Truy tìm căn nguyên tăng trưởng (Phần 1)
Sự kiện thứ nhất: Cách đây vài ba năm, hàng tuần, Đài Truyền hình Việt Nam
phát một chương trình với cái tên rất “hot”: “Làm giàu không khó”. Một cái “tít”
mang tính cổ động cao, truyền cảm hứng mạnh. Và có phần nào đó nhạo báng
(những cá nhân, và cả những dân tộc mãi chưa thoát được nghèo). Khoảng một
năm nay, không hiểu vì lý do gì, chương trình đó không thấy được phát sóng nữa.
Thật đáng tiếc. Khán giả mất một chương trình hiếm có trên đời (có lẽ chỉ có ở Việt
Nam) dạy cách làm giàu mà không phải tốn công, tốn sức, đặc biệt là ít phải động
não (vì các mẹo làm giàu đã có sẵn, cứ thế mà dùng).
Sự kiện thứ hai: Nền kinh tế thế giới hiện đang lâm vào cuộc khủng hoảng trầm
trọng “trăm năm có một”, như nhiều nhà kinh tế hạng nhất, cỡ như Alan
Greensphan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hay GS. Paul Krugman, nhà
kinh tế vừa đoạt giải Noben, người được mệnh danh là “nhà cảnh báo khủng hoảng
của thế giới” xếp hạng.
Sau khi chịu tổn thất nhiều ngàn tỷ USD, cả thế giới đang phải hè nhau hợp sức,
góp hàng mấy chục ngàn tỷ USD để “cứu nạn”. Nhưng kết quả cho đến bây giờ vẫn
còn khá mờ mịt. Đến mức hình dạng chu kỳ khủng hoảng, người thì dự đoán dạng
chữ V (nghĩa là một khi kinh tế thế giới xuống đến đáy thì sẽ vọt lên ngay), người
thì dự đoán dạng chữ U (kinh tế thế giới sẽ nằm bẹp ở đáy một thời gian rồi mới
ngóc lên được); còn không ít kẻ “bi quan” thì dự đoán dạng chữ L (sẽ nằm bẹp rất
lâu).
Khi đặt hai sự kiện đó gần nhau, bật lên chủ đề cuốn sách mà các bạn đang cầm
trên tay – cuốn Truy tìm căn nguyên tăng trưởng: Làm giàu thật sự dễ hay khó?
Tại sao nhân loại ngàn đời loay hoay với bài toán tăng trưởng kinh tế mà cho đến
nay, trong số hơn 200 quốc gia trên trái đất, chỉ có chừng hơn ba chục quốc gia, với
chừng ¼ dân số thế giới được coi là đã trở thành giàu? Căn nguyên là ở đâu?
Tóm tắt nội dung tài liệu: Truy tìm căn nguyên tăng trưởng (Phần 1)
Ebook miễn phí tại : www.Sachvui.Com Sự kiện thứ nhất: Cách đây vài ba năm, hàng tuần, Đài Truyền hình Việt Nam phát một chương trình với cái tên rất “hot”: “Làm giàu không khó”. Một cái “tít” mang tính cổ động cao, truyền cảm hứng mạnh. Và có phần nào đó nhạo báng (những cá nhân, và cả những dân tộc mãi chưa thoát được nghèo). Khoảng một năm nay, không hiểu vì lý do gì, chương trình đó không thấy được phát sóng nữa. Thật đáng tiếc. Khán giả mất một chương trình hiếm có trên đời (có lẽ chỉ có ở Việt Nam) dạy cách làm giàu mà không phải tốn công, tốn sức, đặc biệt là ít phải động não (vì các mẹo làm giàu đã có sẵn, cứ thế mà dùng). Sự kiện thứ hai: Nền kinh tế thế giới hiện đang lâm vào cuộc khủng hoảng trầm trọng “trăm năm có một”, như nhiều nhà kinh tế hạng nhất, cỡ như Alan Greensphan, cựu Chủ tịch Cục Dự trữ Liên bang Mỹ hay GS. Paul Krugman, nhà kinh tế vừa đoạt giải Noben, người được mệnh danh là “nhà cảnh báo khủng hoảng của thế giới” xếp hạng. Sau khi chịu tổn thất nhiều ngàn tỷ USD, cả thế giới đang phải hè nhau hợp sức, góp hàng mấy chục ngàn tỷ USD để “cứu nạn”. Nhưng kết quả cho đến bây giờ vẫn còn khá mờ mịt. Đến mức hình dạng chu kỳ khủng hoảng, người thì dự đoán dạng chữ V (nghĩa là một khi kinh tế thế giới xuống đến đáy thì sẽ vọt lên ngay), người thì dự đoán dạng chữ U (kinh tế thế giới sẽ nằm bẹp ở đáy một thời gian rồi mới ngóc lên được); còn không ít kẻ “bi quan” thì dự đoán dạng chữ L (sẽ nằm bẹp rất lâu). Khi đặt hai sự kiện đó gần nhau, bật lên chủ đề cuốn sách mà các bạn đang cầm trên tay – cuốn Truy tìm căn nguyên tăng trưởng: Làm giàu thật sự dễ hay khó? Tại sao nhân loại ngàn đời loay hoay với bài toán tăng trưởng kinh tế mà cho đến nay, trong số hơn 200 quốc gia trên trái đất, chỉ có chừng hơn ba chục quốc gia, với chừng ¼ dân số thế giới được coi là đã trở thành giàu? Căn nguyên là ở đâu? Tinh thần của cuốn sách là rõ ràng: tăng trưởng là một bài toán khó, thậm chí rất khó. Giải nó, trật dễ hơn trúng. Tinh thần là vậy, song thông điệp của cuốn sách lại không bi quan: tăng trưởng “đàng hoàng”, nghĩa là tăng trưởng