Tổ chức “quan phương và phi quan phương” trong kết cấu xã hội làng xã truyền thống huyện Phổ Yên (Thái Nguyên)

TÓM TẮT

Vấn đề đặt ra là trong kết cấu xã hội làng xã Việt Nam cổ truyền có sự tồn tại cả hai hệ thống hành

chính nhà nước – tổ chức “quan phương” và hệ thống tự trị làng xã – tổ chức “phi quan phương”.

Hai hệ thống này cùng đồng thời tồn tại khiến cho chính quyền làng xã là dạng “chính quyền kép”,

trở thành hiện tượng độc đáo ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới ít có. Các tổ chức này được

phản ánh một cách rõ nét qua các bộ luật làng thành văn: hương ước.

pdf 6 trang yennguyen 28500
Bạn đang xem tài liệu "Tổ chức “quan phương và phi quan phương” trong kết cấu xã hội làng xã truyền thống huyện Phổ Yên (Thái Nguyên)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổ chức “quan phương và phi quan phương” trong kết cấu xã hội làng xã truyền thống huyện Phổ Yên (Thái Nguyên)

Tổ chức “quan phương và phi quan phương” trong kết cấu xã hội làng xã truyền thống huyện Phổ Yên (Thái Nguyên)
Dương Văn Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 73 - 78 
73 
TỔ CHỨC “QUAN PHƯƠNG VÀ PHI QUAN PHƯƠNG” TRONG KẾT CẤU 
XÃ HỘI LÀNG XÃ TRUYỀN THỐNG HUYỆN PHỔ YÊN (THÁI NGUYÊN) 
Dương Văn Hợp*, Đỗ Hằng Nga 
Trường Đại Học Khoa Học – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Vấn đề đặt ra là trong kết cấu xã hội làng xã Việt Nam cổ truyền có sự tồn tại cả hai hệ thống hành 
chính nhà nước – tổ chức “quan phương” và hệ thống tự trị làng xã – tổ chức “phi quan phương”. 
Hai hệ thống này cùng đồng thời tồn tại khiến cho chính quyền làng xã là dạng “chính quyền kép”, 
trở thành hiện tượng độc đáo ở Việt Nam mà nhiều nước trên thế giới ít có. Các tổ chức này được 
phản ánh một cách rõ nét qua các bộ luật làng thành văn: hương ước. 
Từ khóa: “quan phương”, “phi quan phương”, “chính quyền kép”, làng xã, Phổ Yên 
Phổ Yên là một huyện trung du, nằm ở phía 
Nam tỉnh Thái Nguyên, tiếp giáp với nhiều 
huyện khác trong và ngoài tỉnh thuộc cả hai 
vùng miền: đồng bằng và miền núi. Là vùng 
đất có nhiều tiềm năng cho phát triển kinh tế, 
văn hóa – xã hội, từ lâu Phổ Yên được chính 
quyền trung ương ở mỗi thời kỳ lịch sử quan 
tâm và muốn đặt ảnh hưởng, kể cả chính 
quyền ngoại xâm. Năm 1858, thực dân Pháp 
xâm lược nước ta và chính thức đặt ách thống 
trị từ năm 1896 chúng đã biến nước ta thành 
“nửa thuộc địa nửa phong kiến” nghĩa là tồn 
tại hai thế lực phong kiến và thực dân cùng 
nhau cai trị. Trong bối cảnh này, làng xã – nơi 
tụ cư sinh sống của người nông dân Việt Nam 
– chịu sự thống trị nặng nề. Nhận thức được 
vai trò của làng xã Việt Nam trong quá trình 
cai trị, bóc lột, đồng thời cũng thấy được mối 
nguy hiểm từ tính tự trị của làng xã Việt Nam, 
có thể là “pháo đài” chống lại chúng, ngay 
buổi đầu đặt ách cai trị thực dân Pháp đã chú 
ý tới việc quản lý làng xã.*Biện pháp đưa ra là 
nắm lấy làng xã thông qua các địa chủ phong 
kiến và Hội đồng kì mục, biến họ thành tay 
sai phục vụ cho chính sách khai thác thuộc 
địa của chúng “Một tổ chức phức tạp như thế, 
dễ bảo như thế một tổ chức mà trong đó 
không bao giờ thấy có một viên kì mục nào 
hành động đơn độc cả, một tổ chức đã tồn tại 
theo truyền thống từ rất xa xưa, tổ chức đó 
chúng ta không nên đụng chạm tới, kẻo làm 
dân chúng bất bình, xứ sở rối loạn”[1, 62]. 
