Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình: Một phân tích định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội

TÓM TẮT

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ khuyết tật vận động trải nghiệm những khó khăn

về đi lại, học tập nhiều hơn về mặt thái độ, kì thị xã hội. Để giải quyết những khó

khăn như vậy, trẻ khuyết tật hướng đến tự thích ứng, tạo dựng các mối quan hệ trong

gia đình hơn là những đòi hỏi thay đổi về điều kiện cơ sở vật chất, các hình thức dịch

vụ chăm sóc. Trẻ thể hiện sự hài lòng với điều kiện sống của mình. Trên cơ sở các kết

quả thu nhận được, bài viết này đề xuất một vài hàm ý về phát triển các hoạt động

đào tạo, tập huấn và xây dựng mạng lưới dịch vụ xã hội cho trẻ khuyết tật tại gia đình

trong bối cảnh Việt Nam hiện nay dựa trên các quan điểm về kiến tạo xã hội.

pdf 14 trang yennguyen 4800
Bạn đang xem tài liệu "Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình: Một phân tích định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình: Một phân tích định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội

Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình: Một phân tích định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/308611744
Trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật vận động tại gia đình: một phân tích
định tính từ quan điểm kiến tạo xã hội
Article · September 2016
CITATIONS
0
READS
423
1 author:
Some of the authors of this publication are also working on these related projects:
Understanding Daily Life in Vietnam View project
Kham Tran
Vietnam National University, Hanoi
42 PUBLICATIONS   26 CITATIONS   
SEE PROFILE
All content following this page was uploaded by Kham Tran on 26 September 2016.
The user has requested enhancement of the downloaded file.
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
Tr¶i nghiÖm x· héi cña trÎ 
khuyÕt tËt vËn ®éng t¹i gia ®×nh: 
mét ph©n tÝch ®Þnh tÝnh 
tõ quan ®iÓm kiÕn t¹o x· héi 
TS. TrÇn V¨n Kham 
Tr-êng §¹i häc Khoa häc X· héi vµ Nh©n v¨n, §¹i häc Quèc gia Hµ Néi. 
TÓM TẮT 
Kết quả nghiên cứu cho thấy, trẻ khuyết tật vận động trải nghiệm những khó khăn 
về đi lại, học tập nhiều hơn về mặt thái độ, kì thị xã hội. Để giải quyết những khó 
khăn như vậy, trẻ khuyết tật hướng đến tự thích ứng, tạo dựng các mối quan hệ trong 
gia đình hơn là những đòi hỏi thay đổi về điều kiện cơ sở vật chất, các hình thức dịch 
vụ chăm sóc. Trẻ thể hiện sự hài lòng với điều kiện sống của mình. Trên cơ sở các kết 
quả thu nhận được, bài viết này đề xuất một vài hàm ý về phát triển các hoạt động 
đào tạo, tập huấn và xây dựng mạng lưới dịch vụ xã hội cho trẻ khuyết tật tại gia đình 
trong bối cảnh Việt Nam hiện nay dựa trên các quan điểm về kiến tạo xã hội. 
Từ khóa: Trẻ khuyết tật; Vận động; Hà Nội; Trải nghiệm; Hòa nhập xã hội. 
Ngày nhận bài: 15/3/2016; Ngày duyệt đăng bài: 25/8/2016. 
1. Đặt vấn đề 
Việt Nam là quốc gia thứ hai trên thế giới kí cam kết thực hiện Công ước 
về quyền trẻ em (UNICEF, 1989) và là một trong những quốc gia đầu tiên kí Công 
ước về quyền của người khuyết tật (UN, 2006). Điều đó thể hiện Việt Nam, mặc 
dù còn những khó khăn về các điều kiện kinh tế nhưng đã nỗ lực để tạo những 
điều kiện tốt nhất cho trẻ em nói chung và trẻ em khuyết tật nói riêng. Hiện có 
khoảng 7 triệu người khuyết tật ở Việt Nam, trong đó, trẻ em chiếm khoảng 
28,9% (Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2015). Trong bài viết này, các nội dung được 
đề cập liên quan đến cách nhìn của cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật về sự 
trải nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật từ cuộc sống trong gia đình ra bên ngoài 
xã hội. Câu hỏi nghiên cứu bao gồm các nội dung sau: Đâu là những khó khăn 
trong cuộc sống tại gia đình của trẻ khuyết tật vận động? Những cách thức trẻ 
khuyết tật vận động giải quyết những khó khăn đó? Trong việc giải quyết những 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
khó khăn như vậy, đâu là những trải nghiệm của trẻ khuyết tật vận động tại gia 
đình. Hiểu và đánh giá về sự trải nghiệm này chủ yếu dựa trên quan điểm của 
chính người trong cuộc: Cha mẹ trẻ khuyết tật và trẻ khuyết tật. 