không trồi sụt, không “chộp giật”, tăng trưởng đủ lâu bền, là thứ mà mỗi nước đều có thể đạt được, miễn là Và toàn bộ nội dung cuốn sách ẩn sau chữ “miễn là” đó. Tác giả cuốn sách, William Easterly, một nhà kinh tế học khá nổi tiếng trên thế giới, từng nhiều năm làm việc cho Ngân hàng Thế giới, do vậy, cũng biết khá nhiều về nền kinh tế Việt Nam, đặt cho mình nhiệm vụ “truy tìm căn nguyên tăng trưởng”. Nghĩa là ông phải lật lại ít nhất là các lý thuyết, các mô hình tăng trưởng chủ yếu có trên thế giới, trong đó có nhiều cái đã trở thành “kinh điển”. Khi làm công việc đó, ông phải mổ xẻ từng yếu tố được các lý thuyết và kinh nghiệm coi là “lực lượng quyết định tăng trưởng” – vốn, viện trợ, giáo dục, công nghệ, kiểm soát dân số, v.v. – để xem có thực vậy không. Và thật oái oăm là trong hầu như tất cả các trường hợp, câu trả lời đều là “tưởng ‘dậy’ mà không phải ‘dậy’”. Easterly viết: “Không có một công thức thần kỳ nào có thể biến một người nghèo trở nên giàu có. Viện trợ, đầu tư, giáo dục, kiểm soát dân số, điều chỉnh chính sách cho vay hay xóa nợ đều không phải là liều thuốc tiên cho tăng trưởng”. Và chính ông tự trả lời: “Nguyên nhân là do các công thức nêu trên đã không dựa trên nguyên tắc cơ bản của kinh tế học: đó là con người hành động vì động cơ”. Động cơ đó ở đâu ra? Tại sao mọi người, mọi dân tộc đều có khát vọng thoát nghèo mà lại không có động cơ tăng trưởng “đàng hoàng”? Cái gì làm cho quá trình chuyển hóa khát vọng làm giàu thành động cơ tăng trưởng không thể thực hiện được? Những câu hỏi này mới đích thực là trọng tâm của cuốn sách. Các bạn hãy tự tìm câu trả lời trong cuốn sách. Chắc chắn đó là việc rất đáng làm. Tôi cho rằng nhiều gợi ý quan trọng, thậm chí, có những gợi ý mang tính khai mở đã được đưa ra. Easterly đã khảo sát cách thức một số chính phủ ngăn cản thị trường tự do, tạo ra những động lực hủy hoại tăng trưởng – như tham nhũng và hối lộ, sự thao túng của các nhóm lợi ích, sự bất bình đẳng và tình trạng phân biệt đối xử, v.v. Ông cho rằng đây chính là những yếu tố “bóp chết tăng trưởng”, làm cho nhiều nền kinh tế, dù có rất nhiều nỗ lực, vẫn mãi không ngóc đầu lên được. Nhưng đúng như chính tác giả cuốn sách trần tình, “chỉ ra thất bại rất dễ dàng, nhưng để đưa ra ý tưởng thành công thì lại là một việc không đơn giản”. Nhiều thế hệ các nhà kinh tế đã vật lộn với thách thức này. Thất bại có vẻ nhiều hơn. Song không thể nghi ngờ xu hướng chủ đạo lại nghiêng về thắng lợi. Đơn giản vì loài người ngày càng thông minh hơn. Vì ngay cả đối với những dân tộc còn kém phát triển ngày hôm nay, như tác giả viết “cũng có những lợi thế hơn người đi trước, vì (i) chúng ta đã có 40 năm kinh nghiệm để có thể rút ra thành công và thất bại; (ii) khoa học kinh tế đã xây dựng thành công các công cụ phân tích, giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn vào tăng trưởng”. Một cái nhìn lạc quan. Nhưng không hoang tưởng. Cuốn sách này được dịch ra tiếng Việt tại thời điểm này là rất đúng lúc. Chúng ta đang vật lộn với mục tiêu tăng trưởng. Nền kinh tế nước ta đã trải qua giai đoạn tăng trưởng được coi là “đáng tự hào” – hay khiêm tốn cũng là “đáng khích lệ” trong hơn vài chục năm đổi mới vừa qua. Nhưng hai năm thử thách trong môi trường hội nhập kinh tế quốc tế với tư cách thành viên WTO vừa qua cho thấy rõ đó là sự tăng trưởng còn nặng về chiều rộng, dựa vào khai thác tài nguyên và lao động thiếu kỹ năng, chưa định hướng chất lượng và do đó, còn thiếu bền vững. Giữa một thế giới cạnh tranh khốc liệt, thách thức tăng trưởng đối với nền kinh tế lạc hậu đi sau nặng gấp bội phần. Có thể nói nền kinh tế nước ta đang bước vào một giai đoạn thách thức mới. Hy vọng – và – tin rằng cuốn sách Truy tìm căn nguyên tăng trưởng sẽ là một người bạn tốt của chúng ta, sẽ đồng hành “vượt qua thử thách” cùng với chúng ta trong giai đoạn đầy cam go trước mặt. Xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn! Hà Nội, tháng 3 năm 2009 PGS.TS. Trần Đình Thiên Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam Truy tìm Đề tài về các cuộc