*
 Tel: 01698330718; Email: conduongdachon90@gmail.com 
Đến những năm 20 của thế kỷ XX, thực dân 
Pháp đã tiến hành cải tổ lại tổ chức xã thôn cổ 
truyền với hi vọng tận dụng và khai thác 
những phương thức tổ chức và quản lý nông 
thôn truyền thống của người Việt để dần dần 
đưa những người nông dân Việt Nam trung 
thành với chế độ bảo hộ, vào nắm các chức vụ 
quan trọng hướng hoạt động của bộ máy này 
làm việc phục vụ đắc lực cho chính sách đô 
hộ của Pháp, “cuộc cải lương hương chính 
bắt đầu tiến hành ở Nam kì vào năm 1904 và 
chỉ trong khoảng 40 năm đầu thế kỉ XX chúng 
đã 7 lần vừa triển khai vừa điều chỉnh ở khắp 
Nam, Bắc và Trung kì”[1, 62]. Trong cuộc cải 
lương hương chính này thực dân Pháp đã 
khôn khéo tận dụng hương ước của làng xã 
Việt Nam để đưa luật pháp của Nhà nước bảo 
hộ vào lệ làng –“lệ làng hóa phép nước”. 
Làng xã Việt Nam cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ 
XX, có nhiều chuyển biến sâu sắc về xã hội 
và kết cấu xã hội phức tạp trong đó có bộ máy 
đứng đầu làng xã. Với sự xuất hiện của các tổ 
chức như: Hội đồng kì mục, Hội đồng tộc 
biểu, Hộ lại, Chưởng bạ dưới sự quản lý 
của chính quyền thực dân, bên cạnh những tổ 
chức truyền thống như Hội đồng lý dịch, Hội 
tư văn làm bộ máy quản lý làng xã trở nên 
cồng kềnh hơn. 
Hương ước cải lương huyện Phổ Yên hiện 
nay còn lại khá nhiều, các bản hương ước chủ 
yếu được lập vào những năm 30, 40 của thế 
kỷ XX. Chịu ảnh hưởng của chính sách “cải 
lương hương chính” mà thực dân Pháp thực 
hiện ở các làng xã trong cả nước, các bản 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Dương Văn Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 73 - 78 
74 
hương ước cải lương huyện Phổ Yên trên đại 
thể về cấu trúc là giống nhau, được chia ra 
làm 2 phần chính là phần chính trị và phần tục 
lệ. Trong đó tập trung chủ yếu vào các nội 
dung như Hội đồng kì mục, Hội đồng lý dịch, 
lệ bầu cử, việc thu thuế, tế tự, canh phòng 
trong làng và ngoài đồng, việc sưu thuế, nộp 
cheo và việc vệ sinh, khuyến nông. Đây là 
nguồn tư liệu phong phú có giá trị trong quá 
trình nghiên cứu, tìm hiểu về làng xã các 
vùng miền trước năm 1945. 
