Biến quá trình giáo dục thành hoạt động giao tiếp

Tóm tắt

Văn hóa giao tiếp không chỉ là nội dung của giáo dục mà còn là hoạt động giáo dục của chính nó. Giáo

dục cần phải được xem xét như các hoạt động giao tiếp. Sự cởi mở, dân chủ và đối thoại hai chiều sẽ

đảm bảo sự thành công trong giáo dục. Giáo dục văn hóa giao tiếp là một trong những nội dung của

giáo dục và nó cũng là giải pháp hữu ích để đảm bảo hiệu quả của giáo dục.

pdf 6 trang yennguyen 7680
Bạn đang xem tài liệu "Biến quá trình giáo dục thành hoạt động giao tiếp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến quá trình giáo dục thành hoạt động giao tiếp

Biến quá trình giáo dục thành hoạt động giao tiếp
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 9 (34) - Thaùng 11/2015
39 
Biến quá trình giáo dục thành hoạt động giao tiếp 
Make an educational process a communication activity 
TS. Nguyễn Thị Kim Ngân 
Trường Đại học Sài Gòn 
Ph.D. Nguyen Thi Kim Ngan 
Sai Gon University 
Tóm tắt 
Văn hóa giao tiếp không chỉ là nội dung của giáo dục mà còn là hoạt động giáo dục của chính nó. Giáo 
dục cần phải được xem xét như các hoạt động giao tiếp. Sự cởi mở, dân chủ và đối thoại hai chiều sẽ 
đảm bảo sự thành công trong giáo dục. Giáo dục văn hóa giao tiếp là một trong những nội dung của 
giáo dục và nó cũng là giải pháp hữu ích để đảm bảo hiệu quả của giáo dục. 
Từ khóa: giao tiếp, giáo dục, trường học, thẩm mĩ, văn hóa 
Abstract 
Communication culture is not only the content of education but also an educational activity in itself. 
Education needs to be considered as an educational activity. The quality of openness, democracy and 
dynamic dialogue will ensure the success in education. Educating communication culture is one of the 
contents of education and it is also a useful means to ensure the effect of education. 
Keywords: communication, education, school, aesthetics, culture... 
Sự phát triển của con người gắn liền 
với hoạt động giao tiếp. Từ thủa bình minh 
sơ khai của nhân loại, giao tiếp bắt đầu từ 
những hình ảnh, âm thanh của tự nhiên như 
mưa gió, cây cối, cỏ hoa, phiến đá, bờ 
sông Tiếp sau đó là những cử chỉ thô sơ, 
những nét chữ tượng hình được khắc trên 
cây, trên đá. Khi con người biết sử dụng 
ngôn ngữ như một tín hiệu giao tiếp kết hợp 
với những hoạt động của tự thân, lúc ấy xã 
hội đã bước sang một thời kì khác, đó là 
thời kì có sự soi rọi của ánh sáng tri thức. 
Tri thức gắn liền với ý thức của con 
người. Ý thức là nguồn gốc cơ bản của sự 
hình thành, phát triển yếu tố “Người” trong 
con người, đồng thời là nguồn gốc của sự 
hình thành, phát triển văn hóa, là cái tạo 
nên “năng lực bản chất Người” (C.Mác). 
Văn hóa giao tiếp thể hiện trình độ 
phát triển, năng lực sống của con người. Ý 
thức con người càng cao, xã hội càng phát 
triển, quan hệ giao tiếp càng phức tạp. Văn 
hóa giao tiếp thể hiện ở năng lực giao tiếp 
và kĩ năng giao tiếp được hình thành trong 
quá trình phát triển xã hội. 
Nói đến văn hóa giao tiếp trong nhà 
trường là nói đến các mối quan hệ tiếp xúc, 
ứng xử trong môi trường học đường (của 
các đối tượng giao tiếp như GV-HS, GV-
GV, HS-HS, PH-GV). Như vậy, văn hóa 
giao tiếp trong nhà trường khá đa dạng về 
hình thức, về nội dung liên quan đến nhiều 
loại đối tượng ở môi trường học đường, 
liên quan đến các tình huống, hoàn cảnh cụ 
40 
thể. Giáo dục năng lực giao tiếp và văn hóa 
giao tiếp trong nhà trường là yêu cầu cấp 
bách, mang tính khách quan, gắn liền với 
sự phát triển của giáo dục và của xã hội. 