truy tìm đã có từ rất lâu. Trong tâm thức con người, nó là cuộc tìm kiếm những vật vô giá có nhiều đặc tính thần kỳ như: Bộ lông cừu vàng, Chén thánh, thuốc trường sinh bất lão. Tuy nhiên, vật báu được nhắc đến trong hầu hết các câu chuyện nếu không phải là thứ khó đạt được, thì cũng để lại nỗi thất vọng khi người ta tìm thấy nó. Jason1 đã tìm được Bộ lông cừu vàng với sự giúp sức của Medea, người đã phản bội cha mình, nhưng cuộc hôn nhân của Jason và Medea đã không như ý. Jason phản bội Medea để chạy theo một công chúa khác. Quá thất vọng, Medea đã giết cô dâu trẻ và đứa con riêng của cô ta. Cách đây 50 năm, sau Chiến tranh thế giới thứ II, chúng tôi, những nhà kinh tế đã bắt đầu cuộc truy tìm táo bạo của mình: khám phá phương tiện giúp các nước nghèo ở vùng nhiệt đới có thể trở nên giàu có ngang tầm các nước giàu ở châu Âu và Bắc Mỹ. Những đau khổ, cùng cực mà người nghèo phải chịu đựng cũng như cuộc sống tiện nghi, đầy đủ của người giàu thôi thúc chúng tôi tiến hành cuộc tìm kiếm của riêng mình. Nếu cuộc truy tìm đầy tham vọng của chúng tôi thành công, nó sẽ là một trong những chiến thắng trí tuệ vĩ đại nhất của nhân loại. Giống như những bậc tìm kiếm tiền bối, chúng tôi đã gắng sức kiếm tìm thứ bảo bối thần kỳ – chiếc chìa khóa có thể giúp các nước nghèo nhiệt đới trở nên giàu có. Chúng tôi cho rằng mình đã tìm được bảo bối không chỉ một lần. Vật báu mà chúng tôi tìm thấy xuất hiện dưới đủ mọi hình thức từ viện trợ nước ngoài đến đầu tư vào máy móc; từ củng cố, nâng cao chất lượng giáo dục đến kiểm soát gia tăng dân số; từ cho vay với điều kiện cải tổ cho đến xóa giảm nợ với cùng điều kiện trên. Nhưng đáng tiếc, không một bảo bối nào trong số đó phát huy được công hiệu như hứa hẹn. Các nước nghèo được chúng tôi sử dụng liệu pháp này không thể đạt được mức tăng trưởng như chúng tôi kỳ vọng. Thậm chí, những khu vực được chúng tôi “tận tình cứu chữa” như các nước cận sa mạc Sahara còn giẫm chân tại chỗ. Mỹ La tinh và Trung Đông có tăng trưởng trong thời gian ngắn, rồi sau đó nhanh chóng rơi vào khủng hoảng trong những năm 1980, 1990. Nam Á, một “bệnh nhân” nhận được sự quan tâm rất lớn của các nhà kinh tế, cũng chỉ tăng trưởng loạng choạng, rồi rốt cuộc vẫn là nơi đóng góp một phần đáng kể vào tỷ lệ đói nghèo trên thế giới. Và gần đây nhất, Đông Á với thành công chói sáng mà chúng tôi không tiếc lời tôn vinh đã rơi vào khủng hoảng trầm trọng (một số nước trong khu vực này hiện vẫn đang trong quá trình hồi phục). Ngoài các nước nhiệt đới, chúng tôi cũng tìm cách áp dụng các liệu pháp này cho các nước Đông Âu cũ và kết quả thu được thật đáng thất vọng. Khi các tuyên bố tìm thấy thần dược tăng trưởng chứng tỏ sự vô căn cứ, chúng tôi – những nhà kinh tế học cũng thường bàn tán, chỉ trích các công thức đã vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của kinh tế học. Sự việc xảy ra không phải là thất bại của kinh tế học, mà là thất bại của việc ứng dụng nguyên tắc kinh tế học vào các chính sách thực tiễn. Vậy, nguyên tắc cơ bản của kinh tế học là gì? Như một nhà thông thái đi trước đã từng nói: “Người ta chỉ làm khi được trả công; khi không được trả công, người ta sẽ không làm.” Cuốn sách tuyệt vời The Armchair Economist (Nhà kinh tế học suông) của Steven Landsburg đã đúc kết nguyên tắc trên cô đọng hơn: “Con người, ai cũng hành động vì động cơ.” Trong suốt hai thập kỷ qua, các nhà kinh tế học đã tiến hành một cuộc nghiên cứu tìm hiểu tăng trưởng kinh tế phản ứng như thế nào trước các động cơ. Công trình này đã phân tích cụ thể phản ứng trước động cơ của từng cá nhân, từng doanh nghiệp, từng quan chức chính phủ và từng tổ chức viện trợ. Nó chứng minh, tăng trưởng kinh tế của một xã hội không phải luôn phát huy hiệu quả đối với các quan chức chính phủ, nhà viện trợ, doanh nghiệp và hộ gia đình như ở cấp độ cá nhân. Động cơ dẫn lối họ theo một hướng khác, và thường là không có lợi. Nghiên cứu này cũng chỉ rõ khi nhận thức muộn mằn, các thần dược tăng trưởng kinh tế được áp dụng cho các nước vùng nhiệt đới trước đây (và một số hiện nay vẫn