Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam
Tóm tắt
Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến sự hình thành và phát triển của
cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này với những bứt phá ngoạn mục về quy mô,
tốc độ và sức lan tỏa trên phạm vi toàn cầu. Thứ bậc của các quốc gia bị đảo lộn sâu sắc do những bước
tiến mạnh mẽ của các quốc gia về trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong quá trình toàn cầu hóa.
Nhu cầu phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN chất lượng cao trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ
4 cũng đang và đặt ra hết sức gay gắt, nó đòi hỏi những yêu cầu mới về vai trò, sứ mạng của giáo dục đại
học nói chung và đối với hình thức đào tạo từ xa nói riêng trong tiến trình hình thành và phát triển của
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 .
Tóm tắt nội dung tài liệu: Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tại Việt Nam
.+2$+&9j&1*1*+ ô1*ô Taïp chí 1JKLÂQFßX7UDRõÕL 8 SỐ 4 (2018) CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI ĐÀO TẠO TỪ XA Ở BẬC ĐẠI HỌC TRONG CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 TẠI VIỆT NAM OPPORTUNITIES AND CHALLENGES FOR DISTANCE LEARNING AT THE UNIVERSITY IN THE 4.0 INDUSTRIAL REVOLUTION IN VIETNAM Tóm tắt Trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, thế giới đã và đang chứng kiến sự hình thành và phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4. Cuộc cách mạng này với những bứt phá ngoạn mục về quy mô, tốc độ và sức lan tỏa trên phạm vi toàn cầu. Thứ bậc của các quốc gia bị đảo lộn sâu sắc do những bước tiến mạnh mẽ của các quốc gia về trình độ phát triển khoa học và công nghệ trong quá trình toàn cầu hóa. Nhu cầu phát triển đội ngũ nhân lực KH&CN chất lượng cao trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 cũng đang và đặt ra hết sức gay gắt, nó đòi hỏi những yêu cầu mới về vai trò, sứ mạng của giáo dục đại học nói chung và đối với hình thức đào tạo từ xa nói riêng trong tiến trình hình thành và phát triển của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 . Từ khóa: cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, đào tạo từ xa, đại học . Summary In the early decades of the 21st century, the world has witnessed the appearance and the development of the 4th Industrial Revolution. This revolution has the spectacular development in scale, speed and spread on a global scale. The hierarchy of nations is deeply disrupted by the rapid advancement of nations in the level of scientific and technological development in the process of globalization. The need to develop high-quality Science & Technology human resources in the 4th Industrial Revolution is also hugely demanding, requiring new requirements for the role and mission of higher education in common and in the form of distance learning in particular in the process of formation and development of the 4th industrial revolution. Keywords: industrial revolution 4.0, distance learning, university. 1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: - Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình VŨ THỊ THANH THỦY * VŨ THỊ ÁNH TUYẾT * hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất - dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. - Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh; Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano; Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông minh; E-Learning... - Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản. Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường. