Xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng trong kiểm toán các doanh nghiệp có vốn nhà nước của kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI

Quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước, minh bạch trong Báo cáo tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động đầu tư xây dựng là mục tiêu và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Để giúp cho các cơ quan chức năng trong việc quản lý nhà nước về doanh nghiệp và phần vốn nhà nước tại các Công ty cổ phần (CTCP) một cách hiệu quả, hoạt động kiểm toán đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng tại các DN có vốn nhà nước là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết hiện nay của Kiểm toán nhà nước (KTNN). Bài viết sẽ góp phần làm rõ việc xác định các tiêu chí cũng như nội dung đánh giá trong một cuộc kiểm toán hoạt động đầu tư xây dựng tại các DN có vốn nhà nước cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn hiện nay

pdf 7 trang yennguyen 17040
Bạn đang xem tài liệu "Xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng trong kiểm toán các doanh nghiệp có vốn nhà nước của kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng trong kiểm toán các doanh nghiệp có vốn nhà nước của kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI

Xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng trong kiểm toán các doanh nghiệp có vốn nhà nước của kiểm toán nhà nước chuyên ngành VI
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 33Số 130 - tháng 8/2018
XAÙC ÑÒNH CAÙC TIEÂU CHÍ ÑAÙNH GIAÙ HIEÄU QUAÛ 
ÑAÀU TÖ XAÂY DÖÏNG TRONG KIEÅM TOAÙN CAÙC 
DOANH NGHIEÄP COÙ VOÁN NHAØ NÖÔÙC CUÛA 
KIEÅM TOAÙN NHAØ NÖÔÙC CHUYEÂN NGAØNH VI
ThS. GIANG ĐỨC THIỆN*
ThS. BùI QUANG HUY*
*KTNN Chuyên ngành VI
Quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn vốn của Nhà nước, minh bạch trong báo cáo tài chính và kết quả hoạt động kinh doanh, đặc biệt trong hoạt động đầu tư xây dựng là mục tiêu và nhiệm vụ của các cơ quan quản lý doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Để giúp cho các cơ quan chức năng trong việc quản lý nhà nước về doanh nghiệp và phần vốn nhà nước tại các Công ty cổ 
phần (CTCP) một cách hiệu quả, hoạt động kiểm toán đánh giá hiệu quả đầu tư xây dựng tại các DN có 
vốn nhà nước là việc làm hết sức quan trọng và cần thiết hiện nay của Kiểm toán nhà nước (KTNN). Bài 
viết sẽ góp phần làm rõ việc xác định các tiêu chí cũng như nội dung đánh giá trong một cuộc kiểm toán 
hoạt động đầu tư xây dựng tại các DN có vốn nhà nước cả dưới góc độ lý luận và thực tiễn hiện nay.
Từ khóa: kiểm toán hiệu quả dự án đầu tư dự án
Determining the criteria for evaluation of investment efficiency in the audit of state capital-assisted 
enterprises by specialized audit department No.VI
Effective management and use of state capital, transparency in financial statements and results of business 
operations, especially in construction investment are the objectives and tasks of the joint management 
agencies. State-owned enterprises (SOEs). In order to help the functional agencies in the state management 
of enterprises and state capital in joint-stock companies (JCs) effectively, auditing activities to evaluate the 
effectiveness of construction investment in the enterprises with state capital are the most important and 
necessary tasks of SAV. The article contributes to the clarification of criteria as well as evaluation content in 
an audit of construction investment activities in state-owned enterprises both in terms of theory and current 
practice.
key words: Audit of effectivness of project investment projects
1. Tổng quan về kiểm toán các dự án đầu tư 
xây dựng
Khái niệm về hiệu quả và tính hiệu quả trong 
kiểm toán hoạt động
Hiểu theo nghĩa rộng, hiệu quả thể hiện mối 
tương quan giữa các biến số đầu ra thu được 
(outputs) so với các biến số đầu vào (inputs) đã 
được sử dụng để tạo ra những kết quả đầu ra đó. 