Ở nước ta trước năm 1945, “đối với Nhà 
nước thì làng xã là một đơn vị về việc công, 
Nhà nước chỉ biết toàn xã chứ không biết 
từng người”[2], vì vậy các việc như sưu thuế 
Nhà nước bổ cho mỗi làng một số nhất định, 
rồi làng lo phân bổ cho dân theo cách nào 
cũng được miễn là thu đủ và nộp vào kho cho 
Nhà nước. Hương ước làng Đông Cao tổng 
Tiểu Lễ mục việc sưu thuế có quy định rõ “Lý 
trưởng tiếp phát chỉ bài về thì hội tề kỳ dịch 
lại công Đình quân bổ rồi làm thành biên bản 
đệ trình quan xét phê giao, về thì giao cho xã 
dịch các thôn hành thu trong 20 ngày giao đủ 
sưu thuế, lý trưởng đệ nộp tại tỉnh hay kho 
thóc”[5, 1]. Từ đó, Nhà nước cần duy trì và 
phát triển tổ chức bộ máy quản lý làng xã gọi 
là tổ chức quan phương. Tuy nhiên, tính tự trị 
của làng xã Việt nói chung và làng xã huyện 
Phổ Yên nói riêng vẫn còn rõ nét. Mọi công 
việc trong làng thường do dân làng bàn định, 
chứ Nhà nước ít can thiệp đến được, do đó 
trong bộ máy quản lý làng xã xuất hiện nhiều 
tổ chức riêng của làng xã, gọi là phi quan 
phương. Điều đó có nghĩa: quan phương là tổ 
chức nằm trong hệ thống chính thức của Nhà 
nước và phi quan phương là tổ chức dân sự 
tự trị của nội bộ làng xã [1, 126]. Hầu hết các 
bản hương ước cải lương huyện Phổ Yên đều 
đề cập đến các tổ chức này và cũng chính các 
tổ chức này điều hành làng xã lập ra hương 
ước. Trong bài viết này chỉ tìm hiểu về tổ 
chức “quan phương và phi quan phương” 
trong kết cấu xã hội làng xã truyền thống qua 
nguồn tư liệu của hơn 30 bản hương ước cải 
lương huyện Phổ Yên mà tác giả đã khai thác. 
HỘI ĐỒNG KỲ MỤC – TỔ CHỨC “PHI 
QUAN PHƯƠNG” 
- Thành phần, điều kiện: Hội đồng kì mục 
là bộ máy quản lý làng xã truyền thống gồm 
các tân, cựu, chánh, phó tổng, các chức sắc 
quan lại về hưu, các cựu Lý phó trưởng, 
những người có tuổi trong làng đã tham gia 
đầy đủ các lệ vọng. v.vĐiều kiện để vào 
Hội đồng kỳ mục là phải có địa vị, phẩm 
tước, chức sắc, quan viên hoàn thành tốt 
nhiệm vụ “Nếu người tuần xã làm việc trong 
3 năm chu đáo hết bổn phận thì dân cho ngôi 
kỳ mục” [8, 3] và đặc biệt là phải đã tham gia 
đầy đủ các lệ vọng. Vì trước đó để được địa 
vị trong làng thì phải trải qua các lệ khao 
vọng đồng dân “Người nào làm chánh – phó 
– lý – tổng – xã đoàn, binh lính mà có đơn 
dân tòng cửu phẩm trở lên, khao vọng cả dân, 
tứ quý tại đình có sát sinh, đồng dân kính 
biếu tọa bàn một cỗ” và “Ai làm tiên thứ chỉ 
khao vọng cả dân tiền là 6đ00 dân cho mỗi 
người một cái nhiêu, thời tứ quý tại đình có 
sát sinh kính biếu”[9, 2]. Như vậy, qua các 
bản hương ước cải lương huyện Phổ Yên tác 
giả cho rằng vào Hội đồng kỳ mục không cần 
qua bầu cử mà chỉ cần có đầy đủ các điều 
kiện làng xã đã quy định. 
- Chức năng, quyền hạn: Đứng đầu Hội 
đồng kì mục là Tiên chỉ và có một hay hai 
Thứ chỉ. Đây chính là cơ quan đứng đầu làng 
xã, có toàn quyền quyết định các việc quan 
trọng trong làng như: phân bổ thuế khóa, sưu 
dịch, lính tráng, bầu cử tổng lý (tổng lý bao 
gồm Lý trưởng và Phó lý được Hội đồng kỳ 
mục chọn ra giới thiệu lên quan trên công 
nhận), phân cấp công điền và tổ chức hội hè 
đình đám, cũng như xây dựng tu sửa đình 
chùa. Hội đồng kỳ mục với người đứng đầu là 
Tiên chỉ và Thứ chỉ phối hợp với Lý trưởng 
và Phó lý điều hành cũng như giải quyết việc 
làng; “Chúng tôi là tiên thứ chỉ kỳ lý xã Vân 
Phú phủ Phổ Yên xin lập tục lệ hương ước 
như sau này”[3, 1]. Hội đồng kỳ mục dù 
không phải do bầu cử và được Nhà nước công 
nhận nhưng lại có vai trò và quyền lực lớn 
nhất trong làng: “Làng có Hội đồng kỳ mục 
cùng mấy lý trưởng bàn việc, các việc quan 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Dương Văn Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 73 - 78 
75 
xong rồi giao cho lý trưởng đương thứ thi 
hành lại có các tráng dịch để giúp lý trưởng 
trong việc tuần phòng. Mỗi năm hai vụ thuế, 
khi lý trưởng lĩnh lệ chỉ về phải mời họp Hội 
đồng kỳ mục chức dịch hương lão nhân đinh, 
chiểu bổ làm sổ bổ trình quan phê rồi lý 
trưởng phải sao yết ra đình cho đồng dân biết 
việc thu thuế và kì nộp thuế lý trưởng phải 
ứng tiền làm cỗ cho các người đến họp bổ ăn 
uống một bữa nhưng không được tiêu quá 
10đ00, năm nào mất mùa thì bữa ấy ăn giảm 
đi”[4, 1]. Như vậy, chức năng của kỳ mục 
chính là đại diện của dân, cho dân tham gia 
việc chính trị cùng với lý dịch về việc làng xã. 
Bên cạnh quyền lợi ai tham gia vào Hội đồng 
kỳ mục cũng có quy định về giới hạn “Các 
người dự Hội đồng kỳ mục ai cũng có quyền 
lợi bàn việc dân trước khi tỏ ý kiến của mình 
phải nói năng cử chỉ khiêm tốn để cho hội 
đồng tỏ ý kiến của mình, khi tế tự hoặc ăn họp 
tại đình trung hay đám hiếu hỷ rước thần và 
đưa ma ở ngoài đường có hương lý phải giữ 
cho có trật tự không được làm huyên náo nếu 
làm huyên náo xét ra lỗi nhẹ thì phải xin lỗi 
với dân ưng thuận thì thôi, nếu ai tái phạm 3 
lần sẽ phải bỏ ra ngoài dân nhưng lần nào 
cũng phải làm biên bản”[9, 10]. Theo tác giả 
với quyền hạn của tổ chức “phi quan phương” 
phần nào hạn chế được nạn lộng quyền của tổ 
chức “quan phương” làng xã. 
- Sự biến đổi của Hội đồng kì mục: Hội 
đồng kỳ mục chính là biến thể của Hội đồng 
già làng ở các công xã nông thôn trước đây 
bao gồm những người có tuổi và có uy tín 
trong làng, tham gia bàn bạc các công việc 
của làng, thành viên do dân làng tín nhiệm 
không cần bầu cử. Trong quá trình phát triển, 
Hội đồng kỳ mục vốn là hội đồng của những 
người cao tuổi và có uy tín trong làng thì dần 
đã trở thành hội đồng của những người có 
thế lực và có uy tín trong làng. Như vậy, các 
thành viên trong Hội đồng kỳ mục của làng 
xã cũng không do bầu cử và không cần Nhà 
nước công nhận. 
Thực dân Pháp đến xâm lược và đặt ách 
thống trị lên nước ta cuối thế kỷ XIX, chúng 
đã nhận thấy rằng thôn xã có tổ chức Hội 
đồng kỳ mục và Hội đồng lý dịch có thế lực 
lớn thâu tóm làng xã mà chúng nhận xét là 
“Hội đồng kỳ mục và Hội đồng lý dịch rất 
lỏng lẻo, tùy tiện kém hiệu lực, gây ra sự lũng 
đoạn, mọt rỗng của bọn chức dịch làng xã, 
tạo nên tầng lớp cường hào đục khoét nông 
dân, lừa dối chính quyền bảo hộ bên trên về 
các nghĩa vụ sưu thuế, binh dịch, sử dụng bừa 
bãi công quỹ, lấn chiếm ruộng đất công, ” 
[2, 86]. Từ đó, chính quyền bảo hộ Pháp đã 
tiến hành cuộc cải lương hương chính, mục 
đích là nhằm cải cách thay thế Hội đồng kỳ 
mục vốn khó nắm bắt và không được sự 
công nhận của Nhà nước, bằng Hội đồng tộc 
biểu mà theo chúng là phù hợp, chặt chẽ 
hơn. Nghị định số 1949 ngày 12 tháng 8 năm 
1921 do thống sứ Bắc kỳ quy định thành lập 
mỗi làng một Hội đồng tộc biểu với số lượng 
thành viên tùy thuộc vào số dòng họ và số 
dân đinh trong làng. Cùng với việc cải cách 
Hội đồng kỳ mục truyền thống chính quyền 
bảo hộ Pháp còn tiến hành chấn chỉnh bộ 
máy lý dịch bằng cách quy định nghĩa vụ và 
quyền hạn của nó. Nghị định 1949 nêu Lý 
trưởng là trung gian giữa làng với Nhà nước 
có nhiệm vụ giữ con dấu và địa bạ, lo việc 
thu thuế, Lý trưởng không được tự quyết 
định các việc trong làng mà phải thông qua 
Hội đồng tộc biểu. 
Chính sách cải lương hương chính của Pháp 
nhằm xóa bỏ tính tự trị của làng xã, mặc dù đã 
có những cải cách mạnh mẽ nhưng thực dân 
Pháp đã thất bại. Làng xã không chịu từ bỏ Hội 
đồng kỳ mục vốn đã bám sâu gốc rễ trong tiềm 
thức của dân làng, đến những năm 30 của thế 
kỷ XX, Hội đồng kỳ mục vốn tồn tại và phát 
triển ngày càng mạnh. Hội đồng tộc biểu hạn 
chế dần đến những năm 40 dường như đã vắng 
bóng. Các bản hương ước do làng xã huyện 
Phổ Yên lập ra từ những năm 1940 đã chứng 
minh điều đó. Mở đầu các bản hương ước luôn 
xuất hiện vai trò của Hội đồng kỳ mục và Hội 
đồng lý dịch, Hội đồng tộc biểu ít hoặc không 
được nhắc đến “chúng tôi là tiên thứ chỉ, kỳ 
mục làng (xã). cùng mấy hương lão lập hội 
đồng xem khoản ước cũ của làng và kê cứu 
những lệ”[4, 1]. Những ghi chép như vậy 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Dương Văn Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 73 - 78 
76 
trong hương ước là minh chứng cho tính tự trị 
mạnh mẽ của các làng xã huyện Phổ Yên nói 
riêng và vùng trung du – miền núi nói chung 
so với vùng đồng bằng Bắc Bộ. Nguyên nhân 
của hiện tượng này, đó là làng xã huyện Phổ 
Yên giáp với các châu “kimi” của các huyện 
miền núi phía Bắc: Đại Từ, Định Hóa, Võ 
Nhai, Đồng Hỷ. Các châu “kimi” ở miền núi 
có giao thông khó khăn, xa với chính quyền 
trung ương và là nơi tụ cư sinh sống của các 
đồng bào dân tộc thiểu số. Ở các châu “kimi” 
Nhà nước không với tới được chỉ kiểm soát 
thông qua người “tù trưởng”, “thủ lĩnh” hay 
những “thổ ti” của họ. Vì vậy, tổ chức cộng 
đồng làng xã ở các châu trung du, miền núi 
không chịu ảnh hưởng nhiều từ chính quyền 
trung ương như cộng đồng làng xã ở vùng 
đồng bằng Bắc Bộ. 
HỘI ĐỒNG LÝ DỊCH – TỔ CHỨC 
“QUAN PHƯƠNG” 
- Thành phần, điều kiện: Đứng đầu Hội 
đồng lý dịch là lý trưởng và phó lý được Hội 
đồng kỳ mục chỉ định, do dân làng bầu ra và 
phải được Nhà nước công nhận. Trong tổ 
chức “quan phương” còn có nhiều người 
giúp việc cho lý phó trưởng như: Tuần xã, 
Tráng dõng, Tuần phiên, Thủ bạ, Trưởng bạ, 
hương trưởng tạo thành bộ máy hoàn chỉnh 
trong làng xã. Các bản hương ước của làng xã 
lập ra đều quy định về việc bầu chọn lý 
trưởng và phó lý. Hương ước xã Yên Mễ tổng 
Nghĩa Hương có quy định: “Người nào có 
nhiêu rồi và tuổi được đúng lệ Nhà nước trở 
lên thời được ra ứng cử lý trưởng”. “Trong 
làng cốt có kỳ hào lý trưởng để thay quyền 
dân hoặc có công việc quan lên tỉnh dân chi 
cho mỗi người vừa khứ hồi là 0đ.40 lên phủ lỵ 
vừa khứ hồi mỗi người 0đ.20 để mà ẩm 
thực”[6, 3]. Hương ước xã Cải Đan tổng 
Hoàng Đàm có lệ bầu cử và bán thứ vị như 
sau: “Bầu lý phó trưởng, tuần xã, các hạng 
lính, tráng dõng, tuần phiên, thủ bạ, chưởng 
bạ ai làm thì cứ 3 năm là một khóa, thì dân 
cho một đơn nhiêu miễn trừ phu dịch hay là 
nhiêu tư văn. Ai có gia sản và biết quốc ngữ 
và chữ nho thì dân bầu làm phần thủ để thu 
giữ các món tiền của công của dân nếu giữ 
được 3 năm trở ra thì dân cho một đơn nhiêu 
miễn hay là nhiêu tư văn”[7, 3]. Làng xã trở 
thành Nhà nước thu nhỏ nằm trong Nhà nước 
trung ương. 
- Chức năng, quyền hạn: Hội đồng lý dịch là 
tổ chức quan phương của làng xã đại diện cho 
bộ máy Nhà nước phong kiến ở làng, chịu 
trách nhiệm thu nộp các khoản sưu thuế, phu 
lính của làng cho Nhà nước phong kiến “Mỗi 
năm hai vụ thuế, khi lý trưởng lĩnh lệ chỉ về 
phải mời họp Hội đồng kỳ mục chức dịch 
hương lão nhân đinh, chiểu bổ làm sổ bổ 
trình quan phê rồi lý trưởng phải sao yết ra 
đình cho đồng dân biết việc thu thuế và kì nộp 
thuế lý trưởng phải ứng tiền làm cỗ cho các 
người đến họp bổ ăn uống một bữa nhưng 
không được tiêu quá 10đ00, năm nào mất 
mùa thì bữa ấy ăn giảm đi”[4, 1]. Ngoài ra, 
còn có chức năng quản lý đôn đốc các xã dịch 
tuần phòng, cắt tuần phu, binh lính và giải 
quyết các việc trong làng xã như kiện cáo, vệ 
sinh, cầu cống đường xá,... “Lý phó trưởng xã 
tuần và tuần phu phải tuần phòng trong làng 
và địa giới để cấm chấp những sự gian phi và 
bắt kẻ trái phép”[10, 1]. 
Trong Hội đồng lý lịch thì lý trưởng và phó lý 
là người có quyền thế cao nhất, chịu trách 
nhiệm nhiều nhất trong quản lý công việc 
làng xã, đồng thời là người được hưởng nhiều 
quyền lợi: được trọng vọng về mặt tinh thần 
(chỗ ngồi trong đình) vừa được ưu đãi về mặt 
vật chất (phần quà biếu). 
Trong các làng xã huyện Phổ Yên, tổ chức 
phi quan phương rất mạnh, đồng thời tổ chức 
quan phương cũng phát triển. Bộ máy quản lý 
làng xã huyện Phổ Yên không tách rời với 
Nhà nước nhưng cũng không hoàn toàn phụ 
thuộc, chịu sự chi phối của Nhà nước, nó cân 
bằng khiến cho làng xã ở đây khá ổn định 
trong tiến trình phát triển. 
- Sự biến đổi của Hội đồng Lý dịch: Một 
thực tế trong việc tổ chức bộ máy quan viên 
là có hiện tượng bán thứ vị, nghĩa là đồng tiền 
đã thao túng bộ máy quan viên làng xã. Tuy 
nhiên, hiện tượng này cũng chỉ dừng ở một 
mức độ nhất định bởi các xã dịch được bầu cử 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Dương Văn Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 73 - 78 
77 
vẫn có quyền lực hơn so với những xã dịch 
“bán thứ vị”. Việc có ngôi thứ trong làng xã 
là vô cùng quan trọng, có khi chỉ vì thứ vị mà 
người ta có thể làm mất hết gia sản của mình 
để có một vị trí ngồi trong Đình. “Ai mua lý 
phó trưởng thì phải xuất tiền là năm mươi 
đồng bạc (50đ.00) dân cho nhiêu cũng như lý 
phó trưởng đơn bầu ứng cử”[7, 4]. 
Có thể nói, tâm lý của con người làng xã về 
“quan viên” là tầng lớp “ăn trên ngồi chốc”, 
cùng với việc “quan viên” trong quá trình 
phát triển mang mặt trái của xã hội đã lợi 
dụng chức vụ mà mưu lợi riêng, do vậy mà có 
được chân trong tổ chức quan viên là niềm 
mơ ước chung của người làng xã. Hiện tượng 
bán thứ vị trong làng xã phù hợp với tâm lý 
này, bởi thế mà việc bán thứ vị ngày càng 
phát triển mạnh làm cho tổ chức bộ máy làng 
xã trở nên phức tạp. Cũng vì vậy, Nhà nước 
ngày càng bất lực trong quản lý làng xã “Ai 
mua nhiêu miễn trừ phu dịch thì phải xuất 
tiền mười đồng bạc (10đ.00). Ai mua nhiêu tư 
văn thì phải xuất tiền tám đồng bạc (8đ.00). 
Còn lệ vọng ngồi thì phải lệ tư văn mà vọng, 
ai đã có ngồi tư văn rồi thì mới được mua 
ngôi – chùm xã, chia làm ba hạng: ai đã có 
đơn bầu ứng dịch thì phải xuất năm đồng bạc 
(5đ.00), ai đã mua nhiêu miễn rồi thì phải 
xuất sáu đồng bạc (6đ.00), người giàu thì 
phải xuất bảy đồng bạc (7đ.00)”[7, 4]. 
KẾT LUẬN 
Như vậy, trong mỗi làng Việt cổ truyền, từng 
thành viên phải chịu sự quản lý của hai thiết 
chế tổ chức quyền lực: tổ chức “quan 
phương” và “phi quan phương”, thông qua 
“cơ sở pháp lý” là hương ước kết hợp với 
pháp luật, dư luận, nhằm ràng buộc các thành 
viên trong những nghĩa vụ và trách nhiệm 
nặng nề hơn là quyền lợi. Với hai tổ chức trên 
cùng với hương ước và pháp luật, thiết chế 
làng xã đã biến từng luỹ tre xanh của người 
nông dân thành “pháo đài” tự trị, tự quản 
tương đối đóng kín; tạo ra một uy quyền tuyệt 
đối của làng với các thành viên làng xã. Nói 
một cách khác là sự tồn tại song song của hai 
tổ chức hành chính và tự trị đã tăng cường 
hiệu lực của pháp luật, mở rộng dân chủ ở 
nông thôn, giải quyết tốt mối quan hệ giữa 
luật và tục, giữa nhà nước và làng xã 
Trong tiến trình đó, làng xã huyện Phổ Yên 
đã tiếp thu được những điểm tích cực như; mô 
hình tổ chức phi quan phương đã phần nào 
đem lại quyền lợi cho người nông dân, hạn 
chế sự lũng đoạn của cường hào ác bá nông 
thôn và sự can thiệp bóc lột của chính quyền 
thực dân, phong kiến. Sự xuất hiện của tổ 
chức Hội đồng kỳ mục gồm những thành viên 
thuộc “kì cựu – hương lão” trong làng đã đại 
diện cho dân làng tham gia quản lý, điều hành 