Để trả lời các câu hỏi nêu trên, chúng tôi dựa trên thông tin thu được 
trong nghiên cứu về trải nghiệm của trẻ khuyết tật vận động tại Hà Nội, được 
triển khai từ năm 2014 với sự tham gia của 13 trẻ khuyết tật vận động ở độ tuổi 
12 - 16, có cơ hội đến trường học tập (trong đó có 4 trẻ em đang sống thường 
nhật tại trung tâm bảo trợ xã hội) và 4 cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật trên 
địa bàn quận Thanh Xuân và Hai Bà Trưng, Hà Nội. Mẫu nghiên cứu được chọn 
theo cách ngẫu nhiên dựa trên danh sách trẻ đang học tập tại các trường hòa 
nhập trên địa bàn hai quận này. Các thông tin thu được được đánh giá, hiểu và 
nhận diện qua kỹ thuật phân tích nội dung (content analysis) với các chủ đề 
được tóm lược dựa trên câu hỏi nghiên cứu đã được đề cập. Với cách phân tích 
định tính như vậy, vấn đề trải nghiệm của trẻ khuyết tật được hiểu qua cách 
tiếp cận về kiến tạo luận xã hội (social constructionism) như là một định hướng 
lý thuyết cho nhận diện và giải thích về trải nghiệm cuộc sống của trẻ khuyết 
tật vận động tại gia đình. 
2. Kiến tạo luận xã hội: nền tảng lý luận cho nghiên cứu về trải 
nghiệm xã hội của trẻ khuyết tật 
Kiến tạo luận xã hội (social constructionism) thực hiện chức năng như 
nền tảng nhận thức luận và được nhận diện như là một lý thuyết trong nghiên 
cứu này nhằm khám phá trải nghiệm của trẻ khuyết tật trong cuộc sống thường 
nhật từ bối cảnh gia đình. Thuật ngữ kiến tạo luận xã hội đề cập đến nhiều hoạt 
động học thuật nhằm phân tích nguồn gốc của tri thức và ý nghĩa về hiện thực 
cuộc sống, được biểu đạt, lý giải và hiểu thông qua các mối quan hệ xã hội và 
các tương tác xã hội mà các chủ thể xã hội của bối cảnh đó thực hiện. Kiến tạo 
luận xã hội được phát triển từ ba xu hướng lý luận: phê phán tích cực hay lý 
luận của phong trào diễn ngôn (discourse analysis); phê bình văn học - tu từ về 
chủ nghĩa hiện thực; các quan điểm về phê phán xã hội (Given, 2008, tr. 816). 
Kiến tạo luận xã hội được nhận biết như một trong những luận điểm lý thuyết 
nổi trội trong khoa học xã hội cuối thế kỷ trước (Helt, 2001). Những quan điểm 
chính của kiến tạo luận xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với lý luận tạo dựng 
(constructivism) - một hệ thống các quan điểm về cách thức cá nhân tạo dựng 
tri thức trong mối quan hệ chặt chẽ với quá trình nhận thức và vô thức của 
chính chủ thể nhận thức (Wicker, 1984; Alcoff, 1996). Trong khi đó, kiến tạo xã 
hội hàm ý việc hình thành nhận thức và tri thức của một cá nhân do những yêu 
cầu của điều kiện sống bên ngoài xã hội, của bối cảnh xã hội (Young, 1996; 
Goodley, 2011). Cách hiểu về lý luận tạo dựng (constructivism) nhấn mạnh 
đến việc các cá nhân tạo dựng ý nghĩa từ tri thức ở khía cạnh tâm lý xã hội còn 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
kiến tạo luận xã hội đề cập đến sự phát triển các hiện tượng trong mối quan hệ 
với bối cảnh xã hội (kiến tạo có tính xã hội) (Berger và Luckmann, 1966; Gergen, 
1985; Young, 1996; Burr, 2007; Trần Văn Kham, 2013). 
Kiến tạo luận xã hội quan tâm đến cách con người tạo dựng cái hiện thực 
cuộc sống mà họ đã nhận thức ra sao. Đó chính là quan điểm cơ bản được nhận 
diện trong nhiều nghiên cứu triết học truyền thống. Với tư cách là một cách tiếp 
cận, quan điểm về con người tạo dựng cái hiện thực cuộc sống được hiện diện 
đầu tiên trong công trình của Immanuel Kant, sau đó là trong nghiên cứu của Karl 
Mannheim và nhiều học giả khác (Holstein và Miller, 1993; Lock và Strong, 2010). 
Trong thế kỷ XX, quan điểm về kiến tạo luận xã hội được nhận diện ở các 
chuyên ngành Tâm lý học, Xã hội học và các nghiên cứu khác liên quan đến 
khoa học, công nghệ và xã hội (Crotty, 1998; Given, 2008; Harris, 2010). Kiến 
tạo luận xã hội cũng có những vị trí quan trọng trong các lĩnh vực khoa học xã hội 
và thuộc về các làn sóng hậu hiện đại hay lý luận hiện thực mới. Những quan 
điểm trong lý luận này được đưa ra đều nhấn mạnh đến cách thức tri thức được 
kiến tạo, tạo dựng trong các bối cảnh xã hội ra sao (Trần Văn Kham, 2013). 
Ngôn ngữ, được xem là công cụ giao tiếp, là một phần của quá trình kiến 
tạo xã hội. Đó chính là phương tiện để trao đổi quan điểm, thông tin và tạo dựng 
ý nghĩa về các mối quan hệ xã hội (Burr, 2007, tr. 8). Quan điểm như vậy được 
lý giải như sau: “Khi cá nhân trao đổi với nhau, cách hiểu về cuộc sống được tạo 
dựng” (Eldly, 2001, tr. 437); “Việc trao đổi thành lời kéo theo việc tạo dựng và 
hình thành những đánh giá hay những câu chuyện cụ thể về cái hiện thực cuộc 
sống” (Bricher, 2000; Blundor và Greene, 2008). Do đó, việc sử dụng ngôn từ 
và nhấn mạnh đến phân tích câu chuyện, lời nói được xem là những định hướng 
được sử dụng trong nghiên cứu này để hiểu về ý nghĩa của bối cảnh và vấn đề 
trải nghiệm, hòa nhập xã hội của trẻ khuyết tật. 
Với người khuyết tật nói chung, trẻ khuyết tật nói riêng, việc bị gán nhãn 
và sử dụng thuật ngữ về tên gọi của các dạng tật (như què, mù, điếc, câm) 
cũng có những tác động tiêu cực về mặt xã hội. Cách gán nhãn, gọi tên như 
vậy cũng biểu đạt thái độ và cách nhìn tiêu cực của xã hội đối với người khuyết 
tật trong cuộc sống thường nhật (Bricher, 2000; Blundor và Greene, 2008, tr. 251). 
Cách nhìn như vậy được phát triển thông qua ngôn ngữ và các tương tác xã hội 
để hiểu hơn về mối quan hệ giữa cá nhân và nhóm, cá nhân và các bối cảnh 
sống (Tezri, 2004; Burr, 2007). Từ cách hiểu gán nhãn như vậy, nghiên cứu 
này nhìn nhận cách thức nhận diện và hiểu sự trải nghiệm của trẻ khuyết tật 
vận động theo các bối cảnh cụ thể khác nhau, phù hợp với các điều kiện thực 
tại của cuộc sống. Ở đó, gia đình luôn được nhìn nhận là điều kiện sống sơ cấp, 
ban đầu, quan trọng và rất hữu ích cho sự phát triển cá nhân trẻ khuyết tật 
trong giai đoạn sau này của cuộc sống. 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
3. Trải nghiệm những khó khăn ở gia đình 
Trong các cuộc phỏng vấn, trẻ khuyết tật được hỏi “Những điều khó 
khăn nhất khi sống ở gia đình là gì?” và các câu hỏi liên quan đến cha mẹ và anh 
chị em của trẻ khuyết tật như “Đâu là những khó khăn nhất mà anh chị em của 
trẻ khuyết tật có trong cuộc sống tại gia đình?”. Giống như những phát hiện về 
trải nghiệm của trẻ khuyết tật ở bối cảnh trường học (Trần Văn Kham, 2016), 
những phản hồi rõ ràng nhất của trẻ khuyết tật liên quan đến những khó khăn 
trong việc đi lại, học tập và tự làm các công việc cho bản thân. Không có 
những phản hồi liên quan đến thái độ tiêu cực từ các thành viên khác trong gia 
đình đối với trẻ khuyết tật. 
Trong các cuộc phỏng vấn, các câu hỏi về sự bất tiện trong cuộc sống 
gia đình được đưa ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp nhưng thông tin được trẻ 
khuyết tật cung cấp, trả lời các câu hỏi luôn bị hạn chế. Hầu hết trẻ khuyết tật 
không nghĩ hay không đề cập đến những vấn đề khó khăn trong cuộc sống gia 
đình, do đó các thông tin được thu thập chủ yếu từ cha mẹ và anh chị em của 
trẻ khuyết tật. Chỉ có 2 trong số 13 trẻ khuyết tật đề cập đến những khó khăn 
trong việc đi lại và đi ra bên ngoài chơi (T.V.T., trẻ khuyết tật). Một số trẻ 
khuyết tật khác đề cập đến việc chưa bao giờ gặp những khó khăn trong cuộc 
sống (B.V.T., trẻ khuyết tật) và cho rằng mọi thành viên đều quan tâm nhiều 
đến mình và tạo mọi điều kiện cho cuộc sống của mình ở gia đình. Từ quan 
điểm như vậy, gia đình được xem là nơi tốt nhất cho trẻ khuyết tật. 
Có 4/4 phản hồi từ cha mẹ, anh chị em của trẻ khuyết tật cho thấy, những 
khó khăn mà trẻ em gặp phải trong trải nghiệm chủ yếu là trong đi lại và học 
tập, mặc dù vậy, không có phản hồi nào cho thấy những khó khăn mà trẻ phải 
đối mặt trong cuộc sống gia đình ở khía cạnh thái độ kì thị từ các thành viên trong 
gia đình. Theo cha mẹ và anh chị em của trẻ khuyết tật, những vấn đề liên quan 
đến đi lại, tự tin, học tập ở gia đình, vui chơi với các thành viên khác trong gia 
đình và một vài khía cạnh liên quan đến giao tiếp với các cá nhân khác là 
những khó khăn mà trẻ khuyết tật phải đương đầu nhiều nhất trong cuộc sống 
gia đình. 
Hầu hết các phản hồi đề cập đến khó khăn của trẻ khuyết tật trong việc 
đi lại, đặc biệt ở trong các tình huống mà trẻ khuyết tật có sử dụng xe lăn. Điều 
kiện nhà ở tại Hà Nội hiện nay cũng như các điều kiện cơ sở hạ tầng không 
phải dễ tiếp cận cho người khuyết tật nói chung, trẻ khuyết tật vận động nói 
riêng. Từ nghiên cứu gần đây, các phản hồi cho thấy người khuyết tật cố gắng 
để học cách thích ứng những rào cản, hạn chế đó hơn là mong muốn phải tạo 
sự thay đổi ngay. Hầu hết những khó khăn mà trẻ khuyết tật đối mặt và trải 
nghiệm trong cuộc sống gia đình cũng như ở bên ngoài cộng đồng, trường học 
chính là việc đi lại và tự chăm sóc bản thân. 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
“ Nó gặp nhiều khó khăn trong việc đi lại, vì nó không thể đi được. 
Cứ khi nào nó cần ngồi vào xe lăn hoặc rời khỏi xe lăn, nó cần giúp đỡ từ tôi, 
vì tôi ở nhà bán hàng vặt. Nó ngồi học và viết thì không cần giúp đỡ gì, sau 
bữa ăn, nó thỉnh thoảng giúp tôi sắp xếp bát đĩa nhưng những việc tắm rửa, vệ 
sinh cá nhân thì vẫn cần tôi hỗ trợ” (T.K., mẹ của trẻ khuyết tật, 38 tuổi). 
Cảm giác cô đơn cũng được ghi nhận khi trẻ bàn luận về những khó 
khăn trong cuộc sống gia đình. Trẻ khuyết tật vận động có xu hướng bị hạn chế 
trong việc tạo dựng mối quan hệ với trẻ em khác ở bên ngoài gia đình. Hiện 
tượng này đang hiện hữu không chỉ với trẻ khuyết tật mà còn cả với các gia 
đình trẻ không khuyết tật. Hiện tượng này chịu tác động bởi các vấn đề xã hội 
hiện đang tồn tại ở cộng đồng, nhất là ở các khu vực đô thị, ven đô. Cảm giác 
này có vẻ nghiêm trọng hơn đối với những đứa trẻ không có cơ hội đi học. Hơn 
nữa, ở các khu vực đô thị Việt Nam hiện nay, gia đình đang có xu hướng chuyển 
đổi mạnh mẽ từ hình thức gia đình mở rộng sang gia đình hạt nhân. Do đó, trẻ 
khuyết tật ít có cơ hội được vui chơi, kết bạn bên ngoài các bối cảnh vốn quen 
thuộc trong cuộc sống (gia đình, trường học). 
“ Cháu nhà tôi gặp nhiều khó khăn trong việc đi lại, chăm sóc bản 
thân (cháu bị dị tật ở chân và nhận thức) nên cháu rất ngại trong giao tiếp với 
người bên ngoài, trẻ em hàng xóm” (V.T., cha của trẻ khuyết tật, 48 tuổi). 
“ Cháu thường chơi một mình ở nhà. Những đứa trẻ khác trong khu 
phố lớn hơn hay chơi trò chơi chạy nhảy và cũng nghịch, cháu không chơi cùng 
vì cũng sợ cháu không chơi được” (H.Q.T., cha của trẻ khuyết tật, 46 tuổi). 
Đáng lưu ý là những khó khăn mà trẻ khuyết tật gặp phải đã chuyển đổi từ 
trẻ khuyết tật sang các thành viên gia đình ở nhiều khía cạnh, như về thái độ xã 
hội, vấn đề tài chính, vấn đề tâm lý, mất nguồn nhân lực lao động do phải có 
người chăm sóc trẻ khuyết tật. Điều này cũng cho thấy các thành viên gia đình 
đã và đang cố gắng giải quyết các vấn đề, tạo dựng bối cảnh tốt hơn để giúp trẻ 
khuyết tật vượt qua những khó khăn trong cuộc sống gia đình để hướng đến 
thúc đẩy sự hòa nhập xã hội thông qua các mối quan hệ thân thuộc, gần gũi 
hơn với trẻ khuyết tật cũng như tạo được nhiều hoạt động trợ giúp cho trẻ khuyết 
tật trong cuộc sống gia đình. 
“ Điều khó khăn nhất mà K. và gia đình tôi gặp phải đó là làm thế 
nào để giúp em ấy đến trường, giải quyết những vấn đề học phí ở trường vì 
học phí và các chi phí học tập ở trường khá cao” (N.H., chị của K. trẻ khuyết tật, 
24 tuổi). 
Với những khó khăn ở gia đình, không có nhiều dấu hiệu cho thấy những 
thái độ không tích cực đối với trẻ khuyết tật từ người khác trong gia đình. Theo 
những giá trị truyền thống, các thành viên trong gia đình luôn nghĩ về những 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
mất mát, thiếu hụt hoặc sự không may mắn của trẻ khuyết tật. Trẻ khuyết tật 
thường được xem là người gánh hết những điều không tốt đẹp trong gia đình. 
Và thông thường, trẻ khuyết tật được nhìn nhận là đáng thương hơn là với thái 
độ không tích cực từ các thành viên khác trong gia đình. 
Từ những quan sát thông qua phỏng vấn ở các gia đình trẻ khuyết tật, 
có thể nhận thấy, nhiều gia đình hiện thiếu các điều kiện, cơ sở trợ giúp cuộc 
sống của trẻ khuyết tật. Điều này có lẽ có tính phổ biến ở các gia đình Việt 
Nam hiện nay. Thông thường, điều kiện về chỗ ăn, ở, ngủ, học tập không thực 
sự phù hợp cho cả trẻ không khuyết  ...  sống ở các trung tâm và sống ở gia đình. 
4.2. Các mối quan hệ với anh chị em và các thành viên khác trong 
gia đình 
Hầu hết trẻ khuyết tật đều thể hiện quan điểm cho rằng, anh chị em là 
người rất quan trọng đối với mình trong việc vui chơi, tham gia vào các hoạt 
động khác nhau như chơi cờ, đi chơi, chia sẻ thông tin, kể chuyện, trợ giúp 
trong học tập và trong cuộc sống gia đình. Các khía cạnh xung đột với anh chị 
em hoặc thái độ không tích cực từ anh chị em không được nhận diện trong 
những phỏng vấn này. Trong việc trao đổi về khía cạnh ai là người nói chuyện 
nhiều trong gia đình, một số trẻ khuyết tật bày tỏ sự quan tâm khi nói chuyện 
cùng anh chị em: 
“ Ở gia đình em, em thích nói chuyện và chơi với em gái Cứ khi 
nào em buồn chán, em thường chia sẻ điều đó với em ấy cũng như nói với mọi 
người khi ăn cơm” (L.T.T., trẻ khuyết tật, 13 tuổi). 
Vai trò của người già trong gia đình được nhìn nhận là người chăm sóc, 
trợ giúp cho giới trẻ. Trong truyền thống, trẻ em được giữ tại nhà, vui chơi 
cùng bố mẹ, ông bà, người thân cho tới khi lớn khoảng 3 - 4 tuổi thì mới đi 
mẫu giáo, do đó trẻ em chịu nhiều tác động từ ông bà và được thế hệ đi trước 
xã hội hóa tại gia đình. Trong nhiều trường hợp gia đình mở rộng, người già 
(ông bà) thường sống với con hoặc cháu dâu và đóng vai trò chăm sóc trẻ trong 
cuộc sống gia đình. Bên cạnh các mối quan hệ với cha mẹ và anh chị em, trẻ 
khuyết tật có mối quan hệ với ông bà. Mối quan hệ đó đóng vai trò quan trọng 
trong cuộc sống gia đình: 
“ Trong thời gian ở nhà, em cảm thấy rất buồn, em thường nói chuyện 
với ông bà” (N.D.T., trẻ khuyết tật, 14 tuổi). 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
“ Khi em buồn, em thường nói chuyện với mẹ em... Mẹ em là người rất 
hiểu và chia sẻ nhiều điều với em Trong học tập, bố em giúp em rất nhiều” 
(N.Q.H., trẻ khuyết tật, 12 tuổi). 
Khi được hỏi: “Ai là người nói chuyện với em nhiều khi em ở nhà?”, 
N.K. (trẻ khuyết tật) trả lời “Chẳng có ai cả”. Mặc dù vậy, trong gia đình, anh 
trai lại là người nói chuyện nhiều với em. Loại thông tin như vậy cũng được 
N.Q.H. (trẻ khuyết tật, 12 tuổi) cung cấp. Các mối quan hệ giữa anh chị em của 
trẻ khuyết tật thường dễ dàng hình thành và trở thành nhân tố quan trọng để trợ 
giúp trẻ khuyết tật tại gia đình. Trong các cuộc phỏng vấn với trẻ khuyết tật, 
anh chị em thường được xem như là người cung cấp các nguồn hỗ trợ chính và 
tương tác chính trong cả việc học tập và vui chơi cũng như chia sẻ những mối 
quan tâm, thói quen trong cuộc sống. 
Mối quan hệ giữa trẻ khuyết tật và các thành viên trong gia đình được 
biết đến một cách tích cực theo nhiều khía cạnh trong cuộc sống của trẻ khuyết tật, 
từ việc sử dụng thời gian đến làm việc cùng nhau, tạo sự hỗ trợ và nói chuyện 
về một điều gì đó. Các kết quả được biểu lộ ra cho thấy, trẻ khuyết tật được 
lắng nghe và được nhận diện trong tiếng nói của người không khuyết tật trong 
cuộc sống gia đình. Đó là những điều rất quan trọng để khích lệ và thúc đẩy 
tiến trình hòa nhập của trẻ, giúp quá trình trải nghiệm tại bối cảnh gia đình có ý 
nghĩa hơn. 
