Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh

ABSTRACT

In the current market economy, especially

in the context of globalization, integration,

opening up, social degradation and a large

number of cadres and party members in our

country have become serious. Individualism,

selishness, opportunities are doing many

people fall into the state of degeneration,

corruption, even offenses are harming the

prestige and reputation of the Party and the

State, hurt Harms the interests of society,

causing discontent among the people,

undermining people’s belief in the regime.

Therefore, the proper determination of the role

and quality of the contingent of cadres in our

country in order to work out suitable solutions

in order to build up a suficiently qualiied

staff to implement the strategy. Party cadres

in the period of accelerated industrialization

and modernization are urgent.

pdf 11 trang yennguyen 6780
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh

Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế theo tư tưởng Hồ Chí Minh
104
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
TÓM TẮT
Trong ǹn kinh t́ tḥ trường hịn nay, 
nhất l̀ trong b́i c̉nh tòn c̀u hó, ḥi nḥp, 
mở cửa, tình tṛng suy thói đ̣o đ́c xã ḥi 
v̀ trong ṃt ḅ pḥn không nh̉ ćn ḅ, đ̉ng 
viên ở nước ta đã trở nên nghiêm tṛng. Ch̉ 
nghĩa ć nhân vụ lợi, ṿ kỷ, thói cơ ḥi đang 
l̀m không ́t người rơi v̀o tình tṛng thói 
hó, hư h̉ng, tḥm ch́ pḥm ṭi đang l̀m tổn 
ḥi đ́n uy t́n, thanh danh c̉a Đ̉ng v̀ Nh̀ 
nước, l̀m tổn ḥi tới lợi ́ch c̉a xã ḥi, gây 
nỗi bất bình trong nhân dân, l̀m suy gỉm 
nìm tin c̉a nhân dân đ́i với ch́ đ̣. Do ṿy, 
vịc x́c đ̣nh đúng đắn vai trò v̀ chất lượng 
c̉a đ̣i ngũ ćn ḅ ở nước ta, đ̉ đ̀ ra những 
gỉi ph́p phù hợp nhằm quýt tâm xây ḍng 
ṃt đ̣i ngũ ćn ḅ đ̉ đ́c, đ̉ t̀i, tḥc hịn 
chín lược ćn ḅ c̉a Đ̉ng trong thời kỳ đ̉y 
ṃnh công nghịp hóa, hịn đ̣i hóa đang l̀ 
yêu c̀u cấp thít. 
 Từ khóa: xây dựng, cán bộ, công 
chức, công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội 
nhập quốc tế, Tư tưởng Hồ Chí Minh.
XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC VIỆT NAM 
TRONG THỜI KỲ Đ̉Y MẠNH CÔNG NGHIỆP HÓA, 
HIỆN ĐẠI HÓA VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ THEO 
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
 Nguyễn Khánh Vân*
BUILDING TEAMS OF VIETNAMESE CIVIL WORKERS IN THE INDUSTRY, 
MODERNIZATION AND INTEGRATION INTERNATIONAL INTEGRATION 
BY THE PRESIDENT OF HO CHI MINH
ABSTRACT
In the current market economy, especially 
in the context of globalization, integration, 
opening up, social degradation and a large 
number of cadres and party members in our 
country have become serious. Individualism, 
selishness, opportunities are doing many 
people fall into the state of degeneration, 
corruption, even offenses are harming the 
prestige and reputation of the Party and the 
State, hurt Harms the interests of society, 
causing discontent among the people, 
undermining people’s belief in the regime. 
Therefore, the proper determination of the role 
and quality of the contingent of cadres in our 
country in order to work out suitable solutions 
in order to build up a suficiently qualiied 
staff to implement the strategy. Party cadres 
in the period of accelerated industrialization 
and modernization are urgent.
Keywords: construction, cadres, civil 
servants, industrialization, modernization, 
international integration, Ho Chi Minh 
Thought
* TS. GV. Trường Đ̣i ḥc Kinh t́ th̀nh ph́ Hồ Ch́ Minh
105
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, tư 
tưởng về cán bộ là nội dung chủ yếu, cốt l̃i 
và tṛc tiếp trong tư tưởng của Người về vấn 
đề con người, về “chiến lược trồng người”. Hồ 
Chí Minh nhắc lại một triết lý vốn có trong di 
sản của các nhà tư tưởng phương Đông bằng 
một hình thức diễn đạt giản dị mà sâu sắc:
Vì lợi ́ch mười nĕm thì ph̉i trồng cây
Vì lợi ́ch trĕm nĕm thì ph̉i trồng người
“Trồng người” nói ở đây là hàm ý giáo 
dục, giáo dưỡng, vun trồng, rèn luyện, nói 
tóm lại là phải đào luyện công phu. Quá trình 
đào tạo con người, nhất là đào tạo cán bộ cách 
mạng theo Hồ Chí Minh là phải hết sức công 
phu, tỷ m̉, cẩn thận như một người làm vườn, 
lo đất, lo giống, lại phải chĕm sóc hàng ngày, 
phòng trừ sâu bệnh, thì cây mới xanh tốt, mới 
có ngày đơm hoa kết trái. Với con người cũng 
vậy. Đó là công phu giáo dục với tất cả khoa 
học và nghệ thuật mà nhà giáo dục tác động 
tới con người để tạo nên tính cách, nhân cách 
làm người. Đó là một quá trình vĕn hoá, tu 
dưỡng vĕn hoá, đặc biệt là vĕn hoá đạo đức.
Chính vì thế, quan tâm tới cán bộ và công 
tác cán bộ, Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu vấn 
đề đạo đức cách mạng, lấy đức làm gốc, là 
quan trọng nhất. Trong tác phẩm “Đường cách 
mệnh”, nĕm 1927, một tác phẩm lý luận, tập 
hợp những bài giảng lý luận về cách mạng, 
nhằm truyền bá, giác ngộ chủ nghĩa Mác – 
Lênin cho lớp cán bộ đầu tiên của Đảng, những 
hạt giống của phong trảo cách mạng, Nguyễn 
Ái Quốc đặt vấn đề đầu tiên là “Tư cách của 
người cách mệnh”. Đó là là vấn đề đạo đức và 
rộng hơn là nhân cách. Tác phẩm cuối cùng, 
viết trước khi qua đời, Hồ Chí Minh vẫn tiếp 
tục chủ đề đạo đức của cán bộ đảng viên. Đó là 
bài báo nổi tiếng của Người vào tháng 7 nĕm 
1969 đĕng trên báo Đảng “Ra sức rèn luyện, 
tu dưỡng đạo đức cách mạng, kiên quyết đánh 
bại chủ nghĩa cá nhân”. Đủ thấy vấn đề đạo đức 
được Người chú trọng như thế nào, nó là gốc rễ, 
nền tảng sâu xa mà cũng là động ḷc thúc đẩy 
người cách mạng hành động, chiến đấu, hy sinh 
đến cùng cho lý tưởng, mục tiêu cộng sản chủ 
nghĩa. Đó là nhân tố tinh thần quan trọng nhất 
đảm bảo cho cách mạng thành công.
Cán bộ được đề cập tới trong quan niệm, 
trong tác phẩm của Hồ Chí Minh là nằm ở vị 
trí trung tâm của tư tưởng về con người, về 
đạo đức làm người. Đó là tư tưởng triết học và 
triết lý đạo đức của Hồ Chí Minh. Mặt khác, tư 
tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ còn thể hiện rất 
sâu sắc trong tư tưởng của Người về đạo đức, 
về chính trị, được Hồ Chí Minh nâng lên thành 
vĕn hoá đạo đức, vĕn hoá chính trị mà Người 
rất chú trọng rèn luyện cán bộ, bằng cách tḥc 
hành các công việc tḥc tế. Người đặc biệt chú 
trọng tới vấn đề này trong đội ngũ cán bộ đảng 
viên với tư cách là cán bộ của dân, của đoàn 
thể, của chính quyền.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về cán bộ còn 
được Người đề cập tới trong hoạt động lãnh 
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, trong 
tham gia xây ḍng Đảng và chính quyền của 
các đoàn thể quần chúng, trong quan hệ với 
dân, với quần chúng nhân dân.
Người bàn về cán bộ với tư cách cá nhân – 
một con người cũng như với tư cách là cả một 
đội ngũ, một ḷc lượng để gây ḍng phong 
trào, để tập hợp quần chúng, giáo dục, tuyên 
truyền, vận động quần chúng làm cách mạng. 
Như thế, Hồ Chí Minh đã gắn liền cán bộ với 
quần chúng, với phong trào cách mạng của 
quần chúng, nhất là trong công tác Dân vận 
và tḥc hiện đại đoàn kết các dân tộc, các tôn 
giáo, đoàn kết trong Đảng và trong dân.
Hồ Chí Minh đồng thời gắn liền cán bộ 
với chính sách cán bộ. Không có chính sách 
cán bộ đúng đắn, hợp lý, công bằng và công 
minh thì cũng không thể có cán bộ tốt. Có thể 
106
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
nhận thấy rằng, trên vấn đề cán bộ và chính 
sách cán bộ, Hồ Chí Minh đã có một cách nhìn 
toàn diện và hệ thống, bám sát tḥc tiễn, đứng 
trên quan điểm “ Động” chứ không “Tĩnh”, 
tức là luôn đổi mới và hướng tới phát triển. 
Người thể hiện sâu sắc nĕng ḷc tư duy biện 
chứng, lý luận gắn liền với tḥc tiễn, chú trọng 
đồng bộ tất cả các giải pháp: giáo dục, đào tạo, 
bồi dưỡng, phát hiện, bố trí, sử dụng, đãi ngộ, 
kiểm tra, đánh giá, thuyết phục, động viên, cổ 
vũ, khích lệ Chính điều này cho thấy, cần 
thiết phải đi sâu nghiên cứu tìm hiểu để phát 
hiện ra hệ quan điểm, hệ chính sách mà Người 
áp dụng đối với cán bộ và đội ngũ cán bộ. Nói 
một cách khác, vấn đề cán bộ và chính sách 
cán bộ trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể 
hiện trên hai bình diện thống nhất hữu cơ với 
nhau, lý luận và tḥc tiễn.
Về lý luận, Hồ Chí Minh đề cập tới cán 
bộ và chính sách cán bộ từ góc nhìn triết học 
về con người và triết học về xã hội, bao quát 
lý luận về đạo đức, nhân cách, vĕn hoá, chính 
trị và đường lối chính trị hướng tới tiến bộ và 
phát triển để tḥc hiện mục tiêu độc lập dân 
tộc và chủ nghĩa xã hội.
Về tḥc tiễn, Hồ Chí Minh đặc biệt đề cao 
yêu cầu về tổ chức, quản lý, tìm tòi những tác 
nhân tạo động ḷc cho cán bộ phát triển, hoàn 
thiện và những tác nhân phòng tránh, ngĕn 
chặn, đẩy lùi các ḷc cản, những nguy cơ làm 
suy yếu tổ chức, làm thoái hoá, hư hỏng cán 
bộ.
Toát lên trong toàn bộ các vấn đề Hồ Chí 
Minh đề cập tới về cán bộ và chính sách cán 
bộ từ tư tưởng tôn trọng nhân cách con người, 
là niềm tin cậy ở con người, là tinh thần dân 
chủ và công bằng trong chính sách và biện 
pháp dùng người. Chính điều này thể hiện bản 
chất tư tuởng Hồ Chí Minh. Đó là bản chất 
khoa học- cách mạng và nhân vĕn, là đổi mới 
– sáng tạo và phát triển.
Giá trị sâu sắc và ý nghĩa to lớn đó của 
tư tưởng Hồ Chí Minh, trong đó có tư tưởng 
về cán bộ và chính sách cán bộ cần phải được 
nhận thức cho đúng để vận dụng sáng tạo trong 
tḥc tiễn đổi mới hiện nay ở nước ta.
Vậy cán bộ là gì? có những vấn đề gì đặt 
ra trong nội dung công tác cán bộ, chiến lược 
và chính sách cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí 
Minh?
Chúng ta thường gặp trong các tài liệu, 
sách báo khoa học và trong các vĕn kiện chính 
thức của Đảng và Nhà nước các khái niệm như 
cán bộ và cán bộ, đảng viên, cán bộ và công 
chức hay gọi chung là công nhân viên chức. 
Cũng có khi từ một khái niệm chung là “cán 
bộ” lại cụ thể hoá thành “cán bộ lãnh đạo và 
quản lý”, “cán bộ chuyên môn nghiệp vụ”, 
“cán bộ trung cao cấp”, “cán bộ Đảng”, “cán 
bộ khoa học kỹ thuật”. Có những lĩnh ṿc hoạt 
động đặc thù có quy mô quốc gia nên còn có 
những khu biệt khác nữa trong phân loại về 
cán bộ như cán bộ chính trị, cán bộ kinh tế, 
cán bộ vĕn hoá, cán bộ quân ṣ, an ninh và cán 
bộ ngoại giao.
Ở nước ta, công tác cán bộ đi liền với với 
công tác tổ chức, việc sắp xếp hệ thống tổ 
chức bộ máy phải đồng thời với việc bố trí cán 
bộ sao cho tương thích với yêu cầu hoạt động 
mà tổ chức bộ máy đặt ra. Do đó công tác tổ 
chức cán bộ và cơ quan chuyên môn làm công 
tác tác đó thường gắn liền nhau không thể tách 
rời. Ở các nước, lĩnh ṿc này được gọi là cơ 
quan nhân ṣ hay quản lý nguồn nhân ḷc.
Như vậy, cán bộ là một khái niệm có nhiều 
hàm nghĩa. Dù có rất nhiều điểm khác biệt đặc 
thù giữa các loại cán bộ trong cơ cấu và trong 
loại hình nhưng trong quan niệm về cán bộ, tức 
là để trả lời câu hỏi “cán bộ là gì?”, “Những ai 
được gọi là cán bộ?”, “cán bộ phải có những 
tiêu chuẩn gì, đáp ứng những yêu cầu như thế 
nào ?” thì cần phải thấy được những nhận thức 
107
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
chung, dù điều này cũng có tính tương đối. Sở 
dĩ là tương đối vì mỗi chế độ xã hội, mỗi mô 
hình thể chế có những quan niệm khác nhau 
và cách thức giải quyết khác nhau về cán bộ. 
Cũng như vậy, khi tḥc tiễn biến đổi, cách 
mạng chuyển sang một giai đoạn mới hay 
đứng trước một thời kỳ phát triển mới, tình 
hình nhiệm vụ thay đổi thì yêu cầu đối với cán 
bộ, tiêu chuẩn cán bộ và chính sách cán bộ 
cũng thay đổi theo cho thích hợp.
Hãy lấy một ví dụ từ tḥc tiễn cách mạng 
nước ta thì đủ r̃.
Thời kỳ cách mạng dân tộc dân chủ, trước 
yêu cầu đánh đổ đế quốc tḥc dân phong kiến, 
giành chính quyền về tay nhân dân, vì mục 
tiêu độc lập dân tộc, cách mạng đòi hỏi ở cán 
bộ lòng dũng cảm, trung kiên, chịu đ̣ng hy 
sinh gian khổ, vào tù ra tội, thậm chí phải hy 
sinh cả tính mạng của mình. Vào lúc đó, nhiệt 
tình cách mạng, lòng dũng cảm và đức hy sinh 
quên mình là tất cả. Đó là phẩm chất và nĕng 
ḷc cán bộ của thời kỳ chiến tranh giải phóng.
Khi đất nước chuyển từ chiến tranh sang 
hoà bình, đất nước đi vào xây ḍng, kiến thiết 
kinh tế và vĕn hoá, chĕm lo cuộc sống cho dân 
ngày một tốt hơn thì cách mạng đòi hỏi cán 
bộ phải có kiến thức học vấn, chuyên môn, 
nghiệp vụ, phải chuyển kịp tư duy, phương 
pháp và phong cách công tác cho thích hợp 
với yêu cầu quản lý xã hội một cách khoa học 
chứ không ch̉ có nhiệt tình và lòng dũng cảm 
là đủ.
Và ngày nay, khi công cuộc đổi mới đang 
đi vào chiều sâu, đang đòi hỏi có những đột 
phá mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở 
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, 
đủ sức để hội nhập quốc tế. Trong nền kinh 
tế thị trường, tiến tới kinh tế tri thức, đội ngũ 
cán bộ, bất kể ở cương vị, chức vụ nào, làm 
việc gì, trong lĩnh ṿc nào cũng phải có trình 
độ học vấn, cập nhật được thông tin mới, hiện 
đại, có tư duy sáng tạo để không rơi vào lạc 
hậu, tụt hậu, lại phải có đạo đức và bản lĩnh 
chính trị để không thoái hoá biến chất, chệch 
hướng xã hội chủ nghĩa và rơi vào nguy cơ 
diễn biến hoà bình và ṭ diễn biến hoà bình.
Thời kỳ này đòi hỏi mọi người dân, trước 
hết là cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt phải 
không ngừng học tập, rèn luyện, phải đủ ý chí, 
bản lĩnh chiến thắng chủ nghĩa cá nhân. Chính 
vì thế, Lênin luôn nhấn mạnh: thế hệ trẻ, các 
cán bộ thanh niên cộng sản phải thấm nhuần 
nhiệm vụ của mình là Học tập chủ nghĩa cộng 
sản. Người đề ra quan niệm “Học, học nữa, 
học mãi”. Hồ Chí Minh cũng như vậy. Người 
đòi hỏi cán bộ phải suốt đời nâng cao đạo đức 
và nĕng ḷc, đức và tài phải đi liền nhau mà 
đức là gốc. Vấn đề cán bộ và công tác cán 
bộ, cũng như nhiều vấn đề khác của xã hội, 
để nhận thức và xử lý nó một cách đúng đắn 
phải xuất phát từ tḥc tiễn, phải có quan điểm 
lịch sử cụ thể, nói như Lênin “Phân tích cụ thể 
một tình hình cụ thể”. Ứng dụng nguyên tắc 
phương pháp luận này vào việc xem xét cán 
bộ, có thể thấy:
Th́ nhất, cán bộ là một khái niệm dùng 
trong khoa học chính trị, khoa học quản lý 
cũng như trong nhiều khoa học xã hội khác về 
con nguời, để ch̉ người làm việc, hoạt động 
trong một lĩnh ṿc nhất định của nhà nước, 
của chế độ chính trị – xã hội, tṛc tiếp ở trong 
một cơ quan nhất định, có nghề chuyên môn, 
được nhà nước trả lương theo ngạch bậc và 
có giữ một chức vụ hay được giao một trọng 
trách nào đó. Như vậy, cán bộ được nhận diện 
ở vị thế là công chức, viên chức, ở chức vụ 
lãnh đạo hay quản lý, là người được uỷ quyền 
và có thẩm quyền nhất định.
Theo cách hiểu và cách tiếp cận này thì cán 
bộ có nghĩa rộng và nghĩa hẹp của nó. Theo 
nghĩa rộng, tất cả các công chức nhà nước, các 
công chức trong cơ quan nhà nước hay các cơ 
108
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
quan Đảng, đoàn thể đều gọi chung là cán 
bộ. 
Trong số cán bộ rất đông đảo này, ai được 
cử, được giao chức vụ nào đó thì gọi là cán bộ 
lãnh đạo để phân biệt với cán bộ công chức 
không giữ chức vụ, ch̉ làm chuyên môn. Theo 
nghĩa hẹp, cán bộ ch̉ dùng để ch̉ người có 
chức vụ. Giữ các chức vụ cao, có thẩm quyền 
và vai trò lớn trong một tổ chức, cơ quan thì 
gọi là cán bộ chủ chốt.
Th́ hai, cơ cấu và loại hình cán bộ ở nước 
ta rất đa dạng, hợp thành đội ngũ cán bộ, trong 
đó có các cán bộ trong hệ thống chính trị ở 
tất cả các cấp, từ trung ương tới cơ sở. Đây là 
những cán bộ chính trị và những cán bộ quản 
lý hoặc chuyên môn. Ngoài ra còn có cán bộ 
trong các đoàn thể chính trị – xã hội từ Mặt 
trận đến các tổ chức thành viên của Mặt trận. 
Nhìn chung, đây là cán bộ làm công tác xã 
hội, vận động quần chúng, trong các thiết chế 
quyền ḷc ngoài nhà nước. 
Điều đáng lưu ý là ở chỗ, nước ta mang 
đặc điểm là một quốc gia đa dân tộc và đa tôn 
giáo. Xã hội ta đang là một xã hội quá độ tới 
chủ nghĩa xã hội, trải qua những cuộc chiến 
tranh kéo dài và hiện nay đang diễn ra những 
thay đổi sâu sắc về cơ cấu kinh tế, cơ chế quản 
lý cũng như mô hình phát triển.
Những đặc điểm ấy cho thấy, đội ngũ cán 
bộ nước ta rất đa dạng về thành phần xã hội, 
dân tộc, tôn giáo, đa dạng cả về trình độ và 
tính chất: số đông cán bộ có trình độ học vấn 
trung học, đại học và sau đại học nhưng vẫn 
còn không ít cán bộ còn ở trình độ thấp, có cán 
bộ chuyên nghiệp, chuyên trách mà cũng có 
cán bộ không chuyên nghiệp, họ tham gia các 
công việc và giữ các chức vụ mang tính kiêm 
nhiệm, còn chủ yếu vấn là người hành nghề 
chuyên môn theo đào tạo. 
Có cán ... ḥc chất là đòi hỏi ở người cán bộ và đội ngũ 
cán bộ nói chung phải tḥc ṣ xứng đáng là 
cán bộ của dân, tận tuỵ phục vụ nhân dân, coi 
đó là lẽ sống, lý tưởng sống của mình, là ṣ 
phục tùng chân lý cao nhất. R̃ ràng là, Người 
đã đứng trên quan điểm nhân dân, vì dân, tất 
cả vì quyền làm chủ và hạnh phúc của dân mà 
đặt ra yêu cầu đối với cán bộ, vạch ra đường 
lối, chính sách cán bộ, dồn rất nhiều nỗ ḷc và 
tinh ḷc vào công tác đào tạo, giáo dục, huấn 
luyện cán bộ .
Những tư tưởng nêu trên của Hồ Chí Minh 
đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đó cũng là 
cơ sở để xây ḍng một chiến lược cán bộ của 
Đảng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế hiện nay. 
2. THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ 
CÁN BỘ VÀ CÔNG TÁC CÁN BỘ Ở NƯỚC TA
 Trải qua tḥc tiễn đổi mới, đội ngũ cán 
bộ Đảng, chính quyền, Mặt trận và các đoàn 
thể trong hệ thống chính trị ở nước ta đã có 
bước trưởng thành r̃ rệt về nhiều phương 
diện, đã góp phần quan trọng và quyết định 
vào việc tạo ra những thành ṭu to lớn, có ý 
nghĩa lịch sử của đổi mới. Chính sách cán bộ 
của Đảng và Nhà nước cũng có những đổi mới 
về nhận thức và nội dung, về tổ chức tḥc hiện 
để tạo động ḷc thúc đẩy đổi mới kinh tế và 
đổi mới chính trị.
Có thể khái quát những chuyển biến tích 
c̣c và thành ṭu đạt được của đội ngũ cán bộ 
ở nước ta như sau:
- Đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức nhà 
nước và cán bộ các đoàn thể trong hệ thống 
chính trị đã được xây ḍng ngày càng tĕng 
v̀ ś lượng, đồng bộ hơn về cơ cấu và ngày 
càng được trẻ hó, được đ̀o ṭo cơ b̉n v̀ 
tòn dịn. Các chức danh của đội ngũ cán bộ 
công chức cũng ngày một phong phú. Đội ngũ 
cán bộ công chức ở nước ta ngày càng được 
chuyên môn hoá, kết hợp đào tạo và bồi dưỡng 
để tiến tới tiêu chuẩn hoá theo hướng hiện đại, 
làm cho vai trò của đội ngũ cán bộ công chức 
tỷ lệ thuận với vai trò của nhà nước và hệ thống 
chính trị.Trong tiến trình đổi mới, cán bộ công 
chức nước ta được rèn luyện trong tḥc tiễn, 
thay đổi tư duy nhận thức, dần dần thích ứng 
với kinh tế thị trường, từng bước vươn lên để 
đáp ứng những đòi hỏi của yêu cầu mới, đẩy 
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 
- Đảng và Nhà nước có ṣ quan tâm ngày 
càng đầy đủ, cụ thể và thiết tḥc đối với cán 
bộ công chức. Các nghị quyết của Đảng về 
xây ḍng đội ngũ cán bộ và đổi mới chính 
sách cán bộ, các vĕn bản, đạo luật của nhà 
nước, đặc biệt là pháp lệnh cán bộ công chức 
và nghị định của chính phủ đã phát huy tác 
dụng trong tḥc tế trên các mặt: tĕng cường 
giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ công 
chức, nâng cao trình độ lý luận, chuyên môn, 
nghiệp vụ, chú trọng bồi dưỡng các kiến thức 
quản lý nhà nước, kiến thức ngoại ngữ, tin học 
giúp cho cán bộ có điều kiện và khả nĕng làm 
tốt các nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó, công 
tác giáo dục đạo đức, các cuộc vận động học 
tập và làm theo gương sáng đạo đức Hồ Chí 
Minh được đẩy mạnh trong phạm vi cả nước, 
nhất là từ khi Đảng và Nhà nước ban hành 
quy chế dân chủ ở cơ sở, đã làm cho cán bộ 
đảng viên, công chức có chuyển biến tốt hơn 
về ý thức trách nhiệm, về tôn trọng và lắng 
nghe ý kiến của quần chúng, củng cố mối liên 
hệ mật thiết với nhân dân, tḥc hiện phương 
châm công tác gần dân, trọng dân, hiểu dân, 
tin dân. 
111
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
- Chủ trương và chính sách luân chuyển 
cán bộ được tḥc hiện ở trung ương và các 
địa phương, kể cả ở cấp cơ sở đã góp phần rèn 
luyện cán bộ trong môi trường tḥc tiễn, giúp 
cho cán bộ trưởng thành, từ đó mà ḷa chọn, 
bố trí cán bộ vào các công việc thích hợp, ḷa 
chọn được những cán bộ tḥc ṣ có đủ phẩm 
chất và nĕng ḷc để bổ nhiệm, đề bạt vào các 
cương vị chủ chốt.
- Hiện nay, ở nước ta đã hình thành cơ 
cấu nhìu th́ ḥ trong đội ngũ cán bộ, công 
chức, từ các cấp các ngành, ở trung ương, địa 
phương và cơ sở. Bên cạnh lớp cán bộ được 
đào tạo, rèn luyện và trưởng thành trong kháng 
chiến chống Pháp, chống Mỹ và xây ḍng chủ 
nghĩa xã hội trước đây, một bộ phận được đào 
tạo, rèn luyện, trưởng thành từ sau giải phóng 
miền Nam, trong xây ḍng chủ nghĩa xã hội 
trên phạm vi cả nước, nhất là trong tḥc tiễn 
30 nĕm đổi mới. Các thế hệ cán bộ ở nước ta 
đã có ṣ kế thừa và phát triển lẫn nhau, bổ 
sung cho nhau để phát huy mặt tích c̣c và 
khắc phục những mặt còn hạn chế. Trong đội 
ngũ cán bộ ở nước ta, có không ít những gương 
điển hình về cán bộ đảng viên tận tuỵ và liêm 
khiết, phát huy được vai trò tiên phong gương 
mẫu trong công tác và lối sống, được quần 
chúng nhân dân tín nhiệm. Đánh giá chung về 
chất lượng đội ngũ cán bộ, Đảng ta đã nhấn 
mạnh: “Đa số cán bộ đảng viên phát huy được 
vai trò tiên phong, nĕng động, sáng tạo trong 
công tác, lao động, rèn luyện phẩm chất, nĕng 
ḷc, có bước trưởng thành, đóng vai trò nòng 
cốt trong công cuộc đổi mới, góp phần xứng 
đáng vào thành quả chung của ṣ nghiệp xây 
ḍng và bảo vệ tổ quốc”1.
Về công tác cán bộ cũng có một số đổi 
mới về mặt ṇi dung và ćch l̀m. Đã giữ 
vững và tḥc hiện quan điểm Đảng thống nhất 
1 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2005, tr.261.
lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ 
cán bộ, tḥc hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung 
dân chủ, coi trọng hơn việc phát huy vai trò, 
trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống 
chính trị và người đứng đầu các tổ chức, bước 
đầu tḥc hiện việc tổ chức cho nhân dân tham 
gia ý kiến vào công tác cán bộ, nhất là ở cơ 
sở 22. Tổng kết 30 nĕm đổi mới, Đảng ta đặc 
biệt nhấn mạnh tới bài học về cán bộ, công 
tác tổ chức cán bộ và chính sách cán bộ. Đó 
là: “Đảng tập trung lãnh đạo về đường lối, chủ 
trương, xây ḍng tiêu chí, tiêu chuẩn, cơ chế, 
chính sách về cán bộ, công chức. Đẩy mạnh 
dân chủ hóa công tác cán bộ”; “Tập trung 
xây ḍng đội ngũ cán bộ, nhất là đội ngũ cán 
bộ cấp chiến lược, đủ nĕng ḷc và phẩm chất, 
ngang tầm nhiệm vụ. Có cơ chế, chính sách 
phát hiện, thu hút, trọng dụng nhân tài 3.
Cùng với những chuyển biến tích c̣c và 
thành ṭu đạt được, chất lượng đội ngũ cán bộ 
và hiệu quả việc tḥc hiện chính sách cán bộ ở 
nước ta cũng còn có những hạn chế, yếu kém 
và bất cập, kể cả những vấn đề phát sinh trong 
điều kiện kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập, 
cần phải tập trung giải quyết. Đó là:
- Một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, 
kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém 
cả về phẩm chất và nĕng ḷc; thiếu tính chiến 
đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối 
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, 
giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng, một số 
ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và 
làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, 
vi phạm nguyên tắc tổ chức và hoạt động của 
Đảng, vi phạm pháp luật nhà nước 4.
- Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một 
2 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H.2005, tr.267.
3 ĐCSVN: Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ 
XII, Nxb,CTQG, H.2016, Tr.180, 206-207.
4 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ X. Nxb. CTQG, H.2005, tr .263-264.
112
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
bộ phận cán bộ đảng viên có chiều hướng gia 
tĕng, vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy 
quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái 
hoá biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo 
đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng 
phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không 
nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, 
kéo dài chưa được ngĕn chặn, đẩy lùi làm 
giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Đó là 
một nguy cơ lớn liên quan đến ṣ sống còn của 
Đảng, của chế độ1 5.
- Do tác động mặt trái của kinh tế thị 
trường, hơn nữa do yếu kém của quản lý và do 
không thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện của 
cán bộ đảng viên, công chức mà mấy nĕm gần 
đây chủ nghĩa cá nhân vụ lợi, vị kỷ đã có chiều 
hướng gia tĕng, lối sống tôn thờ đồng tiền và 
các tiện nghi vật chất, hưởng lạc đã ảnh hưởng 
vào không ít cán bộ, làm vẩn đục các quan hệ 
xã hội, môi trường xã hội, làm lu mờ các giá trị 
đạo đức, vĕn hoá, dẫn tới những lệch lạc trong 
định hướng giá trị. Ṣ thiếu gương mẫu, lối 
sống buông thả của một số cán bộ, của những 
người lớn đã làm hư hỏng chính thế hệ trẻ, con 
em họ trong gia đình. Có nhiều biểu hiện lời 
nói không đi đôi với việc làm, nói mà không 
làm, làm không đến nơi đến chốn, thói cơ hội 
tuỳ thời trong chính trị còn đi liền với thói đạo 
đức giả, thói giả đạo đức. Đạo đức của cán bộ 
công chức bị suy giảm còn ảnh hưởng xấu tới 
đạo đức trong gia đình, nhà trường, cơ quan, 
xã hội. 
Từ tḥc trạng nêu trên về chất lượng đội 
ngũ cán bộ và công tác cán bộ, chúng tôi kiến 
nghị một số giải pháp sau:
Th́ nhất, cần phải tĕng cường gío dục 
nḥn th́c trong Đ̉ng v̀ trong ćc cơ quan 
Nh̀ nước, trong ćc đòn th̉ thục ḥ th́ng 
ch́nh tṛ về tầm quan trọng của công tác cán 
5 Đảng cộng sản Việt Nam, Vĕn kiện Đại hội đại biểu toàn 
quốc lần thứ X. Nxb. CTQG, H.2005, tr263-264
bộ, ý nghĩa chiến lược của vấn đề cán bộ và 
xây ḍng đội ngũ cán bộ theo tư tưởng Hồ Chí 
Minh trong thời kỳ phát triển mới của cách 
mạng nước ta. Làm cho mọi người nhận thức 
r̃ vai trò to lớn và có tính chất quyết định 
của cán bộ trong việc tḥc hiện triển khai các 
nhiệm vụ của đổi mới, thể hiện tập trung ở 
tḥc hiện Nghị quyết Đại hội XII của Đảng.
Chất lượng nguồn nhân ḷc của nước ta 
thể hiện trước hết ở chất lượng đội ngũ cán 
bộ, công chức, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý 
chủ chốt đến cán bộ chuyên môn nghiệp vụ, 
cán bộ khoa học kỹ thuật. Đội ngũ cán bộ này 
là nguồn nhân ḷc quan trọng nhất để tḥc 
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây ḍng 
Đảng, nhà nước pháp quyền và đổi mới hệ 
thống chính trị. Đây cũng chính là ḷc lượng 
to lớn để gây ḍng và thúc đẩy phong trào 
cách mạng, đưa đường lối, chủ trương, chính 
sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước tới quần 
chúng, tổ chức, tập hợp quần chúng tḥc hiện. 
Trong tình hình hiện nay, việc giáo dục 
nhận thức cho cán bộ và trong đội ngũ cán bộ 
ở nước ta phải đặc biệt chú trọng giáo dục về 
ý thức trách nhiệm đi liền với tôn trọng pháp 
luật. Nâng cao ý thức trách nhiệm của toàn 
Đảng, toàn dân trong việc đào tạo, giáo dục 
cán bộ đặc biệt là trách nhiệm của dân trong 
việc giám sát cán bộ, công chức về hoạt động, 
hành vi, lối sống, làm cho đội ngũ cán bộ trong 
sạch, phòng chống, ngĕn chặn ṣ thoái hoá, sa 
sút phẩm chất của cán bộ trong điều kiện Đảng 
cầm quyền và trong nền kinh tế thị trường, mở 
cửa, hội nhập quốc tế.
Th́ hai, Tḥc h̀nh ṛng rãi dân ch̉ trong 
Đ̉ng v̀ trong xã ḥi để vừa đảm bảo dân chủ 
và phát huy quyền làm chủ của dân vừa phát 
huy khả nĕng sáng tạo, tính tích c̣c, ṭ giác 
của cán bộ, tạo thành sức mạnh từ mối liên hệ 
mật thiết giữa cán bộ với quần chúng, nhờ đó 
mà nâng cao được hiệu quả hoạt động trong 
113
Xây dựng đội ngũ cán bộ ...
các lĩnh ṿc công tác. Điều thiết tḥc nhất là 
phòng chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí 
có hiệu quả. Một khi dân ủng hộ đường lối 
chính sách của Đảng và Nhà nước, một khi 
đội ngũ cán bộ được dân tín nhiệm, tin tưởng 
thì đó là cơ sở chắc chắn nhất đảm bảo cho ổn 
định và phát triển ở nước ta, cho thắng lợi của 
đổi mới.
Th́ ba, Tḥc h̀nh đ̣o đ́c ćch ṃng 
theo gương sáng Hồ Chí Minh trong đông đảo 
cán bộ đảng viên công chức và quần chúng 
nhân dân. Đây phải là việc làm thường xuyên, 
lâu d̀i, chú trong tḥc chất, hiệu quả, tác 
dụng, chống hình thức, phô trương, nhất là 
phải chú trọng vào việc làm, vào hành động 
tḥc tế chứ không phải lời nói. Tḥc hành đạo 
đức cách mạng theo gương sáng Hồ Chí Minh 
là một trong những biện pháp quan trọng làm 
cho Đảng trong sạch, nhà nước có hiệu ḷc 
trong quản lý, góp phần chấn hưng nền đạo 
đức xã hội đang suy thoái. Tḥc hành đạo đức 
cách mạng theo gương sáng Hồ Chí Minh thì 
sẽ tạo được sức mạnh đạo đức, tinh thần cho 
cuộc đấu tranh phòng chống tham nhũng có 
hiệu quả, Do đó, phải chú trọng nội dung công 
tác xây ḍng Đảng không ch̉ là chính trị, tư 
tưởng, tổ chức mà còn là đạo đức, lối sống. 
Phải đề cao đạo đức công chức, gắn liền với kỷ 
lụt công vụ trong các cơ quan nhà nước. Tận 
dụng mọi phương tiện thông tin đại chúng, 
khai thác những hình thức tuyên truyền, vận 
động, giáo dục đa dạng, phong phú, có tác 
dụng nâng cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, 
niềm tin và thúc đẩy hành động đối với đông 
đảo cán bộ đảng viên và quần chúng. Đây là 
cuộc vận động chính trị - xã hội rộng lớn và 
giáo dục vĕn hoá sâu sắc trong Đảng, trong 
dân. 
Th́ tư, Đẩy mạnh học tập, bồi dưỡng và 
nâng cao nĕng ḷc cho cán bộ đảng viên công 
chức trong tình hình hiện nay, khi kinh tế tri 
thức, xã hội học tập đang đặt ra những yêu cầu 
ngày một cao. Muốn vậy phải đẩy mạnh cải 
cách giáo dục, hiện đại hoá nội dung và đổi 
mới phương pháp giáo dục, chú trọng nâng 
cao nĕng ḷc, trình độ tư duy để phát triển trí 
tuệ, đề cao tính sáng tạo, hình thành nhu cầu 
ṭ học, ṭ đào tạo để ṭ vươn lên. Phải chú 
trọng tḥc chất, hiệu quả, chống hình thức, giả 
dối, nhất là tình trạng thương mại hoá giáo dục 
hiện nay.
Th́ nĕm, Tận dụng nguồn nhân ḷc cán bộ 
hiện có, chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ 
cán bộ kế cận; phát huy nhiệt tình khả nĕng, 
ṣ cống hiến của mọi cán bộ, trong Đảng và 
ngoài Đảng, cán bộ lãnh đạo quản lý và cán bộ 
khoa học - kỹ thuật, chú trọng sử dụng, tin cậy, 
tôn vinh và đãi ngộ xứng đáng những nhân 
tài, hiền tài của đất nước. Đặc biệt chú trọng 
tới đội ngũ cán bộ nữ, cán bộ dân tộc thiểu 
số, tính cân đối hợp lý của phân bố ḷc lượng 
cán bộ ở các vùng, miền, các cấp, các ngành 
đảm bảo đủ nhân ḷc cho phát triển toàn diện 
kinh tế - vĕn hoá trong cả nước. 
3. KẾT LUẬN 
 Sau 30 nĕm đổi mới, Đảng và nhân dân 
ta đã giành được những thành ṭu to lớn về 
nhiều mặt, có ý nghĩa lịch sử. Thế và ḷc của 
cách mạng nước ta đã có những bước phát 
triển mới. Trong mỗi bước đường tiến lên của 
cách mạng, cán bộ có vai trò vô cùng to lớn và 
quan trọng.
Ngày nay, khi đi vào đổi mới, phát triển 
mạnh mẽ kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập 
quốc tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại 
hóa, nhiệm vụ mới, yêu cầu mới đang đặt ra 
cho đội ngũ cán bộ đảng viên, công chức ở 
nước ta những thử thách mới phải vượt qua, 
phải đủ sức tḥc hiện những nhiệm vụ khó 
khĕn, phức tạp, mởi mẻ để đưa nước ta trở 
thành một nước vĕn minh, hiện đại. Vận dụng 
114
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
đúng đắn, sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về 
cán bộ, quyết tâm xây ḍng một đội ngũ cán 
bộ đủ đức, đủ tài, đủ sức đánh bại chủ nghĩa 
cá nhân, làm đầy tớ, công bộc trung thành, tận 
tuỵ của dân - đó là nhân tố cơ bản đảm bảo cho 
thắng lợi của cách mạng nước ta.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Hồ Chí Minh, Tòn ṭp, 12Tập, Nxb. 
CTQG, H.1995, 1996, 2000
[2]. Nguyễn Thế Kiệt (chủ biên): Đạo đức 
người cán ḅ lãnh đ̣o ch́nh tṛ hịn nay. 
Nxb. CTQG, H.2005
[3]. Trần Thành (chủ biên): Tư duy lý lụn 
với họt đ̣ng c̉a người ćn ḅ lãnh đ̣o, ch̉ 
đ̣o tḥc tiễn. Nxb. CTQG, H.2003.
[4]. Vĕn kịn Đ̣i ḥi Đ̉ng l̀n th́ X. Nxb. 
CTQG, H.2006
[5]. Vĕn kịn Đ̣i ḥi Đ̉ng l̀n th́ XII. Nxb. 
CTQG, H.2016.

File đính kèm:

  • pdfxay_dung_doi_ngu_can_bo_cong_chuc_viet_nam_trong_thoi_ky_day.pdf