Tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi

Mở đầu: Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp ở người cao tuổi (NCT). Đây là tác nhân lớn nhất gây ra gánh nặng bệnh tật toàn cầu đến năm 2030. Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ hiện mắc trầm cảm ở người cao tuổi tại phường Trương Quang Trọng, Thành phố (TP) Quảng Ngãi bằng thang GDS-30. (2) Phân tích các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 447 người từ 60 tuổi trở lên sống tại phường Trương Quang Trọng, TP Quảng Ngãi. Nghiên cứu sử dụng thang GDS-30 để đánh giá trầm cảm và phỏng vấn theo bộ câu hỏi để tìm các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu. Sử dụng mô hình hồi quy đa biến logistic để kiểm định các yếu tố liên quan đến trầm cảm. Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm 15,9%: trầm cảm nhẹ 2,7%, trung bình 9,2% và nặng 4,0%. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm bao gồm: Hoạt động thể lực, biến cố trong 12 tháng qua, biến cố lớn trong cuộc đời, kết cấu gia đình-hoàn cảnh sống và yếu tố di truyền. Kết luận: Trầm cảm ở NCT là phổ biến, việc phát hiện sớm và tìm hiểu các yếu tố liên quan để can thiệp sớm và phòng ngừa trầm cảm ở NCT là rất cần thiết

pdf 7 trang yennguyen 4200
Bạn đang xem tài liệu "Tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi

Tỷ lệ trầm cảm và các yếu tố liên quan ở người cao tuổi phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi
82
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
TỶ LỆ TRẦM CẢM VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI CAO TUỔI 
PHƯỜNG TRƯƠNG QUANG TRỌNG, THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI 
Đỗ Văn Diệu1, Đoàn Vương Diễm Khánh2, Trần Như Minh Hằng3
(1) Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế, chuyên ngành Y tế công cộng
(2) Khoa Y tế công cộng, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế
(3) Bộ môn Tâm thần, Trường Đại học Y Dược, Đại học Huế 
Tóm tắt
Mở đầu: Trầm cảm là một rối loạn tâm thần thường gặp ở người cao tuổi (NCT). Đây là tác nhân lớn nhất 
gây ra gánh nặng bệnh tật toàn cầu đến năm 2030. Mục tiêu: (1) Xác định tỷ lệ hiện mắc trầm cảm ở người 
cao tuổi tại phường Trương Quang Trọng, Thành phố (TP) Quảng Ngãi bằng thang GDS-30. (2) Phân tích các 
yếu tố liên quan đến trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu. Đối tượng và Phương pháp nghiên cứu: Nghiên 
cứu mô tả cắt ngang trên 447 người từ 60 tuổi trở lên sống tại phường Trương Quang Trọng, TP Quảng Ngãi. 
Nghiên cứu sử dụng thang GDS-30 để đánh giá trầm cảm và phỏng vấn theo bộ câu hỏi để tìm các yếu tố 
liên quan đến trầm cảm ở đối tượng nghiên cứu. Sử dụng mô hình hồi quy đa biến logistic để kiểm định các 
yếu tố liên quan đến trầm cảm. Kết quả: Tỷ lệ trầm cảm 15,9%: trầm cảm nhẹ 2,7%, trung bình 9,2% và nặng 
4,0%. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm bao gồm: Hoạt động thể lực, biến cố trong 12 tháng qua, biến cố 
lớn trong cuộc đời, kết cấu gia đình-hoàn cảnh sống và yếu tố di truyền. Kết luận: Trầm cảm ở NCT là phổ 
biến, việc phát hiện sớm và tìm hiểu các yếu tố liên quan để can thiệp sớm và phòng ngừa trầm cảm ở NCT 
là rất cần thiết.
Từ khóa: Trầm cảm, người cao tuổi, phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi.
