giá trung bình là 
52,2. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Hans Selye (1965), The stress of life, New York, 
Mcgran-Hill Book Coinc. 
2. Hamaideh S, Mrayyan M, Mudallal R, Faouri I and 
Khasawneh N (2008). Jordanian nurses job stressors and 
social support, Int Nurs Rev; 55 (1): 40-7. 
3. Fukuda H, Ichinose T Kusama T, Yoshidome A, 
Anndow K, Akiyoshi N and Shibamoto T (2008). The 
relationship between job stress and urinary cytokines in 
healthy nurses: a cross-sectional study, Biol Res Nurs; 10 
(2): 183-91. 
4. Đặng Trần Ngọc Thanh, Arrernt Kumyu, Julaluk 
Baramee (2008), “Các yếu tố liên quan đến sự chán nản 
công việc của người điều dưỡng tại khoa hồi sức tích cực 
của các bệnh viện đa khoa TP.HCM”, Kỷ yếu đề tài 
nghiên cứu khoa học điều dưỡng toàn quốc lần thứ 4, 
Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội. 
5. Andal EM (2006). A pilot study quantifying Filipino 
nurses perception of stress, Californian Journal of Health 
Promotion; 4 (4): 88-95. 
6. AbuAlRub R (2006), Replication and examination of 
research data on Job stress and co-worker social support 
with Internet and traditional samples, Journal of Nursing 
Scholarship; 38 (2): 200-204. 
øNG DôNG NéI SOI CHÈN §O¸N Vµ CAN THIÖP TRONG PH¸T HIÖN 
Vµ §IÒU TRÞ UNG TH¦ BµNG QUANG N¤NG T¹I BÖNH VIÖN K 
TrÇn V¨n ThuÊn 
TãM T¾T 
Nghiªn cøu m« t¶ c¾t ngang sö dông ph­¬ng ph¸p 
tiÕn cøu nh»m m« t¶ mét sè ®Æc ®iÓm l©m sµng, vµ kÕt 
qu¶ c¾t u qua néi soi trong ®iÒu trÞ ung th­ bµng quang 
n«ng. 
KÕt qu¶ cho thÊy bÖnh nh©n nam nhiÒu h¬n n÷, 
nhãm tuæi hay gÆp tõ 50 – 70 tuæi, dÊu hiÖu l©m sµng 
®iÓn h×nh lµ ®¸i m¸u. Ph¸t hiÖn bÖnh chñ yÕu dùa vµo 
siªu ©m vµ soi bµng quang, víi thÓ u nhó d¹ng cã 
cuèng vµ u ®¬n ®éc chiÕm ®a sè, kÝch th­íc u ®a sè < 
3cm, vÞ trÝ hay gÆp nhÊt lµ ë 2 thµnh bªn. PhÉu thuËt 
néi soi c¾t u qua niÖu ®¹o lµ ph­¬ng ph¸p cã thÓ triÓn 
khai cã hiÖu qu¶, thêi gian mæ vµ thêi gian hËu phÉu 
ng¾n vµ t­¬ng ®èi an toµn. 
Tõ khãa: Néi soi, ung th­ bµng quang n«ng. 
summary 
A study has been conducted by the method of 
cross-sectional survey so as to describe some clinical 
symptoms and results of removing the tumor by means 
of ultrasound in treatment of hollow cancer of vesica 
urinaria. 
Results indicated that male patients were higher 
than female ones. Group of age who suffer such 
disease most is 50-70 years old. Typical clinic 
symptom is haematuria. It is detected mainly by 
ultrasound and vesica urinaria endoscopy in which 
stem-shaped papilloma and single tumor overwhelm. 
Most of tumor is less than 3cm. They are often seen on 
two sides. Ultrasonic surgery to remove the tumor via 
urethra may be performed effectively with short time 
and relative safety of operation and postoperation. 
Keywords: Ultrasound, hollow cancer of vesica 
urinaria. 
§ÆT VÊN §Ò 
Ung th­ bµng quang (UTBQ) lµ lo¹i ung th­ hay 
gÆp cña hÖ tiÕt niÖu, xÕp thø 2 sau ung th­ tiÒn liÖt 
tuyÕn. T¹i ViÖt Nam, UTBQ chiÕm kho¶ng 2% trong 
tæng sè c¸c lo¹i ung th­. Trong UTBQ, lo¹i ung th­ tÕ 
bµo chuyÓn tiÕp lµ lo¹i hay gÆp nhÊt. NÕu ®­îc ph¸t 
hiÖn sím th× viÖc ®iÒu trÞ ®¬n gi¶n vµ tiªn l­îng tèt. 
HiÖn nay viÖc chÈn ®o¸n UTBQ chñ yÕu dùa vµo siªu 
©m vµ néi soi bµng quang, trong ®ã néi soi bµng quang 
cho phÐp ®¸nh gi¸ khèi u trong bµng quang vµ sinh 
thiÕt chÈn ®o¸n m« bÖnh häc. Ngoµi ra víi nh÷ng khèi 
u bµng quang n«ng th× ®­îc phÉu thuËt c¾t u néi soi 
qua niÖu ®¹o (TUR), ®©y lµ ph­¬ng ph¸p hiÖu qu¶, Ýt 
biÕn chøng vµ b¶o tån chøc n¨ng bµng quang. T¹i 
BÖnh viÖn K cïng víi viÖc ph¸t triÓn néi soi trong chÈn 
®o¸n, can thiÖp c¸c bÖnh ung th­ TUR còng b¾t ®Çu 
®­îc øng dông trong chÈn ®o¸n vµ ®iÒu trÞ UTBQ 
n«ng. Chóng t«i tiÕn hµnh ®Ò tµi nghiªn cøu nh»m c¸c 
môc tiªu sau: NhËn xÐt mét sè ®Æc ®iÓm l©m sµng, 
h×nh ¶nh néi soi vµ sinh thiÕt qua néi soi cña ung th­ 
bµng quang n«ng; §¸nh gi¸ kÕt qu¶ b­íc ®Çu ®iÒu trÞ 
ung th­ bµng quang n«ng b»ng c¾t u qua néi soi. 
PH¦¥NG PH¸P 
§©y lµ nghiªn cøu m« t¶ c¾t ngang sö dông 
ph­¬ng ph¸p tiÕn cøu víi ®èi t­îng lµ bÖnh nh©n ®­îc 
chÈn ®o¸n x¸c ®Þnh ung th­ bµng quang dùa vµo l©m 
sµng, siªu ©m, néi soi bµng quang vµ m« bÖnh häc 
qua néi soi sinh thiÕt ®ang ®­îc ®iÒu trÞ t¹i BÖnh viÖn 
K. Nghiªn cøu ®­îc tiÕn hµnh tõ th¸ng 1/2007 ®Õn 
th¸ng 6/2008, víi cì mÉu lµ 30 bÖnh nh©n ®­îc lùa 
chän tham gia nghiªn cøu. 
C¸c ®èi t­îng nghiªn cøu ®­îc hái khai th¸c bÖnh 
sö, tiÒn sö kh¸m ph¸t hiÖn triÖu chøng l©m sµng theo 
mÉu bÖnh ¸n nghiªn cøu. TiÕn hµnh néi soi bµng 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_stress_nghe_nghiep_cua_dieu_duong_lam_sang_dang_h.pdf