được sử dụng) đã gây ra những sai lầm nghiêm trọng như thế nào. Trong cuộc truy tìm thứ thần dược có công hiệu lột xác từ nghèo thành giàu cho những nước này, chúng ta cần khắc cốt ghi tâm rằng mọi người chỉ làm cái gì họ được trả công. Muốn tăng trưởng kinh tế, chúng ta phải nỗ lực để đảm bảo bộ ba các nhà viện trợ Thế giới thứ nhất, chính phủ các nước Thế giới thứ ba và người dân thường của các nước Thế giới thứ ba có động cơ đúng đắn. Nhưng nếu động cơ đúng đắn chỉ là trên lý thuyết, thì tăng trưởng cũng sẽ chỉ là trong kỳ vọng. Trên thực tế, bộ ba trên thường không có động cơ đúng đắn, hành động của họ vi phạm nghiêm trọng nguyên tắc cơ bản của kinh tế học và vì vậy, tăng trưởng như kỳ vọng không thể xảy ra. Đây quả thực là câu chuyện buồn nhưng nó vẫn lóe lên những tia hi vọng. Hiện nay, chúng ta đã có những bằng chứng thống kê để lật ngược lý thuyết, mổ xẻ sự thất bại của các thần dược và nguyên lý hoạt động của các chính sách được thiết lập dựa trên động cơ. Động cơ có thể thay đổi và đưa các quốc gia vào vạch xuất phát của hành trình đi tới thịnh vượng. Đó không phải là việc dễ dàng. Động cơ tự nó không phải là thần dược có thể ngay lập tức trị bách bệnh. Chúng ta sẽ thấy động cơ của các nhà viện trợ, chính phủ và người dân chồng chéo lên nhau, tạo nên một cái mạng phức tạp, không dễ dàng tháo gỡ. Không chỉ có vậy, từ lâu, nhiều người đã rất thất vọng và tin rằng cuộc tìm kiếm sẽ không thể thành công. Những người phản đối từ Seattle đến Prague đều kêu gọi dừng cuộc tìm kiếm. Đó là điều không thể chấp nhận được. Chừng nào các nước nghèo vẫn đang phải chịu đựng các loại bệnh dịch, sự đàn áp, và cái đói, như tôi sẽ nói chi tiết trong phần I cuốn sách này, và khi trí tuệ con người có thể tìm ra cách giúp họ trở nên giàu có hơn, thì cuộc tìm kiếm nhất định phải được tiếp tục. Trước khi bắt đầu đi vào nội dung chính, tôi muốn đưa ra bốn lưu ý. Đầu tiên, những điều tôi viết ở đây chỉ là ý kiến của cá nhân tôi, chứ không phải của tổ chức nơi tôi làm việc ‒ World Bank (từ đây sẽ gọi tắt là WB). Thậm chí, trong cuốn sách này, tôi sẽ phân tích và chỉ ra những điểm sai lầm trong hành động trước đây của tổ chức. Có một điều ở WB mà tôi luôn ngưỡng mộ và thầm cảm ơn: Tổ chức này đã khuyến khích những kẻ thích châm chọc như tôi được tự do nghiên cứu, tìm hiểu và không dập tắt các cuộc tranh luận nội bộ về chính sách của mình. Thứ hai, tôi sẽ không đề cập đến vấn đề môi trường. Ban đầu, tôi đã thử đưa vấn đề môi trường vào nội dung sách, nhưng tôi nhận ra mình tôi không thể đưa ra bất kỳ thông tin hữu ích nào. Tăng trưởng tác động như thế nào đến môi trường là một vấn đề lớn, và nó sẽ là đề tài cho một cuốn sách khác. Hầu hết các nhà kinh tế học đều tin rằng bất kỳ tác động tiêu cực nào của tăng trưởng lên môi trường đều có thể loại bỏ bằng một chính sách môi trường khôn ngoan, như buộc đối tượng làm ô nhiễm phải chịu chi phí cho tác hại mà họ gây ra và do đó, chúng ta sẽ không phải ngừng tăng trưởng kinh tế để bảo tồn môi trường. Đây là một ý kiến không tồi bởi dừng tăng trưởng kinh tế sẽ là một tin buồn đối với những người nghèo trên khắp thế giới. Thứ ba, tôi không có ý định tiến hành tổng hợp tất cả các nghiên cứu về tăng trưởng kinh tế của các nhà kinh tế học trong cuộc điều tra của riêng mình. Tôi đã tiến hành nghiên cứu này từ cách đây gần 20 năm, sau khi tham gia hội thảo của GS. Paul Romer, trường Kinh doanh Stanford và đọc công trình khơi gợi nhiều cảm hứng của nhà kinh tế học giành giải Nobel, Robert Lucas. Mặc dù có một số điểm các học giả vẫn chưa đạt được sự đồng thuận, nhưng tôi cho rằng bằng chứng về một số vấn đề khác đã đủ mạnh. Tôi đã cố gắng theo sát công trình của từng nhà kinh tế học để tìm ra thứ thần dược có thể giúp các nước nghèo nhiệt đới trở nên giàu có. Thứ tư, tôi sẽ đưa thêm những cái nhìn nhanh và cận cảnh về cuộc sống hàng ngày của người dân các nước Thế giới thứ ba trong những phần “Chuyển đoạn” giữa các chương để nhắc chúng ta nhớ rằng động lực ẩn sau cuộc tìm kiếm của chúng ta là sự đau khổ và hạnh phúc của những