Abstract
PREVALENCE OF DEPRESSION AND ASSOCIATED FACTORS
 AMONG THE ELDERLY IN TRUONG QUANG TRONG WARD 
QUANG NGAI CITY
Do Van Dieu1, Doan Vuong Diem Khanh2, Tran Nhu Minh Hang3
(1) PhD student, University of Medicine and Pharmacy, Hue University
 (2) Faculty of Public Health, University of Medicine and Pharmacy, Hue University 
(3) Department of Psychiatry, University of Medicine and Pharmacy, Hue University
Introduction: Depression is a common mental disorder in the elderly. It will be the leading cause of 
the global burden of disease by 2030. Objectives: (1) To identify the prevalence of depression among the 
elderly in Truong Quang Trong ward, Quang Ngai city using the GDS-30 scale. (2) To analyze the factors 
associated with depression among participants. Research methods: This was a descriptive cross – sectional 
study. A total sample of 447 people aged 60 and older living in Truong Quang Trong, Quang Ngai city were 
investigated. The GDS – 30 was used to identify depression and a semi – structure questionnaire was used 
to examine associated factors of depression. Multivariable logistic regression method was used to analyze 
factors associated with depression. Results: The prevalence of depression in the participants was 15.9%, 
among which mild depression was 2.7%, average 9.2% and severe 4.0%. Associated factors with depression 
were physical activity, negative events in the past 12 months, stressful events in life, family structure-living 
conditions and genetic factors. Conclusion: In this population, prevalence of depression in the elderly was 
quite high, therefore early detection and identification of risk factors of depression are essential for early 
intervention and prevention of this disorder.
Key words: Depression, elderly, Truong Quang Trong Ward, Quang Ngai City.
- Địa chỉ liên hệ: Đỗ Văn Diệu, email: dieuhien2003.vdd@gmail.com
- Ngày nhận bài: 7/10/2018; Ngày đồng ý đăng: 8/11/2018; Ngày xuất bản: 17/11/2018
83
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trầm cảm (depression) là một rối loạn cảm xúc, 
biểu hiện bằng các triệu chứng buồn chán, mất sự 
hứng thú; ý tưởng tự ti, bi quan, tiêu cực, rối loạn 
giấc ngủ, rối loạn ăn uống có thể dẫn đến ý tưởng 
hoặc hành vi tự sát. Hầu hết bệnh trầm cảm có thể 
điều trị bằng thuốc hoặc liệu pháp tâm lý [1]. Trầm 
cảm là nguyên nhân đứng hàng thứ 2 gây suy giảm 
chức năng nghề nghiệp, xã hội sau các bệnh lý về 
tim mạch và đến năm 2030 được dự đoán là nguyên 
nhân hàng đầu gây ra gánh nặng bệnh tật toàn cầu 
[3]. Trầm cảm có thể gặp ở bất kỳ lứa tuổi nào nhưng 
tỷ lệ này thường cao hơn ở NCT. Tỷ lệ trầm cảm trong 
dân số theo Tổ chức Y tế Thế giới là 5%, tuy nhiên 
tỷ lệ này ở NCT cao hơn rất nhiều. Theo Bhamani 
M.A và cộng sự (2013) tại thành phố Karachi Cộng 
hòa Hồi giáo Pakistan tỷ lệ trầm cảm ở NCT là 40,6% 
[10], tại TP Huế (2013) là 28,4% [4]. Bên cạnh các 
triệu chứng chung của trầ̀m cảm như ở mọi độ tuổi 
thì trầm cảm ở người cao tuổi còn biểu hiện bằng 
các triệu chứng cơ thể khác nhau như đau nhức, 
hồi hộp, mệt mỏi Các triệu chứng này chồng lấp 
với các triệu chứng của các bệnh lý cơ thể mà NCT 
thường hay mắc phải nên làm cho trầm cảm dễ bị bỏ 
sót [2]. Trên thực tế hơn 90% NCT có các biểu hiện 
trầm cảm mà không được chẩn đoán và điều trị thỏa 
đáng [2], [8]. Trầm cảm nếu không được phát hiện 
và điều trị sớm sẽ tăng nguy cơ tự sát, giảm chất 
lượng sống của bệnh nhân, làm nặng thêm bệnh lý 
cơ thể vốn thường hay gặp ở NCT và tăng nguy cơ tử 
vong. Chính vì những lý do trên, chúng tôi tiến hành 
đề tài này với 2 mục tiêu: 
(1) Xác định tỷ lệ trầm cảm ở người cao tuổi ở 
phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng 
Ngãi bằng thang đo GDS-30.
(2) Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến trầm 
cảm ở các đối tượng nghiên cứu.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Đối tượng nghiên cứu 
Tiêu chuẩn chọn: Người 60 tuổi trở lên đang sinh 
sống trên địa bàn phường Trương Quang Trọng, TP 
Quảng Ngãi và có mặt tại địa phương từ tháng 5 đến 
tháng 8 năm 2018.