Một số trẻ em trong phỏng vấn này đang sống xa gia đình, tại trung tâm 
phục hồi chức năng, bảo trợ xã hội. Trải nghiệm của họ trong cuộc sống thường 
nhật, học tập cho thấy các em khá độc lập. Mặc dù thiếu sự trợ giúp thường 
nhật trực tiếp từ cha mẹ nhưng bất cứ khi nào nói chuyện về một ai đó quan trọng 
trong cuộc sống thì các em thường đề cập đến cha mẹ và gia đình. Phương tiện 
mà trẻ khuyết tật thường sử dụng để giao tiếp, liên lạc với gia đình khi sống xa 
nhà là điện thoại và các em mong muốn được trở về nhà ngay khi có điều kiện. 
5. Cách thức giải quyết khó khăn tại gia đình 
Nhận được sự trợ giúp từ những thành viên khác trong gia đình là cách 
thức cơ bản mà trẻ khuyết tật giải quyết những khó khăn trong cuộc sống của 
mình. Giải quyết các công việc và trợ giúp trẻ khuyết tật cũng là cách thức cơ 
bản mà các bậc cha mẹ và anh chị em thành viên trong gia đình thực hiện để 
giúp trẻ khuyết tật. Sự hỗ trợ đó được thực hiện với nhiều khía cạnh quan trọng 
trong cuộc sống của trẻ khuyết tật, bao gồm việc đi lại, học tập, vui chơi, tạo 
dựng mối quan hệ với người khác. 
Các câu trả lời của trẻ cho câu hỏi “Trong gia đình, ai giúp đỡ cháu trong 
hoạt động thường nhật nhiều nhất?” cho thấy, cha mẹ là những người có đóng 
góp quan trọng đối với trẻ khuyết tật trong hầu hết các khía cạnh của cuộc sống: 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
“ Vâng, mẹ em thường hỗ trợ em nhiều Nhìn chung, mọi người giúp 
em rất nhiều nhưng mẹ là người giúp nhiều nhất. Mẹ thường đọc sách, đọc truyện 
cho em nghe khi em ở nhà, đôi khi mẹ còn ngồi hướng dẫn học, bóp chân cho em 
đến tận khuya” (D.B.T., trẻ khuyết tật, 14 tuổi). 
“ Nhìn chung, em có thể đi lại được, mặc dù có khó khăn nhưng em 
rất cố gắng làm một số việc, ví dụ giúp mẹ nấu ăn, dọn dẹp đồ đạc trong gia 
đình. Do vậy, bố mẹ em là người giúp em nhiều nhất khi em gặp khó khăn 
trong sinh hoạt, cuộc sống” (L.H.H., trẻ khuyết tật, 15 tuổi). 
Việc đưa ra những lời khuyên cho trẻ từ các thành viên trong gia đình 
thường được nhìn nhận như cách thức giải quyết những khó khăn trong cuộc 
sống của trẻ khuyết tật. Điều này được diễn ra bất cứ khi nào trẻ khuyết tật gặp 
phải những điều lo lắng, khó khăn trong cuộc sống cũng như bắt gặp những 
thái độ không tích cực từ cá nhân khác hoặc không thể làm điều gì đó hoặc cần 
sự trợ giúp từ ai đó: 
“ Trong một số trường hợp, nếu em tôi có gặp phải thái độ kì thị ở 
trường, với tư cách là anh trai, tôi sẽ cho em tôi những lời khuyên để giải tỏa 
tinh thần cho em Trong việc định hướng học tập, công việc cho em, tôi cũng 
hướng dẫn em cần quyết tâm học xong bậc phổ thông. Nếu em ấy không theo 
học được bậc phổ thông, gia đình tôi có lẽ hướng em theo học nghề, học lấy 
một nghề gì đó để sau này có thể có được việc làm, tự nuôi sống bản thân” 
(N.H., anh trai của trẻ khuyết tật, 26 tuổi). 
Việc để trẻ khuyết tật nhận được quá nhiều sự trợ giúp từ các thành viên 
khác trong gia đình hoặc gia đình làm thay quá nhiều việc cho trẻ cũng không 
phải là tốt, phù hợp từ quan điểm của trẻ khuyết tật. Điều này, đôi khi, dẫn đến 
trẻ khuyết tật quá phụ thuộc vào các thành viên khác trong gia đình hoặc quá 
được nuông chiều trong một số tình huống. Theo khía cạnh này, tiếng nói của 
trẻ khuyết tật đã thể hiện được sự mong muốn có được sự trợ giúp nhiều hơn là 
được hỗ trợ hoàn toàn hoặc làm thay, giúp đỡ nhiều cho các em: 
“Ở quê, em sống cùng các thành viên gia đình em, mọi người giúp em 
làm rất nhiều thứ Khi em đến sống ở trung tâm này, em thấy những bạn khuyết 
tật khác làm được nhiều việc hơn em. Có lẽ đó là cách mà gia đình giáo dục trẻ. 
Mẹ em thường bảo em bị liệt nên mọi người cần làm thay cho em, mọi người 
thường nói thương em, tội nghiệp em Việc giúp em thực sự cần khi em còn bé, 
khi em lớn lên, em cần sự hướng dẫn hơn là làm thay Nhiều khi em cầm đồ 
không vững bị rơi vỡ, mẹ em luôn làm thay em khi thấy em định lấy cái gì Sau 
2 năm em ở trung tâm, em học được tính tự lập nhiều hơn. Giờ đến lúc về nhà, 
mọi người luôn vui vì em đã làm được nhiều việc hơn” (N.T.T., trẻ khuyết tật, 
16 tuổi). 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
Khi đề cập đến sự trợ giúp trẻ khuyết tật từ cha mẹ hoặc các thành viên 
trong gia đình, một số nhân viên xã hội tại trung tâm Thụy An cho rằng, việc 
giúp đỡ trẻ khuyết tật quá nhiều cũng làm cho trẻ trở nên sống phụ thuộc nhiều 
hơn vào người khác trong gia đình. Ngược lại, thiếu hụt sự quan tâm cũng làm 
cho trẻ khuyết tật cảm thấy cô đơn, bị tách biệt (giống như một số tình huống 
trẻ khuyết tật bị bỏ rơi từ nhỏ). Một số trẻ khuyết tật nói nhiều về việc trẻ 
khuyết tật giúp đỡ gia đình làm những công việc nhà. Các câu trả lời cho câu 
hỏi “Em thường làm gì ở nhà vào cuối tuần hoặc lúc rảnh rỗi?” cũng cho thấy 
khả năng tham gia của trẻ khuyết tật vào các công việc như lau nhà, chăm sóc 
bản thân, chuẩn bị bữa ăn và làm các công việc gì đó cho chính bản thân trẻ 
Giá trị và ý nghĩa của sự tham gia như vậy được thể hiện qua quan điểm của trẻ 
khuyết tật như là một cách chứng tỏ rằng, trẻ khuyết tật có thể làm điều gì đó, 
người khác sẽ thấy được khả năng làm được công việc hơn là những hạn chế 
của trẻ, qua đó trẻ tăng cường được sự tin tưởng của các thành viên trong gia 
đình đối với các em. Các quan điểm như vậy đã được thể hiện trong hầu hết 
các phản hồi của trẻ khuyết tật trong các cuộc phỏng vấn. 
6. Kết luận 
Những kết quả thu nhận được từ phỏng vấn về những trải nghiệm của trẻ 
khuyết tật tại gia đình cho thấy, cha mẹ, anh chị em là những người rất quan 
trọng trong cuộc sống của trẻ. Trẻ khuyết tật luôn nhận diện được vai trò quan 
trọng của gia đình trong cuộc sống của các em. Một số trẻ khuyết tật sống xa 
gia đình ở các trung tâm chăm sóc tập trung thì mối quan hệ như vậy còn có ý 
nghĩa đặc biệt quan trọng. Mặc dù không có những tương tác thường nhật nhưng 
trẻ khuyết tật sống xa gia đình luôn liên lạc với cha mẹ qua điện thoại hoặc về 
nhà vào cuối tuần. Các mối quan hệ với các thành viên trong gia đình cũng khá 
đa dạng. Việc trợ giúp của gia đình đối với trẻ khuyết tật được xem là cách 
thức hữu ích để giúp trải nghiệm của trẻ có ý nghĩa hơn, định hướng sự hòa nhập 
tốt hơn trong cuộc sống. Nhiều trẻ khuyết tật mong muốn học được những kỹ 
năng hòa nhập, sống độc lập hơn là được làm thay, được giúp đỡ tất cả trong 
cuộc sống của mình tại gia đình hoặc tại các trung tâm phục hồi chức năng, 
giáo dục hoặc đào tạo việc làm hiện nay. 
Từ cách nhìn của kiến tạo luận xã hội, vấn đề trẻ khuyết tật vận động 
trải nghiệm được hiểu rõ hơn thông qua bối cảnh xã hội mà trẻ khuyết tật trải 
nghiệm. Gia đình được trẻ khuyết tật vận động nhận diện là an toàn và phù hợp 
nhất cho các em. Vì vậy, việc tạo dựng các hoạt động trợ giúp cho trẻ khuyết 
tật cũng nên được vận hành qua gia đình. Đây là bài học kinh nghiệm mà nhiều 
quốc gia phát triển các mô hình công tác xã hội trợ giúp trẻ khuyết tật đã rút ra. 
Cách làm này có tính bền vững và phù hợp với cách tiếp cận về kiến tạo luận 
xã hội: Sự trải nghiệm của đối tượng cần trợ giúp, nghiên cứu, can thiệp cần 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
được hiểu qua bối cảnh của họ, qua cách hiểu của chính những người trong 
cuộc. Đây là những lĩnh vực, hoạt động còn thiếu và chưa phát triển toàn diện 
trong việc chăm sóc trẻ khuyết tật ở Việt Nam hiện nay. 
Chú thích 
Nội dung bài viết này là một phần trong đề tài nghiên cứu về “Trải nghiệm khuyết tật 
của trẻ khuyết tật vận động tại Hà Nội” được triển khai thực hiện năm 2014 (đề tài 
cấp ĐHQG Hà Nội, do TS Trần Văn Kham chủ trì) với mục tiêu nhận diện cách mà 
trẻ khuyết tật vận động trải nghiệm ở gia đình, cách thức giải quyết những khó khăn 
và các đề xuất nhằm trợ giúp đối tượng này từ các lĩnh vực hoạt động chuyên môn, 
đặc biệt là từ công tác xã hội. 