Khi nói đến giáo dục văn hóa giao tiếp 
trong nhà trường chúng ta thường nói về 
vấn đề làm sao, làm như thế nào để nâng 
cao tính văn hóa trong hoạt động giao tiếp 
của các đối tượng liên quan trong môi 
trường học đường, sao cho các hoạt động 
giao tiếp ấy có văn hóa hơn, tức là nâng 
cao tính ý thức trong giao tiếp, làm cho sự 
giao tiếp ấy đẹp hơn (đẹp về cử chỉ, tác 
phong, ngôn ngữ), làm sao để hoàn thiện 
kĩ năng giao tiếp tức là nâng trình độ giao 
tiếp lên mức độ thẩm mĩ (đẹp của hành vi, 
lời ăn tiếng nói). Đây là một vấn đề nóng 
bỏng đang thu hút sự quan tâm của xã hội. 
Nó không chỉ là cách thức xưng hô, chào 
hỏi, tác phong, hành động thể hiện trình 
độ văn hóa của con người, mà còn thể hiện 
những giá trị về đạo đức và thẫm mĩ của 
dân tộc (xưng hô thể hiện truyền thống tôn 
sư trọng đạo, kính trên nhường dưới). 
Tuy nhiên, khi nói đến giao tiếp chúng 
ta cần chú ý cả hai phương diện, giao tiếp 
bên ngoài (cử chỉ, ngôn phong, hành vi) 
và giao tiếp bên trong, gắn liền với đời 
sống tinh thần, tình cảm. Văn hóa giao tiếp 
thường được hiểu theo cách một (giao tiếp 
bên ngoài sao cho đẹp), vì vậy khi nói đến 
giáo dục văn hóa giao tiếp hầu như chúng 
ta chỉ nói về vấn đề này, ít người nói về 
vấn đề thứ hai (giao tiếp bên trong). Thực 
ra vấn đề thứ hai này rất quan trọng với 
giáo dục. Khái niệm văn hóa giao tiếp có 
thể có hai cách hiểu. Một là văn hóa giao 
tiếp được hiểu như tính chất văn hóa trong 
giao tiếp (đó là làm thế nào để giao tiếp có 
văn hóa, tức là vẻ đẹp của cách giao tiếp), 
hai là giao tiếp như là một lĩnh vực của văn 
hóa, như một hoạt động của con người, bao 
gồm tất cả các hoạt động, từ những giao 
tiếp đơn sơ (giao tiếp bên ngoài) đến 
những giao tiếp phức tạp hơn (giao tiếp 
bên trong). 
Bản chất của giao tiếp là trao đổi (hai 
hoặc nhiều người cùng đối thoại) thông tin, 
quan hệ giao lưu, ứng xử thông qua tiếp 
xúc giữa người với người, là một dạng hoạt 
động quan trọng của con người, là đối 
tượng mà nhiều ngành khoa học quan tâm 
nghiên cứu. 
Thông tin học xem đó là quá trình phát 
tin - nhận tin và xử lí thông tin (tính hai 
chiều) qua những hình thức, những phương 
tiện hay những kênh thông tin khác nhau. 
Tâm lí học nhìn nhận nó như quá trình tiếp 
xúc người - người, là hoạt động hình thành, 
phát triển và vận hành quan hệ, tâm lí và cả 
tính cách con người. Xã hội học cho rằng 
giao tiếp bao giờ cũng mang tính xã hội, dù 
đó có thể là giao tiếp cá nhân hay giao tiếp 
nhóm (giao tiếp tập thể) hoặc cộng đồng, 
giao tiếp trực tiếp, gián tiếp hay trung 
gian Triết học văn hóa và văn hóa học 
khẳng định giao tiếp là một hoạt động của 
con người mang tính Người nhất, bởi vì đó 
là một dạng hoạt động của ý thức nhằm 
góp phần trao đổi, kế thừa, bảo lưu hoặc 
phát triển các giá trị văn hóa đã được sáng 
tạo và tích lũy trong lịch sử để qua đó con 
người có thể thỏa mãn các nhu cầu văn hóa 
tinh thần của mình (nhận thức, sáng tạo, 
giao lưu). Giao tiếp văn hóa có một vị trí 
đặc biệt bởi vì nó chính là một thành tố 
thuộc về bản chất năng động của văn hóa, 
cái làm cho văn hóa phát triển như những 
giá trị liên tục (value continues), đồng thời 
góp phần làm cho văn hóa trở thành là 
động lực của sự phát triển kinh tế, xã hội 
nói chung. 