Tiêu chuẩn loại trừ: Người cao tuổi: là người 
tạm trú, đi công tác hoặc vắng mặt trong thời gian 
nghiên cứu; sa sút trí tuệ không còn minh mẫn để 
trả lời bộ câu hỏi; bị bệnh cơ thể nặng, khuyết tật 
về ngôn ngữ, giác quan; không chấp nhận hợp tác 
nghiên cứu; đang mắc các rối loạn tâm thần khác; 
mắc bệnh trầm càm có triệu chứng loạn thần.
2.2. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô 
tả cắt ngang.
2.2.1. Cỡ mẫu: Cỡ mẫu tính theo công thức ước 
lượng một tỉ lệ trong quần thể.
n = Z2
(α/2)
p (1- p)
d2
Trong đó: p: Tỷ lệ trầm cảm ở NCT trong cộng 
đồng, chọn p=28,4% theo nghiên cứu tương tự 
của Nguyễn Hoàng Thùy Linh và cộng sự tại TP Huế 
(2013) [6]. d=0,045. α: Mức ý nghĩa thống kê, chọn 
α=0,05. Z(α/2)=1,96. 
Thay vào công thức trên ta tính được cỡ mẫu là: 
n = 386. Chúng tôi chọn 447 người để tránh thiếu 
mẫu nghiên cứu (thêm ít nhất 10% cỡ mẫu).
2.2.2. Phương pháp chọn mẫu:
- Bước 1: Chọn hết 13 tổ dân phố của phường 
Trương Quang Trọng. Cỡ mẫu của từng tổ dân phố 
được tính theo công thức:
Trong đó:
n
i 
: Cỡ mẫu của tổ dân phố i
n: Cỡ mẫu của nghiên cứu là 447
N
i
: NCT tổ dân phố i
N: NCT toàn phường là 1577
- Bước 2: Lập danh sách người từ 60 tuổi trở lên 
của 13 tổ, chọn ngẫu nhiên hệ thống số NCT trong 
từng tổ với số lượng NCT như đã tính toán cho mỗi 
tổ ở bước 1. 
2.2.3. Biến số nghiên cứu: 
Biến số phụ thuộc: Trầm cảm, đánh giá dựa vào 
thang đo GDS-30. Thang đo này gồm 30 câu hỏi về 
tâm trạng của đối tượng trong tuần qua và được 
tính điểm như sau: Từng nội dung trong thang đo 
sẽ được cho 0 hoặc 1 điểm phụ thuộc vào câu trả lời 
của đối tượng nghiên cứu là đúng/không đúng. Tổng 
điểm dao động từ 0 đến 30 điểm, với giá trị càng 
cao càng phản ánh mức độ nặng của bệnh. Mức độ 
trầm cảm ở NCT được xác định như sau: GDS<13: 
bình thường; 13≤GDS≤18: trầm cảm nhẹ; 18<GDS≤ 
24: trầm cảm trung bình; GDS>24: trầm cảm nặng 
[6], [12].
Biến số độc lập: Tuổi, giới tính, trình độ học vấn, 
tình trạng công việc trong quá khứ, tình trạng công 
việc hiện tại, tình trạng hôn nhân, kinh tế gia đình, 
nguồn thu nhập, thói quen hút thuốc lá, thói quen 
uống rượu, hoạt động thể lực, tham gia hoạt động 
xã hội, đời sống tình dục hiện tại, bệnh mạn tính, 
biến cố 12 tháng qua, biến cố lớn trong cuộc đời, 
kết cấu gia đình-hoàn cảnh sống, sự hỗ trợ xã hội, và 
yếu tố di truyền.
 Cách đo lường một số biến số: Trong phân tích 
mối liên quan với biến phụ thuộc (trầm cảm): 
84
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
Thói quen hút thuốc lá, chia làm 2 nhóm: Không 
hút; Có hút (đang hút, hút nhưng đã bỏ). 
Thói quen uống rượu, bia, chia làm 3 nhóm: Có 
thói quen uống rượu (hàng ngày cảm thấy thèm và 
uống thường xuyên hoặc thỉnh thoảng từ 1 đến 7 
đơn vị uống chuẩn/ngày); Không có thói quen uống 
rượu (không hoặc uống dưới 1 đơn vị uống chuẩn/
ngày); Có nhưng đã bỏ dưới 6 tháng.