Tài liệu trích dẫn 
1. Alcoff L.M., Real knowing: New versions of the Coherence Theory, Cornell University Press, 
New York, 1996. 
2. Berger P. & Luckmann T., The social construction of reality, Doubleday, New York, 1966. 
3. Blundor R. & Greene R.R., Social construction, in Human Behavior Theory and Social 
Work Practice, 3rd edn, ed. R.R. Greene, Aldine Transaction, New Brunswick, New York, 
pp. 237 - 264, 2008. 
4. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Kỷ yếu hội thảo 20 năm giáo dục học sinh khuyết tật, Hà Nội, 
15/12/2015, xem ngày 10/01/2016, 
duoc-di-hoc-tang-10-lan-647979.html, 2015. 
5. Booth T., Inclusion and exclusion policy in England: Who controls the agenda?, in Inclusive 
education: Policy, contexts and comparative perspectives, eds. F. Armstrong, D. Armstrong 
& L. Barton, David Fulton, London, 2002. 
6. Bricher G., Disabled people, health professionals and the social model of disability: Can 
there be a research relationship?, Disability and Society, Vol. 15, No. 5, pp. 781 - 793, 2000. 
7. Burr V., Social constructionism, Routledge, London, 2007. 
8. Crotty M., The foundations of social research: Meaning and perspective in the research process, 
Allen & Uwin, Sydney, 1998. 
9. Eldly N., Unravelling social constructionism, Theory and Psychology, Vol. 11, No. 3, pp. 433 - 441, 
2001. 
10. Gergen K., The social constructionist movement in modern psychology, America Psychologist, 
Vol. 40, No. 3, pp. 226 - 275, 1985. 
11. Given L.M., The Sage encyclopedia of qualitative research methods, Sage Publications, 
Inc, California, 2008. 
12. Goodley D., Disability studies: An interdisciplinary introduction, Sage Publications, London, 
2011. 
T¹p chÝ t©m lý häc, Sè 9 (210), 9 - 2016 
13. Harris S.R., What is constructionism?: Navigating its use in sociology, Sage Publications, 
London, 2010. 
14. Holstein J.A. & Miller G., Reconsidering social constructionism: Debates in social problem 
theory, Transaction Publishers, New Jersey, 1993. 
15. Lipsly D. & Gartner A., Equity requires inclusion: The future for all students with disabilities, in 
Disability and the dilemmas of education and justice, eds. C. Christensen & F. Rizvi, Open University 
Press, Buckingham, 1996. 
16. Lock A. & Strong T., Social constructionism: Sources and stirrings in theory and practice, 
Cambridge University Press, New York, 2010. 
17. Nind M. & Seale J., Concepts of access for people with learning difficulties: Towards a 
shared understanding, Disability & Society, Vol. 24, No. 3, pp. 273 - 287, 2009. 
18. Tezri L., The social model of disability: A philosophical critique, Jounal of Applied Philosophy, 
Vol. 21, No. 2, pp. 141 - 157, 2004. 
19. Trần Đức Duy, Giáo dục hòa nhập cho trẻ khuyết tật ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc 
gia, Hà Nội, 1995. 
20. Trần Văn Kham, Lê Thị Nguyệt, Vũ Thị Minh Phương, Lê Thị Thanh Xuân, Being 
different from others: Disabled children's experiences of going to school, in To make my 
parents happy: An anthropological perspective on children in Vietnam, eds. T. Gammeltoft 
& K.F. Olwig, Statistical Publishing House, Hanoi, pp. 61 - 79, 2005. 
21. Trần Văn Kham, Mô hình Công tác xã hội với trẻ em khuyết tật ở Úc: Bài học kinh 
nghiệm cho Việt Nam, Hội thảo về chuyển đổi công tác xã hội trong nền kinh tế thị trường ở 
Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, 16 - 18/10/2011. 
22. Trần Văn Kham, Overview of Social Constructionism and its implications for Social Work 
education in Vietnam, VNU - Journal of Social Sciecnes and Humamities, Vol. 29, No. 4, pp. 
30 - 37, 2013. 
23. Trần Văn Kham, Social Inclusion of Children with Disabilities in Vietnam, Scholar Press, 
Germany, 2014. 
24. Trần Văn Kham, Trẻ khuyết tật vận động ở trường học Việt Nam: Trải nghiệm, khả năng 
tự thích ứng và mô hình trợ giúp công tác xã hội, Tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, Vol. 
2, No. 2, tr. 87 - 104, xem ngày 10 tháng 4 năm 2016,  
php/vjossh/article/view/42. 
25. Wicker A.W., An introduction to ecological psychology, Cambridge University Press, New 
York, 1984. 
26. Young J.O., The Coherence Theory of Truth, updated 9th September 2008, Stanford University 
Press, Stanford, Truy cập ngày 10/10/2015,  
1996. 
View publication stats

File đính kèm:

  • pdftrai_nghiem_xa_hoi_cua_tre_khuyet_tat_van_dong_tai_gia_dinh.pdf