Trên những quan điểm ấy, hoạt động 
giáo dục cũng được xem như là một hoạt 
động giao tiếp (giao tiếp giữa những người 
tác động: GV, PH, XH... và người nhận sự 
41 
tác động là học sinh). Giao tiếp đòi hỏi sự 
đối thoại, giáo dục cũng cần đối thoại. Mục 
đích của giáo dục không chỉ là truyền đạt 
tri thức cho học sinh, giúp học sinh không 
chỉ phát triển về tri thức mà còn phát triển 
về kĩ năng, phát triển nhân cách. Giáo dục 
không thể có kết quả cao nếu quan hệ ấy 
chỉ diễn ra một chiều và sự gắn kết thầy trò 
qua giao tiếp mong manh. Như vậy giáo 
dục không chỉ đơn thuần là truyền thức mà 
là đối thức. Muốn giáo dục như một hoạt 
động giao tiếp cần có hai yếu tố. Một là 
trong hoạt động giáo dục phải có đối thoại, 
hay nói khác đi, hoạt động giáo dục phải 
được xem là hoạt động đối thoại (bản chất 
của giao tiếp là đối thoại). Hai là để đối 
thoại được thì bản thân tất cả những đối 
tượng tham gia trong họat động giao tiếp 
ấy phải có nhu cầu đối thoại, hoặc giả phải 
được kích thích, gợi mở để có nhu cầu đối 
thoại, phải được củng cố lòng tin để dám 
đối thoại. Người giao tiếp phải tự mở lòng, 
tự phát tin, truyền tin, tự đưa ra một tần số, 
một kênh giao tiếp có thể phù hợp được 
với làn sóng của người được giao tiếp, để 
người được giao tiếp có thể bắt nhịp được. 
Nếu những đối tượng tham gia giao tiếp 
không thể bắt trúng tần số, không đi cùng 
được trên một kênh thông tin thì xem như 
cuộc giao tiếp không thành công. Trong 
hoạt động giáo dục cũng vậy. 
Giáo dục nếu muốn trở thành hoạt 
động giao tiếp thì bản thân những người 
tham gia giao tiếp (GV, PH, XH, HS) 
phải cùng mở lòng và có nhu cầu giao tiếp. 
Người tác động (GV, PH, XH) phải xem 
việc tác động ấy là hoạt động giao tiếp bình 
đẳng hai chiều. Người chịu tác động (HS - 
đối tượng của hoạt động giáo dục) cũng 
phải mở lòng đón nhận cuộc giao tiếp và 
đủ tự tin để xem đó là cuộc đối thoại (dám 
nói, dám trao đổi). Điều này từ trước đến 
nay, trong giáo dục truyền thống là rất 
hiếm thấy, bởi vì, trước đây giáo dục chủ 
yếu là truyền đạt tri thức một chiều. Thầy 
nói học trò nghe, phụ huynh nói con em 
nghe, người lớn nói người nhỏ nghe. Và 
những gì họ nói là đúng, là chân lí miễn 
tranh luận. Vì vậy theo nếp xưa ấy, học trò 
không bao giờ dám đặt mình là đối tượng 
được đối thoại với người giáo dục. Việc để 
học trò mở kênh giao tiếp là rất khó và điều 
này phụ thuộc nhiều vào người làm công 
tác giáo dục. Giáo dục là hoạt động giao 
tiếp và hoạt động giao tiếp ấy chỉ có thể 
thành công khi có sự tham gia giao tiếp của 
HS. Đưa được HS vào hoạt động giáo dục 
với tư cách như một cuộc giao tiếp đối 
thoại hai chiều thì xem như giáo dục đã 
thành công được một nửa. Cần xác định 
giao tiếp là con đường nhanh nhất đưa đến 
sự chia sẻ, cảm thông và thân thiện. Mà sự 
thông cảm là một trong những con đường 
quan trọng nhất để giải quyết xung đột, đây 
cũng chính là mục tiêu giáo dục thế kỉ 21. 
Không có khả năng giao tiếp sẽ không có 
khả năng thông cảm. Thông qua giao tiếp 
con người có cơ hội hiểu nhau, đó là cơ sở 
của hòa bình - hữu nghị - hợp tác. Và cũng 
chính nhờ sự thông cảm hiểu nhau, giáo 
dục lúc ấy không chỉ đơn thuần là dạy tri 
thức mà còn là dạy người, dạy nhân cách, 
đạo đức. Edgar Morin, nhà triết học, xã hội 
học, nhân loại học hàng đầu Pháp trong 
cuốn “Bảy tri thức tất yếu cho nền giáo dục 
tương lai” nói rằng: “Sự thông cảm cùng 
một lúc là phương tiện và mục đích của sự 
trao đổi giữa con người với nhau. Thế mà 
giáo dục nhằm mục đích làm cho con 
người cảm thông nhau lại hoàn toàn vắng 
bóng trong các giáo trình của chúng ta. 
Hành tinh này cần những thông cảm lẫn 
nhau từ mọi phía. Bởi tầm quan trọng của 
nó, cần có một đổi mới về tâm thức ở mọi 
cấp giáo dục và ở mọi giới tuổi nhằm phát 
triển sự thông cảm. Đó phải là công việc 
42 
của nền giáo dục trong tương lai”. 
Nếu mục đích giáo dục là mang đến 
cho học sinh lòng yêu cái đẹp, cái thật, 
lòng yêu sự tìm tòi khám phá, khơi gợi ở 
các em khả năng cảm nhận, biết hoài nghi 
thì giao tiếp là hình thức tốt nhất để làm 
điều ấy. Bởi lẽ nếu giáo dục chỉ tác động 
như là sự áp đặt một chiều thì không thể có 
kết qủa cao được. Một thời gian quá dài 
trong nền giáo dục của chúng ta tồn tại 
kiểu giáo dục khiến các em thụ động tiếp 
nhận kiến thức. Thực ra giáo dục tức là tìm 
cách dung hòa hai vận động trái chiều 
nhau. Một đằng là giúp cho từng em tìm ra 
con đường riêng thích hợp và một đằng là 
dạy cho các em những điều mà mỗi chúng 
ta tin là chân, thiện, mĩ. Cái khó của người 
làm giáo dục là không bóp nghẹt nhân cách 
học sinh theo kiểu áp đặt, nhưng cũng 
không khước từ sứ mệnh dạy dỗ các em. 
Mỗi một học sinh đều có cung cách riêng 
trong cuộc sống, cách tư duy và cách cảm 
nhận riêng, chúng cần phải học được cách 
diễn đạt và có cơ hội diễn đạt những điều 
chúng nghĩ và chúng muốn. 
Đã có khi trong quá khứ, chúng ta 
muốn tất cả học sinh đều chui qua cái 
khuôn duy nhất, muốn mọi em đều cùng 
học một điều, trong cùng một lúc, theo 
cùng một cách. Kiến thức đuợc đặt cao hơn 
hết thảy. Giáo dục lúc đó là truyền đạt 
thông tin (information) một chiều. Chân lí 
thuộc về người truyền đạt và bằng một cách 
nào đó dù là khiên cưỡng học sinh phải 
chấp nhận, không được đi ngược lại cái 
được xem là chân lí. Rốt cuộc, các em trở 
nên thụ động, tự ti, cánh cửa giao tiếp với 
nhà giáo dục bị đóng lại, lúc đó tất cả chỉ là 
sự áp đặt, chất lượng giáo dục toàn diện là 
điều không tưởng. Tất nhiên nền giáo dục 
kiểu này từng có thành tựu của nó. Sự khắt 
khe, chặt chẽ kéo con người lên tầng cao, 
dắt con người dù muốn hay không cũng 
phải tự vượt qua chính mình. Tính khắt khe 
và tính ngặt nghèo của nền giáo dục một 
chiều đã làm nên nhân tố thăng tiến mạnh 
mẽ cho con người trong xã hội. Song cũng 
có vô vàn học sinh đau khổ vì chuyện đó và 
thấy mình chẳng nhận được gì tốt đẹp từ đó 
cả. Nguyên do không vì các em thiếu tài 
năng, cũng không phải vì các em không có 
khả năng học và hiểu mọi điều, mà đó là vì 
sự nhạy cảm riêng và tính cách riêng của 
các em đã không được quan tâm, tất cả bị 
dồn vào trong một khuôn khổ duy nhất áp 
đặt chung cho tất cả. 
Trên báo Tuổi trẻ số ra ngày 1/11/2009 
có đăng ý kiến của một học sinh Việt Nam 
du học ở Hoa Kỳ. Em ấy cho rằng khi du 
học em đã thay đổi rất nhiều, được trở về 
với con người thật của mình. Trước đây khi 
học ở Việt Nam, tuy là một học sinh giỏi 
nhưng em sống khép kín, ít giao tiếp với 
bạn bè, thầy cô vì em luôn phải cố gắng là 
con ngoan, trò giỏi. Khi sang Hoa Kỳ, em 
có thể nói ra những suy nghĩ điên khùng 
nhất của mình mà thầy cô vẫn lắng nghe. 
Đặc biệt hơn, không bao giờ giáo viên la 
mắng học sinh rằng em nghĩ như vậy là 
bậy, là sai mà họ phân tích cho học sinh 
hiểu tại sao em nghĩ như vậy nhưng những 
bạn khác không nghĩ như vậy. Em có cảm 
giác thầy cô ở Hoa Kỳ như bạn bè của 
mình vì thế có thể nói tất cả mọi chuyện 
cho họ nghe. Nhìn lại Việt Nam, quan hệ 
thầy trò luôn có một khoảng cách. Ví dụ có 
học sinh muốn hỏi lại những điều trong bài 
giảng (tức là muốn đối thoại với giáo viên) 
thì đã bị giáo viên mắng là nãy giờ sao 
không nghe giảng. Tóm lại giáo viên chúng 
ta chưa tạo được niềm tin cho học sinh 
giãi bày tâm tình của mình, hay nói khác đi 
là chưa mở cho học sinh một kênh giao 
tiếp mà ở đấy học sinh và thầy cô giáo có 
thể đối thoại. Nhiều học sinh gây ra những 
lỗi lầm trong học đường một phần lớn cũng 
43 
là vì không có cơ hội để được giao tiếp, 
giãi bày tâm sự với người lớn, thầy cô. Vì 
thế, phát động phong trào xây dựng môi 
trường trường học thân thiện là xây dựng 
mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người 
thông qua giao tiếp. Khi thầy cô gần gũi, 
tôn trọng học sinh và am hiểu tâm sinh lí 
của học sinh thì chắc chắn học sinh sẽ tin 
tưởng tâm sự về những khó khăn của mình. 
Thầy cô lúc đó không chỉ dạy chữ mà còn 
là dạy người, đồng hành cùng các em trong 
bước đường phát triển nhân cách của mình. 
Con đường cho giáo dục hiện đại là 
con đường đối thoại bình đẳng về mặt khoa 
học để cùng đi tìm chân lí. “Một công trình 
văn hóa đích thực còn đòi hỏi nhiều hơn là 
sự thuộc lòng. Văn hóa chỉ bắt rễ sâu trong 
con người thông qua sự thức tỉnh ý thức, trí 
khôn và tính tò mò. Ta cần dẫn dắt đứa trẻ 
đến chỗ biết tự vấn, biết suy nghĩ, biết giữ 
khoảng cách với sự kiện, biết hành động, 
biết hoài nghi và biết tự mình tìm ra chân 
lí.” (Nicolas Sarkozy). 
Như vậy, khi xem giáo dục như một 
hoạt động giao tiếp, người làm công tác 
giáo dục muốn mở được cánh cửa giao tiếp 
của học sinh cũng có nghĩa là phải tự thân 
xóa bỏ biên giới của khoảng cách. Khi biên 
giới của sự ngăn cách được xóa bỏ, thay 
vào đó là sự tự do thuyết luận, bình đẳng 
đối thoại hai chiều thì giáo dục sẽ bước qua 
một hình thức khác. Hình thức giáo dục sẽ 
đa dạng, đa chiều, kết quả giáo dục cũng 
chắc chắn sẽ khác. Học sinh sẽ được trang 
bị ngoài tri thức còn là kĩ năng sống, là 
cách để làm người và sống với mọi người. 
Các em sẽ hiểu sự khác biệt, sự đối lập, sự 
phê phán chẳng những không cản trở tự do 
mà trái lại đó là những nguồn lực khiến 
cho con người cá nhân thêm phong phú. 
Để thực hiện được mục tiêu là giáo 
dục thông qua hoạt động giao tiếp, quan 
trọng là làm sao để học sinh dám mở lòng 
cùng thầy. Muốn hai bên cùng mở lòng ra, 
để có thể đối thoại qua lại thì cần chú ý đến 
kênh giao tiếp tình cảm. “Không thể dạy 
nghệ thuật giao tiếp tâm hồn bằng sách 
giáo khoa hay thu vào một mớ nguyên lí 
nào đó. Tiền đề quan trọng nhất của nó là 
sự nhạy cảm và cởi mở chân thành của 
chính nhà giáo dục, anh ta có sẵn sàng hiểu 
và chấp nhận một cái gì đó mới mẻ và chưa 
quen hay không.” (Kon.I.C). 
Trước đây, chúng ta chọn phương pháp 
giáo dục lấy người thầy làm trung tâm, gần 
đây lại chuyển sang phương pháp dạy học 
tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Nhưng 
thực ra cái gọi là trung tâm ấy không phải ở 
thầy hay trò, người học hay người dạy, mà 
ở quan niệm về cách thức giáo dục. Các 
phương pháp dạy học tích cực lấy học sinh 
làm trung tâm, dạy học cá thể đều có một 
điểm chung là cho học sinh được tham gia 
một cách độc lập trong quá trình giáo viên 
truyền đạt tri thức. Đây là bản chất của giao 
tiếp và cũng là bản chất của giáo dục. Giáo 
dục hiểu là hoạt động giao tiếp không chỉ 
tác động vào trí mà còn tác động vào tình 
cảm. Sự mở lòng, sự chân thành của thầy 
cô giáo, các bậc phụ huynh giúp học sinh 
mở û lòng đón nhận và có sự giao tiếp trở 
lại. Chính trong quá trình giao tiếp ấy nảy 
sinh tình cảm, từ đó có sự chia sẻ và cảm 
thông đúng như ý kiến của Kon.I.C, nhà 
tâm lí học người Nga quan niệm: “Thế giới 
bên trong tâm hồn của học sinh chỉ mở ra 
khi gặp một tâm hồn khác, khi gặp một sự 
hiểu biết cảm thông”. 
Sự cảm thông này bộc lộ đặc biệt rõ rệt 
trong hình thức cao nhất của giao tiếp là 
nghệ thuật. Sở dĩ nghệ thuật có tác dụng lớn, 
tác phẩm nghệ thuật sức có tác động đến 
người đọc, có ý nghĩa giáo dục lớn là vì 
người nghệ sĩ, nhà văn, nhà thơ tự mở lòng 
ra, tự bộc bạch một cách chân thành. Sự chân 
thành ấy tạo nên sức lôi cuốn, tác động giáo 
44 
dục của tác phẩm nghệ thuật. Nghệ thuật là 
mảnh đất tình cảm của con người, tác động 
mãnh liệt của nghệ thuật là tác động vào tình 
cảm, tạo ra được sự cảm thông. 