Như vậy, tính hiệu quả liên quan mật thiết giữa 
“yếu tố đầu vào” và “kết quả đầu ra” và nó được thể 
hiện qua chỉ tiêu năng suất đạt được. Năng suất là 
tỷ số giữa số lượng kết quả tạo ra (sản phẩm hoặc 
dịch vụ) được chấp nhận với lượng yếu tố đầu vào 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN34 Số 130 - tháng 8/2018
(các nguồn lực) được sử dụng để tạo ra chúng. Một 
vài ví dụ về quan hệ của tính hiệu quả được thể 
hiện như: Tỷ lệ giữa số giường bệnh và số bệnh 
nhân trong một bệnh viện; tỷ lệ giữa số giáo viên 
và học sinh trong một trường học; tỷ lệ giữa thời 
gian vận hành máy móc thiết bị và sản lượng sản 
phẩm trong một nhà máy...
Rõ ràng, tính hiệu quả là một khái niệm tương 
đối vì nó được đo lường bằng cách so sánh giữa 
năng suất với các chỉ tiêu, mục đích hoặc tiêu 
chuẩn được mong đợi.
Nội dung đánh giá tính hiệu quả của Dự án đầu 
tư xây dựng
Về cơ bản, việc đánh giá tính hiệu quả của hoạt 
động đã có tiêu chuẩn chung được chấp nhận. Vấn 
đề đặt ra là Kiểm toán viên cần phải triển khai thành 
các tiêu chuẩn cụ thể. Kiểm toán viên thường phối 
hợp với lãnh đạo của đơn vị được kiểm toán và các 
chuyên gia để xác định hoặc xây dựng chúng. Ngay 
cả khi đã có sẵn những tiêu chuẩn, kiểm toán viên 
cũng cần xem xét những tiêu chuẩn đó có còn phù 
hợp không? Bởi lẽ, có thể những tiêu chuẩn đó đã 
lỗi thời vì tình hình thực tiễn đã có sự thay đổi. Ví 
dụ, tiêu chuẩn để đánh giá tính hiệu quả đối với 
quá trình xử lý nghiệp vụ thanh toán khi chưa sử 
dụng máy vi tính phải được xem xét lại nếu đơn 
vị chuyển sang xử lý bằng công nghệ thông tin 
(CNTT). Lúc này, tuy thời gian cần thiết để xử lý 
một nghiệp vụ có thể được rút ngắn nhưng chi phí 
có thể lại tăng lên. Vì vậy, Kiểm toán viên cần phải 
thận trọng với những sự thay đổi trước khi chấp 
nhận một tiêu chuẩn nào đó.
Một vấn đề khác cũng cần phải được xem xét là 
việc đánh giá tính hiệu quả trong trường hợp hoạt 
động được kiểm toán mang tính chất chu kỳ hoặc 
tính chất cơ học và kết quả tạo ra là đồng nhất sẽ 
tương đối dễ dàng xác định hơn là hoạt động được 
kiểm toán không có những đặc tính trên. Ví dụ, 
đánh giá tính hiệu quả của một nhà máy phát điện 
dễ dàng hơn đánh giá tính hiệu quả của một bác sĩ, 
vì mỗi bệnh nhân có thể mắc một loại bệnh và mức 
độ phức tạp của mỗi bệnh tật cũng khác nhau.
Thông thường tính hiệu quả được hiểu là vấn 
đề nội bộ của một đơn vị. Tính hiệu quả không ảnh 
hưởng hay tác động trực tiếp đến các hoạt động 
của đơn vị đối với môi trường bên ngoài mà nó 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 35Số 130 - tháng 8/2018
đang hoạt động. Ví dụ, trong một bệnh viện, đánh 
giá tính hiệu quả có thể đánh giá qua việc sử dụng 
số giường bệnh, số ca phẫu thuật, hoặc việc sử 
dụng thuốc men... Tuy nhiên, việc đánh giá như 
thế không cho thấy ảnh hưởng trực tiếp đến chất 
lượng chăm sóc hay tình trạng bệnh tật hoặc sức 
khoẻ trong cộng đồng mà bệnh viện đó phục vụ.
Tính hiệu quả và tính kinh tế còn có ý nghĩa 
gần giống nhau nên đôi khi khó tách biệt được một 
cách rõ ràng. Nếu xét việc có được các nguồn lực 
như là các hoạt động của đơn vị thì việc tối thiểu 
hóa chi phí để có được nguồn lực đúng số lượng, 
đúng địa điểm, đúng thời gian, đúng chủng loại và 
đúng giá cả sẽ là “tính hiệu quả” của hoạt động tạo 
ra các nguồn lực đó. Còn nếu xét hoạt động ở phạm 
vi rộng hơn, tính kinh tế chỉ là một bộ phận của 
tính hiệu quả, vì tiết kiệm được chi phí cho nguồn 
lực cuối cùng cũng nhằm để giảm giá thành hoặc 
nguồn lực trên một đơn vị kết quả tạo ra đã định. 
Nói cách khác, việc có được các nguồn lực có tính 
kinh tế góp phần tạo nên tính hiệu quả bằng cách 
tối thiểu hoá chi phí cho đầu vào được sử dụng.
Còn đối với với việc đánh giá hiệu quả của một 
dự án là đánh giá kết quả đầu ra so với chi phí đã 
đầu tư hoặc mức độ sử dụng kinh phí đầu tư so 
với kết quả đầu ra cho trước; đánh giá hiệu quả xã 
hội của dự án. Thông qua số liệu thống kê về mức 
độ tăng trưởng về kinh tế, xã hội đạt được sau khi 
đầu tư dự án để đánh giá về mức độ ảnh hưởng của 
dự án mang lại cho vùng dự án đến xóa đói, giảm 
nghèo, tạo công ăn việc làm, cải thiện môi trường, 
tăng khả năng tiếp cận của người dân đến các dịch 
vụ y tế, trường học, dịch vụ tín dụng và khả năng 
tiếp cận các trung tâm chính trị, kinh tế, chuyển 
dịch kinh tế, cơ cấu ngành nghề sau khi có dự án...
2. Xác định các tiêu chí đánh giá hiệu quả khi 
kiểm toán dự án đầu tư xây dựng
Đánh giá tính hiệu quả của dự án đầu tư cần 
được tiến hành qua các giai đoạn thực hiện dự án 
được thể hiện như sau:
a) Đánh giá trong giai đoạn lập, thẩm định, 
phê duyệt dự án đầu tư
- Các thông tin, thông số làm căn cứ lập dự án 
đầu tư có hợp lý không: Các chỉ số về kinh tế, thị 
trường; các thông số về môi trường (nước thải, 
tiếng ồn, ô nhiễm...); các chỉ số kỹ thuật (mức độ 
chịu bão, gió, mưa, động đất...); các tiêu chuẩn kỹ 
thuật không phù hợp (độ bền, tuổi thọ, chất lượng 
vật liệu...).
- Xem xét tất cả các phương án đầu tư có thể có 
để có sự lựa chọn tối ưu.
- Lựa chọn địa điểm đầu tư có hợp lý không hay 
theo ý chí chủ quan mà chưa tính đến các yếu tố 
liên quan (địa chất, giao thông, nguồn nguyên liệu, 
thị trường, nguồn nhân lực...).
- Lựa chọn công nghệ có theo tiêu chí so sánh 
chi phí - hiệu quả không: Đảm bảo tính đồng bộ, 
nêu rõ các tiêu chuẩn, đặc tính và thông số kinh tế 
kỹ thuật của thiết bị.
- Tính toán xem xét đến điều kiện thực tế về hạ 
tầng hiện có như điện, nước, thoát nước...
- Lựa chọn giải pháp xây dựng có lưu ý đến sự 
lạc hậu về công nghệ và tiến bộ của khoa học kỹ 
thuật hay không?
b) Đánh giá trong giai đoạn thực hiện thiết kế, 
dự toán 
- Thiết kế sau khi đã nghiên cứu về nhu cầu đầu 
tư và thiết kế có căn cứ trên nhu cầu hay không?
- Khảo sát thiếu chính xác? dẫn tới phương án 
thiết kế không phù hợp?
- Thiết kế, bố trí dây chuyền công nghệ có đảm 
bảo tính hợp lý hay không?
- Thiết kế không đầy đủ, chưa lường hết được 
các phạm vi khối lượng công việc cần thiết dẫn tới 
phát sinh khối lượng lớn phải giao thầu bổ sung làm 
chậm tiến độ và vượt dự toán chi phí hay không?
- Thiết kế trang thiết bị kỹ thuật và thiết kế xây 
dựng có sự phối hợp đồng bộ hay không?
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN36 Số 130 - tháng 8/2018
- Có thiết kế quá nhu cầu của bên sử dụng, giải 
pháp quá tốn kém hay không?; hành lang và lối 
thông nhau quá rộng một cách không cần thiết; 
trang bị nội thất quá xa xỉ; thiết bị vận hành kỹ 
thuật quá tốn kém về các chi phí không chỉ ban đầu 
mà cả chi phí thường xuyên, duy tu, bảo dưỡng nảy 
sinh trong quá trình vận hành về sau?...
- Thời hạn thiết kế có phù hợp không ? Nếu thời 
hạn quá ngắn, đến khi thi công việc thiết kế mới 
được hoàn thành đầy đủ dẫn tới tiến độ thi công bị 
ảnh hưởng và không thể kiểm soát được chi phí?
- Dự toán chi phí có chính xác hay không? Hay 
do thông tin chưa đầy đủ, thiếu cẩn thận trong tính 
toán hoặc chủ ý lập dự toán thấp để dự án dễ được 
phê duyệt và khi đã thi công sẽ đề nghị duyệt kinh 
phí bổ sung để hoàn thành; ngược lại, lập dự toán 
cao để có nguồn kinh phí mua sắm những trang 
thiết bị đắt tiền?
- Dự toán có bị cắt giảm một cách vô cớ trong 
quá trình thẩm định và phê duyệt, sau này lại phải 
duyệt bổ sung hay không?
- Dự toán chi phí khối lượng phát sinh có kịp 
thời ? hay được lập muộn, thậm chí khi đã thi công 
xong hạng mục, vì vậy không có tác dụng đối với 
việc quản lý chi phí?
c) Đánh giá trong giai đoạn lựa chọn nhà thầu
- Có tổ chức đấu thầu rộng rãi hay không? Hay 
chỉ đấu thầu hạn chế hoặc chỉ định thầu?
- Hồ sơ mời thầu lập có chuẩn xác hay không? 
Hay có sai sót dẫn tới việc lựa chọn nhà thầu không 
đảm bảo yêu cầu dự án làm ảnh hưởng đến tiến độ 
và chất lượng công trình?
- Mô tả gói thầu có đầy đủ, rõ ràng hay 
không? Hay thiếu chính xác dẫn đến cách hiểu 
khác nhau dễ dẫn đến xẩy ra tranh chấp khi thực 
hiện hợp đồng?
- Chủ đầu tư và nhà thầu có thông đồng với 
nhau hay không? Dẫn đến việc đã thông tin cho 
nhà thầu về một phần khối lượng công việc nào đó 
trong gói thầu sẽ được giao bổ sung. Nhà thầu biết 
thông tin sẽ bỏ với đơn giá cao đột biến cho những 
công việc đó, giảm đơn giá các công việc còn lại để 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 37Số 130 - tháng 8/2018
thắng thầu, khi được thanh toán sẽ được hưởng lợi 
rất lớn ở phần giao bổ sung, dẫn tới chi phí công 
trình tăng?
- Có thông thầu hay không? Một nhà thầu mua 
tất cả hồ sơ mời thầu; các nhà thầu thoả hiệp với 
nhau để một nhà thầu nào đó thắng thầu rồi phân 
chia lợi ích giữa các nhà thầu với nhau (thường là 
trong đấu thầu hạn chế)...
- Có việc thẩm định thiếu chính xác, phê duyệt 
giá gói thầu quá cao hay không?
- Có việc xét thầu thiếu công bằng, không 
theo những tiêu thức đã được cấp có thẩm quyền 
phê duyệt?
- Tiêu chí đánh giá hồ sơ dự thầu có hợp lý hay 
không? Hay đã tạo điều kiện cho các nhà thầu có 
ít năng lực, kinh nghiệm vẫn có thể tham gia đấu 
thầu và trúng thầu hoặc có thể đưa ra những tiêu 
chí đánh giá bất lợi cho các nhà thầu có năng lực?
d) Trong giai đoạn hợp đồng và thực hiện 
hợp đồng 
- Các điều khoản hợp đồng có cụ thể và chặt chẽ 
hay không?
- Giá trên hợp đồng có căn cứ vào giá trúng 
thầu hay không?
- Hợp đồng có được điều chỉnh kịp thời khi 
thay đổi thiết kế hay không? Hay không có được 
cái nhìn tổng quát về diễn biến chi phí, chi phí vượt 
trội không được phát hiện kịp thời. Trong những 
trường hợp đó, thường giá cả của chi phí phát sinh, 
bổ sung thường cao hơn giá hợp đồng gốc (các ban 
quản lý xây dựng thường lấy lý do là thi công không 
cùng thời điểm).
- Không thực hiện việc phạt nhà thầu khi nhà 
thầu vi phạm các điều khoản hợp đồng.
e) Trong giai đoạn quản lý thi công xây dựng
- Tiến độ bị kéo dài do nguyên nhân chủ quan 
hay khách quan?
- Do giám sát không tốt nên không phát 
hiện kịp thời các hạng mục có khiếm khuyết kỹ 
thuật, sử dụng nguyên vật liệu kém chất lượng; 
các trang thiết bị kỹ thuật không đúng thông số 
đã ký kết trong hợp đồng... dẫn đến hư hại công 
trình xây dựng. 
- Khi nghiệm thu các hạng mục phát hiện ra 
khiếm khuyết nhưng không kiên quyết yêu cầu 
đơn vị thi công khắc phục ngay.
- Việc quá chậm trễ đưa ra yêu cầu sửa chữa 
các khiếm khuyết có thể do đơn vị sử dụng sau khi 
nhận bàn giao công trình đã không thông báo kịp 
thời và đầy đủ cho ban Quản lý xây dựng (QLXD) 
về những khiếm khuyết đó, dẫn đến bên nhận thầu 
có thể viện lý do hết hiệu lực thời hạn bảo hành, sẽ 
tốn kém chi phí cho việc khắc phục. 
f) Đánh giá về điều kiện, năng lực của tổ chức 
cá nhân trong hoạt động xây dựng
- Các tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động xây 
dựng không có đủ năng lực về tài chính, kỹ thuật, 
chuyên môn.
- Các tổ chức cá nhân không đúng chức 
năng, ngành nghề, không có đủ độ tin cậy và 
kinh nghiệm... 
3. Thực trạng đánh giá hiệu quả đầu tư xây 
dựng tại kTNN Chuyên ngành VI
Quá trình kiểm toán đầu tư xây dựng nói chung 
và kiểm toán đánh giá hiệu quả hoạt động ĐTXD 
trong doanh nghiệp có vốn nhà nước nói riêng tại 
KTNN chuyên ngành VI đã từng bước được thực 
hiện theo yêu cầu quản lý chung của các cấp quản 
lý, cũng như đòi hỏi, yêu cầu của người dân và công 
luận xã hội, góp phần vào kết quả kiểm toán chung 
của KTNN cũng như đóng góp những đánh giá, 
nhận xét, kết luận, kiến nghị và cung cấp thông tin 
chính tắc, minh bạch về quá trình đầu tư xây dựng 
của các Tập đoàn, Tổng công ty nhà nước cho Quốc 
hội và Chính phủ.
Tuy nhiên, thực trạng kiểm toán hoạt động 
ĐTXD trong doanh nghiệp có vốn nhà nước tại 
NGHIEÂN CÖÙU TRAO ÑOÅI
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN38 Số 130 - tháng 8/2018
KTNN chuyên ngành VI vẫn còn có nhiều hạn chế, 
chưa đáp ứng kịp thời yêu cầu phản ánh, cung cấp 
thông tin đầy đủ, toàn diện về quá trình quản lý 
đầu tư và hiệu quả đầu tư của các doanh nghiệp sử 
dụng vốn nhà nước. Kết quả cụ thể đạt được qua 
các giai đoạn như sau:
Khi thực hiện kiểm toán Báo cáo quyết toán dự 
án hoàn thành/chi phí đầu tư thực hiện các dự án 
riêng biệt
Giai đoạn trước năm 2015, đội ngũ kiểm toán 
viên có chuyên môn kỹ thuật (là kỹ sư) chỉ có số 
lượng hạn chế nên chỉ thực hiện kiểm toán đánh 
giá các nội dung đầu tư trong tổ kiểm toán báo cáo 
tài chính; sau khi được tăng cường đội ngũ kiểm 
toán viên, nâng cao năng lực chuyên môn và kỹ 
năng thực hiện kiểm toán dự án đầu tư xây dựng, 
đã có thể thực hiện kiểm toán chi phí đầu tư và 
lồng ghép đánh giá hiệu quả đầu tư từng dự án 
trong quá trình kiểm toán chi phí đầu tư.
Từ năm 2015 trở lại đây, khi đội ngũ nhân lực 
KTV chuyên môn kỹ thuật đã được tăng cường cả 
về lượng và về chất, các KTV được quan tâm đào 
tạo bước đầu có kỹ năng, chuyên môn, nâng dần 
chất lượng thực hiện kiểm toán. Yêu cầu về cung 
cấp thông tin của các cơ quan quản lý nhà nước và 
dư luận xã hội tập trung vào hiệu quả hoạt động 
đầu tư của các DNNN ngày càng lớn. Do đó, xu 
hướng kiểm toán đầu tư trong doanh nghiệp đang 
chuyển dịch, đẩy mạnh loại hình kiểm toán hoạt 
động nhằm đánh giá hiệu quả đầu tư từ khâu phân 
tích, tổng hợp để có đánh giá tổng quan về toàn bộ 
quá trình quản lý đầu tư của đơn vị.
 Năm 2015 - 2016, KTNN chuyên ngành VI đã 
đẩy mạnh hơn quá trình kiểm toán tổng hợp trong 
kiểm toán đánh giá hoạt động quản lý của doanh 
nghiệp, tăng cường công tác đánh giá đầu tư xây 
dựng trên lĩnh vực quản lý tổng thể (công tác quy 
hoạch, kế hoạch đầu tư xây dựng, công tác cơ chế 
quản lý, hiệu quả tổng quát trong quá trình quản lý 
đầu tư trên các khía cạnh tổng hợp như hiệu quả lãi 
lỗ dự án, tiến độ thực hiện dự án, giá trị dự án nên 
những đánh giá, nhận xét và kiến nghị toàn diện 
hơn và có những dẫn chứng cụ thể).
 Khi thực hiện kiểm toán đánh giá tổng thể 
quá trình quản lý đầu tư xây dựng của toàn doanh 
nghiệp tại công ty mẹ và chọn mẫu tại một số đơn 
vị, dự án chi tiết cụ thể.
Từ năm 2017, KTNN chuyên ngành VI đã 
mạnh dạn chuyển dịch cách thức thực hiện kiểm 
toán đầu tư tại các Tập đoàn, Tổng Công ty Nhà 
nước theo hình thức thực hiện riêng thành các 
đoàn kiểm toán dự án đầu tư trong đó loại hình 
kiểm toán đã được điều chỉnh, chuyển dịch theo 
mô hình đánh giá hoạt động đầu tư và hiệu quả 
đầu tư dự án của toàn bộ Tập đoàn, Tổng công ty 
(Năm 2017, đã thực hiện kiểm toán đánh giá hiệu 
quả hoạt động đầu tư xây dựng tại Tập đoàn Than 
- Khoáng sản Việt Nam và Tập đoàn Hóa chất Việt 
Nam), trong đó đã tập trung vào đánh giá cơ chế 
quản lý đầu tư, đánh giá riêng những dự án đầu 
tư còn nhiều hạn chế trong quản lý đầu tư, kém 
hiệu quả.
4. Các giải pháp và kiến nghị
Thứ nhất, Hoàn thiện cơ sở pháp lý để thực hiện 
tốt loại hình kiểm toán hoạt động nói chung và 
kiểm toán hiệu quả đầu tư nói riêng như: Quy định 
về nhiệm vụ kiểm toán hoạt động trong các Luật 
cần bao trùm toàn bộ các dự án của Nhà nước, 
các dịch vụ công và các nguồn lực khác... trong đó, 
phải quy định rõ những nội dung KTNN cần có ý 
kiến về mục tiêu của các chính sách (các quyết định 
chính trị và các mục tiêu cho trước của Quốc hội, 
Chính phủ vì đó là những xuất phát điểm cho kiểm 
toán hoạt động) theo kết quả phát hiện của mình 
(ví dụ nếu các mục tiêu không nhất quán hoặc mục 
tiêu không rõ ràng thì không thể nhận xét được 
một cách thỏa đáng mức độ đạt được mục tiêu), 
có như vậy mới bảo đảm được chất lượng của kiểm 
toán hoạt động.
Thứ hai, Xây dựng và ban hành các hướng dẫn 
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC KIỂM TOÁN 39Số 130 - tháng 8/2018
cụ thể cho kiểm toán hoạt động đầu tư và hiệu quả 
đầu tư dự án trong DNNN phù hợp với thông lệ 
quốc tế, tuân thủ pháp luật Việt Nam và bao quát 
các đặc thù kiểm toán như: Xây dựng và ban hành 
hướng dẫn khung; xây dựng và ban hành sổ tay 
kiểm toán dựa trên kinh nghiệm của chính KTNN 
chuyên ngành VI và kinh nghiệm kiểm toán của 
các đơn vị trong ngành để áp dụng trong quá trình 
kiểm toán; ban hành mẫu biểu, báo cáo kiểm toán 
riêng phù hợp với đặc thù của kiểm toán đánh giá 
hiệu quả đầu tư.