Thói quen vận động thể lực, chia làm 2 nhóm: 
Có (vận động trên 30 phút trong ngày); Không (vận 
động ít hơn 30 phút trong ngày). 
Biến cố 12 tháng qua, biến cố lớn trong cuộc đời: 
chia 2 nhóm: Không có biến cố nào và có ít nhất 1 
biến cố. 
Sự hỗ trợ xã hội: Sử dụng thang đo MSPSS 
(Multidimensional Scale of Perceived Social Support) 
gồm 12 nội dung [9], đánh giá sự hỗ trợ xã hội từ ba 
nguồn: gia đình, bạn bè và những người quan trọng 
khác. Mỗi nội dung chia làm 7 mức điểm (từ 1= rất 
không đồng ý, đến 7= rất đồng ý). Tổng điểm dao 
động từ 12 đến 84 điểm [9]. Sau khi điều tra toàn bộ 
mẫu nghiên cứu, tính điểm số trung bình và chia làm 2 
nhóm: Hỗ trợ xã hội thấp (điểm số < trị số trung bình) 
và hỗ trợ xã hội cao (điểm số ≥ trị số trung bình). 
2.2.4. Phương pháp thu thập số liệu: Phỏng vấn 
NCT tại hộ gia đình bằng bộ câu hỏi in sẵn.
2.2.5. Phương pháp xử lý số liệu: Xử lý số liệu 
bằng phần mềm SPSS 16.0. Mô hình hồi quy đa biến 
logistic được sử dụng để kiểm định các yếu tố liên 
quan đến trầm cảm. 
3. KẾT QUẢ 
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
 Đặc điểm n %
Nhóm tuổi
60-69 157 35,1
70-79 178 39,8
≥80 112 25,1
Giới tính
Nam 182 40,7
Nữ 265 59,3
Trình độ học vấn 
Biết đọc, biết viết hoặc mù chữ 49 11,0
Tiểu học 174 38,9
Trung học cơ sở 139 31,1
Trung học phổ thông 69 15,4
Trên trung học phổ thông 16 3,6
Nghề nghiệp trước đây
Cán bộ, viên chức 47 10,5
Công nhân 18 4,0
Nông dân 243 54,4
Nghề tự do và khác 139 31,1
Tình trạng 
công việc hiện tại
Có làm việc kiếm sống 284 63,5
Không làm việc kiếm sống 163 36,5
Hoàn cảnh sống 
và kết cấu gia đình
Đơn thân 64 14,3
Sống cùng một thế hệ 314 70,2
Sống cùng hai thế hệ trở lên 69 15,8
3.2. Tỷ lệ trầm cảm 
3.2.1. Tỷ lệ trầm cảm chung 
Bảng 3.2. Tỷ lệ trầm cảm chung
Trầm cảm n %
Bình thường (GDS<13) 376 84,1
Trầm cảm (GDS≥13) 71 15,9
Tổng cộng 447 100,0
Nhận xét: Tỷ lệ trầm cảm ở NCT chiếm tỷ lệ 15,9%.
85
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
3.2.2. Tỷ lệ mức độ trầm cảm
Biểu đồ 3.1. Mức độ trầm cảm ở người cao tuổi
Nhận xét: Trầm cảm nhẹ 2,7%, trầm cảm trung bình 9,2%, trầm cảm nặng 4,0%
3.2.3. Tỷ lệ trầm cảm theo tuổi 
Bảng 3.3. Tỷ lệ trầm cảm theo nhóm tuổi 
Tuổi
Trầm cảm
Tổng cộng
(n)
Có Không
n % n %
60-69 20 12,7 137 87,3 157
70-79 28 15,7 150 84,3 178
≥80 23 20,5 89 79,5 112
Tổng cộng 71 15,9 376 84,1 447
Nhận xét: Tỷ lệ trầm cảm cao nhất ở nhóm ≥ 80 tuổi (20,5%) và thấp nhất ở nhóm 60-69 tuổi (12,7%).
3.2.4. Tỷ lệ trầm cảm theo giới tính
Bảng 3.4. Tỷ lệ trầm cảm theo giới tính
Giới
Trầm cảm
Tổng cộng
(n)
Có Không
n % n %
Nam 24 13,2 158 86,8 182
Nữ 47 17,7 218 82,4 265
Tổng cộng 71 15,9 376 84,1 447
Nhận xét: 
Tỷ lệ trầm cảm của giới nữ (17,7%) cao hơn giới 
nam (13,2%). 