con người thật sự và họ chính là lý do để chúng ta bước tiếp trong hành trình gian khổ này. Do theo đuổi sự nghiệp chuyên gia tự phong về các nước nghèo nên những sự khác biệt trong đời sống của người giàu và người nghèo luôn tạo ra động lực cho tôi. Chúng tôi, những chuyên gia, không quan tâm đến việc tăng tổng sản phẩm quốc nội theo ý nghĩa đơn thuần mà trên phương diện nó đem lại nhiều điều tốt cho người nghèo và làm giảm tỷ lệ người nghèo. Chúng tôi quan tâm vì người giàu có thể ăn uống thoải mái hơn và mua thuốc men nhiều hơn cho con cái của mình. Trong phần này, chúng ta sẽ tìm hiểu những bằng chứng về tăng trưởng và giảm đói nghèo. CHƯƠNG 1 Để giúp người nghèo Khi thấy một bạn khác đang ăn, cháu nhìn bạn ấy chằm chằm, và nếu bạn ấy không cho cháu thứ gì thì cháu nghĩ mình sẽ chết đói mất. ‒ Lời một cháu bé 10 tuổi ở Gabon, năm 1997 Khi viết chương này, tôi đang ở Lahore, thành phố có sáu triệu dân của Pakistan, trong chuy ... trợ của các tổ chức đa phương tăng lên đáng kể. Chỉ riêng mức đóng góp của chương trình cho vay với lãi suất thấp của WB, hay còn gọi là Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA – International Development Association) đã tăng gấp ba lần trong chương trình cấp vốn cho vay mới. Đầu tiên, tín dụng tư nhân chiếm hơn 3,6 lần số tiền của IDA nhưng đến giai đoạn cuối, mức đóng góp của IDA lại cao hơn tín dụng tư nhân 8,6 lần. Thứ tư, chúng ta hãy xem xét sự lưu thông thật sự của các tiềm lực kinh tế ở các nước trong nhóm HIPC, tức là khoản vay mới trừ đi nợ và lãi suất. Trong thời kỳ gánh nặng nợ nần tăng (1979-1987), việc chuyển giao tiềm lực chủ yếu đến từ các nguồn ưu đãi (IDA, các tổ chức đa phương, và song phương như USAID), mặc dù vẫn có sự tham gia của một số tổ chức tư nhân. Các nguồn ưu đãi đóng góp vào tổng giá trị chuyển khoản thực 33 tỷ đô-la. Khoản tiền lớn này lại càng cho thấy, các nước trong nhóm HIPC mắc nợ ngày càng nhiều hơn nếu tính theo giá trị hiện tại ròng trong thời kỳ này. Từ năm 1988-1997, có một sự thay đổi lớn trong hoạt động chuyển khoản. Tỷ lệ nợ được giữ ổn định. Những khoản chuyển dương của IDA và các nhà viện trợ song phương khác bù lại khoản chuyển âm của IBRD (vay không ưu đãi của WB), các tổ chức song phương không ưu đãi và của tư nhân. Đây là một hình thức mới của hoạt động xóa giảm nợ, thay khoản nợ với lãi suất thấp và thời hạn dài hoặc có một phần tài trợ bằng các khoản nợ không ưu đãi. Tuy nhiên, giá trị hiện tại ròng của các khoản nợ cho đến những năm gần đây vẫn không thay đổi. IDA và các tổ chức song phương đang áp đảo các nguồn không ưu đãi, cho dù những nguồn này vẫn đang cố gắng cho vay, do đó các khoản nợ lại càng tăng lên, kìm chân gánh nặng nợ nần. Điểm mấu chốt của việc các nước nghèo mắc nhiều nợ là vì họ vay của IMF, của WB và các tổ chức song phương khác, trong khi các nguồn cho vay tư nhân hoặc không ưu đãi lại rút ra. Tại sao lại có chuyện như vậy? Các tổ chức cho vay như IMF, WB và các tổ chức song phương khác khuyến khích viện trợ cho các nhà nước vô trách nhiệm, đây là chính sách lấp chỗ trống trong cung cấp vốn. Trong Chương 2, chỗ trống trong cung cấp vốn cũng xuất hiện dưới góc độ không có lợi, giữa khoản đầu tư bắt buộc và tiết kiệm trong nước. Ở đây, chỗ trống cung cấp vốn là chỗ trống giữa nhu cầu cấp vốn của cán cân thanh toán của các tổ chức và các nguồn vốn tư nhân. Yêu cầu cấp vốn có tính đến tổng thâm hụt thương mại, lãi suất từ những khoản nợ cũ, và việc hoàn trả những khoản nợ cũ đến kỳ hạn. “Lấp chỗ trống trong cung cấp vốn” cũng đồng nghĩa với việc viện trợ ưu đãi nhiều hơn cho những nước có thâm hụt thương mại cao, nợ hiện tại cao, và nợ tư nhân thấp. Đây lại là một hành động khác hoan nghênh những nhà nước vô trách nhiệm. Chính những chính sách của các nước này đã xua đuổi các tổ chức cho vay tư nhân, dẫn đến thâm hụt thương mại cao hơn và nợ hiện tại cũng cao hơn. Việc lấp chỗ trống trong cung cấp vốn đổ tiền vào sau những khoản nợ xấu, tạo ra đường xoắn ốc cho các khoản nợ: những nước không có khả năng chi trả nợ lại được