Về một phương diện nào đó, dạy học 
cũng là một nghệ thuật (không phải là nghệ 
thuật giảng dạy mà nghệ thuật là như một 
hoạt động của con người). Người thầy 
dùng tình cảm và sự chân thành tác động 
đến học sinh, giáo dục được xem như một 
sự giao tiếp tình cảm, nhờ đó mà hoạt động 
giáo dục vừa là kết tinh tình yêu và trí tuệ 
của người dạy học, vừa là sợi dây truyền 
cho học sinh sự sống mà người thầy mang 
trong lòng. Thầy giáo đánh thức học sinh 
bằng tình cảm, sự tò mò và say mê. Thầy 
không chỉ đứng ngoài chỉ đường cho học 
sinh đi mà còn đốt lên ngọn lửa trong lòng 
các em, khiến chúng tự nguyện thích thú 
bước đi trên con đường ấy. Và vì vậy giáo 
dục thực hiện được sứ mạng đưa con người 
thoát ra khỏi những biên giới của chính 
mình, liên kết lại với nhau. 
Việc biến hoạt động giáo dục thành 
hoạt động giao tiếp có quan hệ chặt chẽ với 
giáo dục văn hóa giao tiếp. Những chủ thể 
tham gia hoạt động giáo dục (thầy – trò) 
cũng là những chủ thể tham gia giao tiếp. 
Nếu văn hóa giao tiếp của những chủ thể 
này được nâng cao thì qúa trình giao tiếp 
cũng sẽ thuận lợi hơn và cũng có nghĩa là 
quá trình giáo dục sẽ hiệu quả hơn. Về 
phương diện này văn hóa giao tiếp của thầy 
cô có một vai trò lớn. Sự gần gũi, thân mật, 
thái độ dân chủ của thầy cô thể hiện trong 
cách xưng hô, đối xử lịch sự, có văn hóa 
với học sinh sẽ khuyến khích học sinh 
mạnh dạn bày tỏ những khó khăn, không 
hiểu biết của mình. Ngược lại cử chỉ, lời 
nói có văn hóa của học sinh thể hiện lòng 
“tôn sư trọng đạo” của các em, và đó là 
một nguồn cổ vũ lớn đối với nhà giáo dục, 
giúp tăng thêm lòng yêu nghề và ý chí giáo 
dục của thầy cô; không có nó hoạt động 
giáo dục không thể thành công. 
Tóm lại, giáo dục cần thấm nhuần 
nguyên lí giao tiếp nhưng giao tiếp không 
phải chỉ là tinh thần của giáo dục mà còn là 
nội dung của giáo dục (giáo dục văn hóa 
giao tiếp). Quán triệt nguyên lí ấy, tất cả 
các phương pháp giáo dục sẽ được phát 
huy tốt. Khơi gợi để học sinh buớc vào 
hoạt động giáo dục như một hoạt động giao 
tiếp là chìa khóa để thành công. Mục đích 
cao nhất của giáo dục lúc này không chỉ là 
mang lại sự hiểu biết mà còn là tạo sự hiểu 
nhau, thông cảm và chia sẻ lẫn nhau. Giao 
tiếp phải là sợi chỉ đỏ xuyên suốt hoạt động 
giáo dục, xuyên suốt cuộc sống. Chính nhờ 
đó mà mọi người xích lại gần nhau hơn. 
 Tài liệu tham khảo 
1. Edgar Morin (2008), Bảy tri thức tất yếu cho 
nền giáo dục tương lai, Nxb Tri thức, Hà Nội. 
2. Education Next, Summer 2010. 
3. Education World, August 2013, Rs. 60. 
4. John Dewey (2008), Dân chủ và giáo dục, 
Nxb Tri thức, Hà Nội. 
5. J.J.Rousseau (2008), Emile hay là về giáo 
dục, Nxb Tri thức, Hà Nội. 
6. Nicolas Sarkozy (Tổng thống Pháp) 
(4/9/2007), Thư gửi các nhà giáo nhân ngày 
khai trường, Phạm Toàn dịch, văn bản nguồn 
http//media.education.gouv.fr 
7. The Education Digest, vol 70, No 5. 
8. Hồ Ngọc Đại (2009), Nghiệp vụ sư phạm, 
Nxb ĐH Sư phạm, Hà Nội. 
Ngày nhận bài: 05/10/2015 Biên tập xong: 05/11/2015 Duyệt đăng: 10/11/2015 

File đính kèm:

  • pdfbien_qua_trinh_giao_duc_thanh_hoat_dong_giao_tiep.pdf