3.3. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm ở người 
cao tuổi
3.3.1. Mô hình hồi qui đơn biến
Các yếu tố không liên quan đến trầm cảm trong 
mô hình đơn biến (p>0,05) bao gồm: Tuổi, giới tính, 
tình trạng hôn nhân, trình độ học vấn, tình trạng 
công việc trong quá khứ, tình trạng công việc hiện 
tại, kinh tế gia đình, nguồn thu nhập, tham gia hoạt 
động xã hội, đời sống tình dục hiện tại, thói quen 
hút thuốc lá, thói quen uống rượu. Các yếu tố liên 
quan đến trầm cảm (p<0,05) bao gồm: Hoạt động 
thể lực, sự hỗ trợ xã hội, bệnh mạn tính, biến cố 12 
tháng qua, biến cố lớn trong cuộc đời, kết cấu gia 
đình-hoàn cảnh sống và yếu tố di truyền. 
3.3.2. Mô hình hồi qui đa biến logistic 
Các biến số có liên quan có ý nghĩa thống kê 
trong phân tích đơn biến được đưa vào mô hình hồi 
86
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
qui đa biến logistic để kiểm định các yếu tố liên quan đến trầm cảm. 
Bảng 3.5. Mô hình hồi quy đa biến logistic kiểm định các yếu tố liên quan đến trầm cảm* 
Biến độc lập OR 95% CI Giá trị p
Yếu tố di truyền
Không có
Có
1
5,8 1,2-29,4
<0,05
Hoạt động thể lực 
Có (trên 30 phút/ngày)
 Không có
1
2,1 1,0-4,3
<0,05
Biến cố lớn xảy ra 12 tháng qua
Không có
Có ≥ 1 biến cố
1
7,2
3,6-14,1
<0,001
Biến cố lớn trong cuộc đời
Không có
Có ≥ 1 biến cố
1
2,3 1,1-4,9
<0,05
Kết cấu gia đình-hoàn cảnh sống
Sống cùng một thế hệ
Sồng cùng hơn một thế hệ
Sống đơn thân
1
2,2
2,6
1,1-4,2
1,4-5,0
<0,05
<0,01
* Ghi chú: Chỉ những biến số liên quan có ý nghĩa 
thống kê (p<0,05) trong mô hình đa biến mới được 
trình bày trong bảng trên
Nhận xét: Nhóm có yếu tố di truyền bị mắc bệnh 
trầm cảm cao gấp 5,8 lần so với nhóm người cao 
tuổi không có yếu tố di truyền (OR=5,8; 95%CI: 1,2-
29,4); Nhóm không hoạt động thể lực bị trầm cảm 
cao gấp 2,1 lần so với nhóm người cao tuổi có hoạt 
động thể lực (OR=2,1; 95%CI: 1,0-4,3); Nhóm có 
biến cố xảy ra 12 tháng qua bị trầm cảm cao hơn 
gấp 7,2 lần so với người cao tuổi không có biến cố 
nào (OR=7,2; 95%CI: 3,6-14,1); Nhóm có biến cố 
xảy ra trong cuộc đời bị trầm cảm cao hơn gấp 2,3 
lần so với nhóm người cao tuổi không có biến cố 
nào (OR=2,3; 95%CI: 1,1-4,9); Kết cấu gia đình-hoàn 
cảnh sống: Sống đơn thân mắc trầm cảm cao hơn 
gấp 2,6 lần so với sống cùng một thế hệ (OR=2,6; 
95%CI: 1,4-5,0), sống cùng hơn một thế hệ mắc trầm 
cảm cao hơn gấp 2,2 lần so với sống cùng một thế hệ 
(OR=2,2; 95%CI: 1,1-4,2). 
4. BÀN LUẬN 
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu 
Qua bảng 3.1, cho thấy nhóm tuổi 60-69 chiếm 
tỷ lệ 35,1%, nhóm tuổi 70-79 (38,9%), nhóm tuổi từ 
80 tuổi trở lên chiếm tỷ lệ thấp nhất là 25,1%. Như 
vậy tỷ lệ nhóm trên 80 tuổi trong nghiên cứu của 
chúng tôi là cao hơn và nhóm 60-69 tuổi là thấp hơn 
so với nghiên cứu tương tự tại TP Huế (2013) [6]. 