nhận tiếp những khoản vay chính thức mới. Rồi trong tình thế vô cùng nực cười, phía cho vay tính số nợ “cần thiết” phải giảm để “lấp chỗ trống trong cung cấp vốn”. Như vậy phần thưởng của việc nợ chồng chất là những nước này được xóa luôn nợ, xóa luôn cả vết tích của những hành vi vô trách nhiệm của cả bên vay lẫn bên cho vay. Cho tới năm 1997, theo chương trình xóa giảm nợ đa phương, các nước HIPC nhận 63% lưu lượng tiềm năng dành cho các nước nghèo, mặc dù dân số của tất cả các nước HIPC chỉ chiếm 32% dân số của tất cả các nước nghèo. Trường hợp kỳ lạ của Bờ Biển Ngà Tính cả viện trợ dưới dạng giảm nợ, năm 1997, số viện trợ Bờ Biển Ngà nhận được tính trên đầu người cao hơn Ấn Độ gấp 1.276 lần. Sẽ rất khó giải thích cho người nghèo ở Ấn Độ tại sao Bờ Biển Ngà, một quốc gia đã 2 lần xây thủ đô mới tráng lệ ở quê hương của các nguyên thủ quốc gia tại nhiệm, lại được nhận viện trợ trên đầu người cao hơn họ gấp 1000 lần. Càng khó giải thích hơn khi chúng ta tìm hiểu tại sao Bờ Biển Ngà lại rơi vào tình trạng khó khăn. Từ năm 1979 đến 1997, cán cân thanh toán tài khoản của đất nước này bị thâm hụt hơn 8% GDP. Nếu tính bình quân, số tiền đầu tư để nhập khẩu và trả lãi suất nợ của đất nước này còn lớn hơn số tiền thu được từ nhập khẩu. Nhân vật bị tình nghi nhiều nhất cho mức thâm hụt trầm trọng này chính là chính phủ với mức thâm hụt ngân sách hơn 10% GDP lúc bấy giờ. Tại sao ngân sách chính phủ lại thâm hụt đến vậy? Chính phủ thu lợi khi giá cà phê và cacao trên thị trường quốc tế tăng những năm 1970, bởi vì chính phủ yêu cầu tất cả các nhà sản xuất cà phê và cacao bán ra “thị trường” với giá cố định. Mức giá “thị trường” này không tăng khi giá quốc tế tăng, thành ra chính phủ được một khoản lời lớn, bởi vì mua vào rẻ mà bán ra thì đắt. (Giữa năm 1976 và 1980, những nhà trồng cacao chỉ được hưởng 60%, còn trồng cà phê được 50% giá bán ra trên thế giới). Chính phủ dùng những thu nhập này để chi tiêu mạnh tay, kể cả sau khi khoản lời lớn này biến mất do đợt giảm giá cacao và cà phê trên thị trường quốc tế năm 1979. Do mức chi tiêu không thay đổi trong khi thu nhập giảm nhanh chóng, chính phủ Bờ Biển Ngà bắt đầu bị thâm hụt ngân sách lớn. Việc nhà nước chi quá mức để xây thủ đô mới khiến lạm phát trong nước xảy ra nhanh hơn lạm phát nước ngoài, khiến giá trị tiền tệ tăng cao so với giá trị thực, vì tỷ giá hối đoái giữ nguyên, không đổi. Tỷ lệ tăng giá trị tiền tệ trung bình trong thời kỳ này là 75%, khiến người tiêu dùng được lợi vì giá các mặt hàng nhập khẩu rẻ đi, nhưng không khích lệ người xuất khẩu, và đặc biệt là không giúp gì cho thâm hụt thương mại vốn đã rất lớn. Do chi tiêu hoang phí, nên nợ nước ngoài đã tăng gấp đôi trong giai đoạn này, từ 60% GDP năm 1979 đến 127% GDP năm 1994, khi chương trình xóa giảm nợ bắt đầu đi vào thực hiện. Chúng ta có thể khẳng định ngay rằng những khoản vay không hỗ trợ được gì, bởi thu nhập bình quân của người dân Bờ Biển Ngà đã giảm xuống một nửa trong giai đoạn 1979-1994. Những khoản vay dành cho người dân Bờ Biển Ngà trong tình trạng nghèo đói, và cả những khoản vay được xóa đều là dành cho họ. Thế nhưng, số lượng người dân nghèo của đất nước này chỉ tăng chứ không giảm. Năm 1985, người nghèo chiếm 11% dân số (là năm đầu tiên chúng tôi có số liệu). Sau 10 năm, con số này đã tăng lên 37%. Sau khi đồng tiền mất giá năm 1994, sản lượng có hồi phục đôi chút, nhưng đó là cả một chặng đường dài sau khi kinh tế suy sụp. Vậy trong thời kỳ đầy rẫy những chính sách vô trách nhiệm, khiến gánh nặng nợ nần tăng gấp đôi như thế này, ai là người đã tiếp tay, cho Bờ Biển Ngà vay tiền? Một bản báo cáo của WB ghi rằng, “Với giả định rất đáng ngờ là có thể bảo đảm đủ vốn nước ngoài, năm 1995, tỷ lệ nợ nước ngoài trên GDP sẽ tăng lên khoảng 130%.” Điều tiên đoán này rất đúng với sự thật, nên việc cấp vốn một cách “đáng ngờ” là có thật. Tính bình quân, các khoản viện trợ của WB và IMF chiếm khoảng 58% tổng số các khoản viện trợ cho Bờ Biển Ngà trong giai đoạn 1979-1997. Trong thời gian này, IMF cho Bờ Biển Ngà vay 8 khoản vay