Thứ ba, Xây dựng đội ngũ KTV thực hiện kiểm 
toán đầu tư xây dựng tại KTNN chuyên ngành VI 
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ và phát triển phù 
hợp với nhịp độ và xu hướng phát triển của KTNN, 
đòi hỏi cao về trình độ chuyên môn nghiệp vụ của 
KTV. Tạo điều kiện cho cán bộ duy trì và nâng cao 
trình độ chuyên môn nghiệp vụ thông qua việc 
đào tạo và bồi dưỡng một cách liên tục cả trong và 
ngoài nước, cả lý luận và thực tiễn kiểm toán; cử 
cán bộ đi đào tạo (các lớp ngắn hạn để học hỏi kinh 
nghiệm, tổng kết áp dụng ngay; các lớp dài hạn để 
có đội ngũ KTV được đào tạo cơ bản về kiểm toán 
hoạt động nhằm phát triển một cách bền vững); tổ 
chức hội thảo để trao đổi học tập kinh nghiệm...
Thứ tư, Xây dựng hệ thống dữ liệu cung cấp 
thông tin cho hoạt động kiểm toán nói chung và 
cho hoạt động kiểm toán đầu tư xây dựng trong 
DNNN nói riêng.
Thứ năm, Tăng cường mối quan hệ với các đơn 
vị trong và ngoài ngành để cuộc kiểm toán được 
thực hiện dựa trên thông tin được tổng hợp toàn 
diện và đầy đủ; đồng thời để đảm bảo chất lượng 
cho bằng chứng kiểm toán, báo cáo kiểm toán thì 
kết quả kiểm toán của các đơn vị trong Ngành cần 
được cập nhật để có đánh giá tổng quan nhất; đảm 
bảo tính khả thi, thực hiện thuận lợi và thống nhất.
Thứ sáu, Lãnh đạo KTNN chuyên ngành VI, 
Trưởng các đoàn kiểm toán cần hiểu biết cụ thể 
về kinh nghiệm, sở trường của từng KTV để phân 
công phù hợp; phán đoán hoặc dự kiến những 
vướng mắc phát sinh để kịp thời định hướng hoặc 
có biện pháp giải quyết hợp lý.
Thứ bảy, Cần tạo mối quan hệ đúng mực với 
các tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp trong phạm vi 
trách nhiệm để thực hiện cuộc kiểm toán đạt được 
chất lượng và hiệu quả cao nhất.
Thứ tám, Xác định thứ tự ưu tiên cho các nội 
dung, tiêu chí phải thực hiện cho từng cuộc kiểm 
toán tương ứng với đặc thù hoạt động đầu tư từng 
doanh nghiệp và dự kiến biện pháp thực hiện phù 
hợp với hoàn cảnh cụ thể.
Thứ chín, Hướng dẫn, tập huấn tạo động lực 
thúc đẩy việc học tập, nghiên cứu, tìm hiểu nghiệp 
vụ, đặc thù đầu tư các doanh nghiệp và các lĩnh vực 
đầu tư chính của các Tập đoàn, Tổng công ty cho 
đội ngũ KTV.
Ngày nhận bài: 24/7/2018
Ngày duyệt đăng: 31/7/2018
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Báo cáo kiểm toán, Kế hoạch kiểm toán các 
năm 2014, 2015, 2016 do Kiểm toán nhà 
nước chuyên ngành VI thực hiện;
2. Chiến lược phát triển KTNN đến năm 2020 - 
Nghị quyết số 927/2010/UBTVQH12 Quốc 
hội khóa 12;
3. Chuẩn mực KTNN số 300 - Các nguyên tắc 
cơ bản của kiểm toán hoạt động; Chuẩn 
mực KTNN số 3000 - Hướng dẫn kiểm toán 
hoạt động;
4. Khái niệm, phân loại về hiệu quả kinh doanh 
– Chu Huy Phương – Thư viện Học liệu Mở 
Việt Nam (VOER);
5. Luật Kiểm toán nhà nước sửa đổi năm 2015;
6. Quy trình kiểm toán Dự án đầu tư xây dựng 
công trình ban hành kèm theo Quyết định 
số 02/2017/QĐ-KTNN ngày 13/3/2017.

File đính kèm:

  • pdfxac_dinh_cac_tieu_chi_danh_gia_hieu_qua_dau_tu_xay_dung_tron.pdf