Nữ giới chiếm tỷ lệ (59,3%), cao hơn so với nam 
giới (40,7%). Tỷ lệ nữ giới trong nghiên cứu của 
chúng tôi (66,8%) cao hơn so với nghiên cứu tương 
tự tại TP Huế (55,7%) [3] và cũng cao hơn so với 
nghiên cứu tương tự tại TPHCM (47,7%) [4]. 
 NCT có trình độ học vấn từ trung học cơ sở trở 
xuống chiếm tỷ lệ 81% cao hơn gấp 4,3 lần so với 
NCT có học vấn từ PHTH trở lên. So với nghiên cứu 
tương tự tại Quận Thủ Đức, TPHCM (2014) thì tỷ lệ 
này chỉ cao hơn gấp 1,5 lần [7]. 
4.2. Tỷ lệ trầm cảm ở người cao tuổi 
4.2.1. Tỷ lệ trầm cảm ở người cao tuổi tại phường 
Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi
Qua bảng 3.2, cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở NCT 
chung là 15,9% thấp hơn so với các nghiên cứu 
tương tự khác trong nước như: tại TP Huế (2013) 
cho biết tỷ lệ trầm cảm ở NCT là 28,4% [6]; tại quận 
Thủ Đức, TPHCM (2014) 17,2% [7]. So với các nghiên 
cứu tương tự khác trên thế giới, kết quả nghiên cứu 
chúng tôi lại càng thấp hơn nhiều: Tại thành phố 
Karachi, Pakistan tác giả Bhamani M.A. Karim MS và 
Khan MM. (2013) cho kết quả tỷ lệ hiện mắc trầm 
cảm là khá cao (40,6%), tuy nhiên ở đây tác giả dùng 
thang đo GDS rút gọn 15 điểm (GDS-15) với điểm 
cắt là 5 điểm [10]. Tỷ lệ trầm cảm ở NCT tại các vùng, 
miền, quốc gia, lãnh thổ và châu lục khác nhau là có 
sự khác nhau. 
87
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
4.2.2. Mức độ trầm cảm ở người cao tuổi tại 
phường Trương Quang Trọng, thành phố Quảng Ngãi
Qua biểu đồ 3.1, cho thấy: trầm cảm mức độ nhẹ 
(13≤GDS≤18) chiếm 2,7%; trung bình (18<GDS≤24) 
chiếm 9,2% và nặng (GDS>24) chiếm 4,0%. So với các 
nghiên cứu tương tự trong nước: Tại TP Huế (2013) 
mức độ trầm cảm nhẹ ở NCT chiếm 17,1%; trung 
bình chiếm 8,8% và nặng chiếm 2,5% [6], tại quận 
Thủ Đức TPHCM (2014), mức độ trầm cảm nhẹ chiếm 
9,9%; trung bình chiếm 5,9% và nặng chiếm 1,4% [7]. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi tỷ lệ trầm cảm nặng 
cao hơn (4,0%), trầm cảm trung bình là tương đương 
và trầm cảm nhẹ thấp hơn. Điều này cho thấy rằng 
việc phát hiện, can thiệp sớm và quản lý điều trị bệnh 
trầm cảm chưa được tốt nên tỷ lệ mắc trầm cảm mức 
độ nặng còn cao trong cộng đồng. 
4.3. Các yếu tố liên quan đến trầm cảm 
4.3.1. Yếu tố di truyền
Qua mô hình hồi quy đa biến logistic kiểm định 
các yếu tố liên quan đến trầm cảm (bảng 3.5) cho 
thấy NCT có yếu tố di truyền về bệnh trầm cảm thì có 
tỷ lệ mắc bệnh trầm cảm cao hơn gấp 5,8 lần so với 
người cao tuổi không có yếu tố di truyền (OR=5,8; 
95%CI:1,2-29,4).
4.3.2. Thói quen hoạt động thể lực
Kết quả cho thấy yếu tố vận động thể lực hơn 30 
phút/ngày có liên quan đến trầm cảm ở NCT, không 
hoạt động thể lực trên 30 phút trong ngày bị trầm 
cảm cao hơn gấp 2,1 lần so với người cao tuổi có 
hoạt động thể lực (OR=2,1; 95%CI: 1,0-4,3). Nhiều 
nghiên cứu cũng đã cho thấy lối sống với hoạt động 
thể lực tích cực có tác dụng làm giảm nguy cơ mắc 
các triệu chứng trầm cảm. 