theo chương trình, còn WB cho vay 12 khoản. Các khoản vay từ IMF và WB tăng từ 10% năm 1976 đến 76% năm 1997. Chỉ tính riêng những khoản WB cho Bờ Biển Ngà vay, đã có một sự thay đổi từ cho vay không ưu đãi (IBRD) sang vay ưu đãi (IDA). Một trong những động cơ xấu của các khoản viện trợ nước ngoài là chính phủ càng vô trách nhiệm bao nhiêu lại càng dễ nhận được viện trợ bấy nhiêu. Phần còn lại, Bờ Biển Ngà vay từ các nước giàu, chủ yếu là Pháp. Trong khi đó, các khoản cho vay tư nhân tụt từ 75% vay mới năm 1979 tới mức gần bằng 0 từ năm 1989 trở đi. Tất nhiên, những tổ chức cho vay tư nhân đã để ý trong bản báo cáo năm 1988 của WB có nói đến mức đáng ngờ khi cho Bờ Biển Ngà vay. Có lẽ, những nhà viện trợ chính thức đã không tinh ý được như vậy. Thành ra vào tháng 3 năm 1998, WB và IMF công bố chương trình xóa một số món nợ cũ cho Bờ Biển Ngà là phù hợp. Việc xóa nợ cho Bờ Biển Ngà dựa trên điều kiện nhà nước này phải kiềm chế thâm hụt ngân sách, chỉnh đốn giá cacao và cà phê. Tháng 3 năm 1998, IMF đưa ra những điều kiện trên khi cam kết một gói viện trợ mới trong vòng 3 năm cho Bờ Biển Ngà. WB cũng tiếp tục cho vay, với cam kết mới trị giá khoảng 600 triệu đô-la năm 1999. Trong một thời gian ngắn, nhà nước Bờ Biển Ngà đáp ứng được một số điều kiện chủ yếu. Nhưng sau đó mọi thứ trục trặc. Tháng 7 năm 1999, IMF viết: “Chất lượng hoạt động của chương trình năm 1998 không rõ ràng, và có một số khó khăn trong khi thực hiện.” Đồng tiền vẫn tăng giá quá cao so với giá trị thực, hơn 35% năm 1998. Bờ Biển Ngà trong năm này được xếp vào nhóm những nước thuộc thế giới thứ ba tham nhũng nhất. Năm 1999, Hội đồng châu Âu ngừng cấp viện trợ cho Bờ Biển Ngà, sau khi lần viện trợ trước bị tham ô. Vụ tham ô này cực kỳ sáng tạo, trong đó các dụng cụ y tế cơ bản được “khai khống lên rất nhiều, ví dụ một ống nghe giá 15 đô-la được ghi giá 315 đô-la, một cân trẻ em giá 40 đô-la được ghi giá 2.445 đô- la.” Cùng năm đó, IMF cũng ngừng chi cho chương trình này. Quân đội Bờ Biển Ngà cuối cùng đã lật đổ chính quyền tham ô ngay trước Giáng sinh năm 1999. Kết luận Chúng ta phải cố gắng hết sức để cải thiện cuộc sống của người dân nghèo ở các nước nợ nhiều và nợ ít. Nợ nhiều sẽ đẩy các nguồn lực chệch ra ngoài các hoạt động y tế và giáo dục hỗ trợ người nghèo. Những người kêu gọi xóa nợ là những thiên thần với tấm lòng cao cả. Trái tim chúng ta cũng kêu gọi xóa nợ để giúp người nghèo. Than ôi, lý trí lại đi ngược lại với trái tim. Việc xóa nợ lại chỉ viện trợ cho những nước đã chứng tỏ rằng họ không biết sử dụng viện trợ có hiệu quả. Việc giảm nợ là vô ích đối với những nước không hề thay đổi phương thức hoạt động. Do quản lý quỹ kém, nên dẫn đến nợ nhiều; nếu nhà nước vẫn tiếp tục quản lý theo cách đó, viện trợ thông qua hình thức cắt giảm nợ sẽ không thể đến được tay người nghèo. Một chương trình xóa giảm nợ chỉ có ý nghĩa khi nó đáp ứng được 2 điều kiện sau: (1) chương trình này sẽ được thực hiện khi có sự thay đổi rõ rệt từ một nhà nước vô trách nhiệm thành một nhà nước có chính sách tốt; (2) đây là một phương pháp dứt khoát và sẽ không được lặp lại. Hãy xem xét kỹ hai điều kiện này. Ví dụ một chính phủ tốt, với các chính sách tốt, nhưng phải gánh chịu những món nợ để lại từ chính phủ tồi trước đó. Chúng ta có thể xóa nợ trong trường hợp này. Điều này có nghĩa một nhà nước có bước thay đổi cơ bản về mặt hoạt động mới đủ tư cách được giảm nợ. Để đánh giá xem những nước này có thay đổi cơ bản hay không, cộng đồng quốc tế phải thấy được những thành tích trong thời gian dài và có sức thuyết phục trước khi xóa giảm nợ. Trong chương trình HIPC năm 1996 đã có một số bước quan trọng theo hướng này, nhưng không may lại bị suy yếu bởi những đề xuất của WB và IMF trong năm 2000, tăng tốc độ xóa giảm nợ và mở rộng đối tượng tiếp nhận viện trợ. Khi không có thay đổi về mặt chính phủ, các nhà viện trợ chính thức không nên tiếp tục lấp chỗ trống trong cung cấp vốn. Khái niệm “khoảng trống trong cung cấp vốn” cần được xóa bỏ ngay lập tức và mãi mãi bởi nó tạo ra những động cơ sai