bộ máy hoạt động của làng xã, đã làm thất bại 
âm mưu mục đích của thực dân Pháp trong 
chính sách “cải lương hương chính”. Sự có 
mặt của chức Tiên chỉ, Thứ chỉ là hiện thân 
quyền lực của Hội đồng kì mục ở các làng xã, 
từng bước chi phối, lấn át các chức dịch trong 
nhiều công việc làng kể cả việc sưu thuế, chia 
ruộng đất công làng xã, Trong khi đó, tổ 
chức Hội đồng lý dịch được Nhà nước xây 
dựng khá hoàn hảo lại được hỗ trợ của các tổ 
chức quần chúng làng xã: tư văn, phe – giáp, 
tộc (họ), cùng tham gia quản lý điều hành 
bộ máy làng xã đạt hiệu quả cao. Như vậy, 
làng xã đã phát huy được tính năng động vốn 
có và đặc biệt là trong việc tự quản, tự trị và 
duy trì trật tự ở làng xã. Đây là những bài học 
kinh nghiệm của lịch sử trong việc xây dựng 
hệ thống chính trị ở cơ sở, phục vụ việc quản 
lý xã hội nông thôn hiện nay 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Nguyễn Quang Ngọc (2009), Một số vấn đề 
làng xã Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia, HN. 
[2] Bùi Xuân Đính (1985), Lệ làng phép nước, 
Nxb Pháp lý, Hà Nội. 
[3] Hương ước làng Vân Phú, tổngTiểu Lễ, Kí 
hiệu HƯ 3302, Viện TTKHXH, HN. 
[4] Hương ước xã Đan Hà, tổng Thượng Vụ, Kí 
hiệu HƯ 3282, Viện TTKHXH, HN. 
[5] Hương ước làng Đông Cao, tổng Tiểu Lễ, Kí 
hiệu HƯ 3298, Viện TTKHXH, HN. 
[6] Hương ước xã Yên Mễ, tổng Nghĩa Hương, Kí 
hiệu HƯ 3304, Viện TTKHXH, HN. 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 
Dương Văn Hợp và Đtg Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 109(09): 73 - 78 
78 
[7] Hương ước xã Cải Đan, tổng Hoàng Đàm, Kí 
hiệu HƯ 3278, Viện TTKHXH, HN. 
[8] Hương ước xã Thung Hạc, tổng Hoàng Đàm, 
Kí hiệu HƯ 3287, Viện TTKHXH, HN. 
[9] Hương ước làng Lợi Xá, tổng Hoàng Đàm, Kí 
hiệu HƯ 3291, Viện TTKHXH, HN. 
[10] Hương ước làng Hạ Vụ, tổng Vạn Phái, Kí 
hiệu HƯ 3285, Viện TTKHXH, HN. 
SUMMARY 
ORGANIZATION “LOCAL AND NON – LOCAL” IN THE SOCIAL 
STRUCTURE OF TRADITIONAL VILLAGE SOCIAL AT PHO YEN DISTRICT 
(THAI NGUYEN) 
Duong Van Hop*, Do HangNga 
College of Science – TNU 
The problem is in the social structure of traditional Vietnamese village with the existence of both 
the state administrative system - the organization “local” village and autonomous systems - 
organized “non-local”. The two systems co-exist to make the village government be a “dual 
government”, to they became an unique phenomenon in Vietnam that many countries in the world 
hasn’t much. These organizations reflected are clearly through written laws villages: conventions. 
Key words: “local” “non-local”, “dual government”, villages, Pho Yen, ... 
Ngày nhận bài: 05/3/2013; Ngày phản biện: 15/3/2013; Ngày duyệt đăng: 02/10/2013 
Phản biện khoa học: PGS.TS. Đàm Thị Uyên – Đại học Thái Nguyên
*
 Tel: 01698330718; Email: conduongdachon90@gmail.com 
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 

File đính kèm:

  • pdfto_chuc_quan_phuong_va_phi_quan_phuong_trong_ket_cau_xa_hoi.pdf