4.3.3. Biến cố lớn xảy ra trong 12 tháng qua 
NCT trải qua từ 1 biến cố trở lên trong vòng 12 
tháng bị trầm cảm cao hơn gấp 7,2 lần so với người 
cao tuổi không có biến cố nào (OR=7,2; 95%CI: 3,6-
14,2). Một nghiên cứu tương tự khác trong nước 
cũng sử dụng thang đo GDS trên đối tượng nghiên 
cứu là NCT tại TP Huế (2013) cho thấy nguy cơ mắc 
trầm cảm của nhóm NCT đã bị ít nhất 1 biến cố trong 
12 tháng qua cao hơn gấp 1,7 lần so với nhóm không 
gặp biến cố nào (OR =1,7; 95%CI: 1,0–2,4) [6]. Nghiên 
cứu khác của Isaac và cộng sự cũng nhận thấy tỷ lệ 
trầm cảm ở những người gặp ít nhất 1 biến cố vừa xảy 
ra mắc trầm cảm cao hơn gấp 1,7 lần so với không gặp 
biến cố gì (OR=1,7; 95%CI: 1,4-2,1); p<0,001) [11]. 
4.3.4. Biến cố lớn trong cuộc đời 
Qua phân tích mô hình hồi quy đa biến cho thấy 
nhóm NCT đã bị ít nhất 1 biến cố lớn trong cuộc đời 
bị trầm cảm cao hơn gấp 2,3 lần so với người cao 
tuổi không có biến cố nào (OR=2,3; 95%CI:1,1-4,9). 
Một nghiên cứu trước đây ở NCT tại quận Thủ Đức 
TPHCM (2014) cũng cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở NCT 
có ít nhất 1 biến cố lớn trong cuộc đời cao hơn gấp 
1,9 lần so với NCT không gặp biến cố nào (OR:1,9; 
95%CI:1,1-3,4) [7]. Một nghiên cứu ở NCT tại TP Huế 
(2013) cũng cho thấy biến cố trong cuộc đời có liên 
quan với trầm cảm (p<0,05)[6]. 
4.3.5. Kết cấu gia đình và hoàn cảnh sống 
Qua phân tích mô hình hồi quy đa biến cho thấy 
nhóm NCT sống đơn thân mắc trầm cảm cao hơn 
gấp 2,6 lần so với nhóm NCT sống cùng một thế 
hệ (OR=2,6; 95%CI: 1,4-5,0); nhóm sống cùng hơn 
một thế hệ mắc trầm cảm cao hơn gấp 2,2 lần so 
với nhóm sống cùng một thế hệ (OR=2,2; 95%CI: 
1,1-4,2). Các nghiên cứu tương tự khác cũng cho 
kết quả tương tự, ví dụ nghiên cứu ở NCT quận Thủ 
Đức, TPHCM (2014) cho thấy NCT sống một mình 
mắc trầm cảm cao hơn gấp 3,7 lần so với sống cùng 
người thân [7], nghiên cứu ở TP Huế (2013) cho thấy 
NCT sống một mình mắc trầm cảm cao hơn gấp 1,8 
lần so với sống cùng người thân [6]. 
5. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
Qua nghiên cứu 447 NCT ở phường Trương 
Quang Trọng, TP Quảng Ngãi chúng tôi rút ra kết 
luận: Tỷ lệ trầm cảm chung 15,9%, trong đó: Trầm 
cảm nhẹ (13≤GDS≤18) chiếm 2,7%; Trầm cảm trung 
bình (18<GDS≤24) chiếm 9,2%; Trầm cảm nặng 
(GDS>24) chiếm 4,0%. 