trái. Mặc dù các khoản vay hay cắt giảm nợ đều lấy danh nghĩa vì người nghèo, nhưng người nghèo sẽ không được giúp đỡ gì nếu cộng đồng quốc tế lại tạo ra động cơ để các chính phủ tiếp tục vay. Để tránh động cơ này, chương trình xóa giảm nợ cần xây dựng một chính sách đáng tin cậy, rằng sẽ không bao giờ chương trình này được thực hiện nữa. Nếu không làm được việc này thì toàn bộ khái niệm xóa giảm nợ cũng không làm được. Nhà nước sẽ vẫn có động cơ vay tiếp, bởi vì họ tính trước rằng món nợ của họ về sau sẽ được xoá. Một chương trình xóa giảm nợ không đáp ứng được 2 điều kiện trên sẽ dẫn đến việc tiềm năng được rót vào những nước có chính sách tồi, hơn là những nước nghèo với chính sách tốt. Tại sao năm 1997 những nước trong nhóm HIPC được nhận viện trợ trên đầu người cao gấp 4 lần so với những nước nghèo không nợ nhiều như thế? Nếu đã biết trước rằng những nhà viện trợ sẽ tiếp tục giúp đỡ các nhà nước vô trách nhiệm trong tương lai, thì chương trình xóa giảm nợ sẽ phá hỏng những hoạt động vì lợi ích của dân. Như vậy, xóa giảm nợ sẽ trở thành thứ thần dược đáng thất vọng khi tìm kiếm liều thuốc cho tăng trưởng. Chuyển đoạn: Ngôi nhà bằng bìa Julia sinh năm 1925 ở Guadalajara, Mexico. Bố mẹ cô sống không giá thú. Cha cô trồng ngô, lạc, và bột mì. Lên 10 tuổi, Julia được đi học. Mọi chuyện không suôn sẻ lắm, vì Julia phải học lại lớp một đến ba lần. Toàn bộ sự nghiệp học hành của Julia dừng lại ở đó, nên cô gần như không biết đọc viết. Thực ra, Julia đã đi làm trước khi đi học. Năm 8 tuổi, cô đi giúp việc nhà. Những vụ thu hoạch chẳng đủ nuôi sống gia đình Julia, vì vậy tất cả các thành viên trong gia đình đều phải lao vào kiếm sống. Mẹ Julia bỏ cha cô và đi lấy một người đàn ông khác, nhưng rồi bà đã chết khi Julia 11 tuổi. Gia đình gửi Julia tới sống với gia đình cô chú ở Guadalajara. Tại đây, cô tiếp tục đi giúp việc, và giúp cô chú những việc vặt trong nhà. Julia lấy Juan khi cô 18 tuổi. Lương thợ lắp ráp của Juan đủ để nuôi sống cả hai, nên Julia không làm việc nữa. Năm 1947, Juan bị thương trong một tai nạn lao động. Sau khi bình phục, anh bị thất nghiệp, vì vậy Julia lại bắt đầu nhận giúp việc và làm bánh ngô. Năm 1949, Juan kiếm được một chân lắp ráp tại một công trình xây dựng. Nhưng bây giờ, lương của Juan rất thất thường, bởi vì anh nghiện rượu nặng và thỉnh thoảng còn uống say đến độ không đủ tỉnh táo để đi làm. Năm 1958, Juan lại bị tai nạn, ngã từ độ cao 17m. Từ đó, Julia trở thành lao động chính cho gia đình. Juan vẫn tiếp tục uống rượu và thỉnh thoảng mới đi làm. Thời kỳ anh nghiện rượu nặng nhất là năm 1965, như Julia nói “anh ấy say cả năm”. Năm 1965, Julia sinh đứa con thứ 10. Tất cả các con của cô, trừ 3 đứa đầu tiên, đều chết khi còn nhỏ. Con gái lớn nhất, tên là Rosa, cũng đi làm giúp việc từ khi 8 tuổi giống như mẹ. Thu nhập của hai mẹ con giúp họ mua được một mảnh đất để làm nhà. Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, Julia bị bệnh lao, và Juan phải bán miếng đất để lo tiền thuốc thang cho vợ. Năm 1973, họ chuyển tới Rancho Nuevo, và sống ở đó tới bây giờ. Rancho Nuevo là khu ổ chuột ở Guadalajara, không có nước máy, cống, không có đèn đường. Nó nằm ngay cạnh một bãi rác to và hôi thối, nơi các xưởng sản xuất chui thường đổ rác thải. Cư dân của Rancho Nuevo cũng sử dụng chỗ này làm bãi rác, bởi vì ở đây không có hệ thống thu dọn vệ sinh. Gia đình Julia và Juan sống nhờ trong ngôi nhà của cháu gái Juan. Nhưng cô cháu cuối cùng cũng chán kiểu nhờ vả đó, nên đã đuổi cả gia đình đi năm 1982. Sau đó, gia đình Julia cũng chiếm được một mảnh đất và dựng một ngôi nhà bằng bìa cứng. Không ai biết chủ đất là ai, nên 30 hộ nữa cũng tới dựng nhà. Do không biết có được sở hữu mảnh đất hay không, Julia và Juan không muốn làm nhà chắc chắn. Ngôi nhà bằng bìa mùa xuân rất nóng, mùa hè mưa thì bị ngập, và mùa đông, khi nhiệt độ xuống đến 4oC thì rất lạnh. __Cảnh sát thỉnh thoảng lại đến hoạch họe họ đòi hối lộ để không đuổi khỏi mảnh đất chiếm cứ bất hợp pháp đó.
File đính kèm:
- truy_tim_can_nguyen_tang_truong_phan_1.pdf