Nhóm NCT có yếu tố di truyền mắc trầm cảm 
cao hơn gấp 5,8 lần so với NCT không có yếu tố di 
truyền; NCT không hoạt động thể lực trên 30 phút 
trong ngày bị trầm cảm cao hơn gấp 2, 1 lần so với 
nhóm NCT có hoạt động thể lực; NCT có biến cố xảy 
ra 12 tháng qua bị trầm cảm cao hơn gấp 7,2 lần so 
với NCT không có biến cố nào; NCT có biến cố xảy ra 
trong cuộc đời bị trầm cảm cao hơn gấp 2,3 lần so 
với người cao tuổi không có biến cố nào; NCT sống 
đơn thân mắc trầm cảm cao hơn gấp 2,6 lần so với 
NCT sống cùng một thế hệ, NCT sống cùng hơn một 
thế hệ mắc trầm cảm cao hơn gấp 2,2 lần so NCT với 
sống cùng một thế hệ.
Kiến nghị: Cần có chương trình khám sàng lọc 
phát hiện sớm trầm cảm ở NCT tại cộng đồng và phổ 
biến kiến thức cho người dân về biểu hiện của trầm 
cảm và các yếu tố nguy cơ của trầm cảm ở NCT để 
người dân chủ động trong phòng bệnh và tiếp cận 
với can thiệp sớm khi mắc bệnh. 
88
Tạp chí Y Dược học - Trường Đại học Y Dược Huế - Tập 8, số 6 - tháng 11/2018
JOURNAL OF MEDICINE AND PHARMACY
1. Bộ môn tâm thần và tâm lý y học bộ (2005), “Rối 
loạn cảm xúc”, Bệnh học tâm thần, Nhà xuất bản Quân đội 
nhân dân, tr. 215-252.
2. Nguyễn Văn Dũng (2014), Nghiên cứu đặc điểm lâm 
sàng, các yếu tố liên quan và điều trị các rối loạn trầm cảm 
ở người cao tuổi, tại Viện sức khỏe Tâm thần- Bệnh viện 
Bạch Mai, luận án tiến sĩ, Đại Học Y Hà Nội.
3. George N. Christodoulou (2012), “Trầm cảm là hậu 
quả của khủng hoảng kinh tế, trầm cảm: căn bệnh toàn 
cầu”, ngày sức khỏe tâm thần thế giới 10/10/2012, Liên 
đoàn sức khỏe tâm thần thế giới.
4. Tôn Thất Hưng và CS (2012), “Nghiên cứu tình hình 
và các yếu tố tâm lý xã hội liên quan đến rối loạn trầm cảm 
tại phường Xuân Phú - thành phố Huế”, Tạp chí y học thực 
hành. 805, tr. 241-248.
5. Jeffrey Geller, MD và MPH (2012), “Trầm cảm và 
mối nguy cơ cho cộng đồng, trầm cảm: căn bệnh toàn 
cầu”, ngày sức khỏe tâm thần thế giới 10/10/2012, Liên 
đoàn sức khỏe tâm thần thế giới.
6. Nguyễn Hoàng Thùy Linh (2013), Nghiên cứu tỉ lệ rối 
loạn trầm cảm người cao tuổi ở thành phố Huế, luận văn 
thạc sĩ y khoa, Đại học Y Dược Huế.
7. Nguyễn Đỗ Ngọc (2014), Nghiên cứu tỷ lệ rối loạn 
trầm cảm và một số yếu tố liên quan ở người cao tuổi tại 
quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh năm 2014, luận án 
chuyên khoa cấp II, Đại Học Y Dược Huế. 
8. Phạm Văn Trụ (2009), “Trầm cảm thường bị chẩn 
đoán sai trong chăm sóc ban đầu”, chuyên đề tâm thần-
trầm cảm, Bệnh viện Tâm thần thành phố Hồ Chí Minh.
9. Dahlem N.W., G. D. Zimet và R.R.Walker (1991), 
“The multidimensionalscale of perceived social support: 
a confirmation study” 47(6), pp.756-761.
10. Bhamani M. A, Karim MS và Khan MM. (2013), 
“Depression in the elderly in Karachi, Pakistan: a cross 
sectional study”, BMC Psychiatry, pp.13-181.
11. Isaac V1 và các cộng sự. (2009), “Social Activity and 
Improvement in Depressive Symptoms in Older People: 
A Prospective Community Cohort Study”, The American 
Journal of Geriatric Psychiatry. 17(8), pp.688-696.
12. McDowell I. (2006), Measuring Health: A Guide to 
Rating Scales and Questionnaires, Third Edition, OXF0RD 
UNIVERSITY PRESS pp.329 -390.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

File đính kèm:

  • pdfty_le_tram_cam_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_nguoi_cao_tuoi_phuo.pdf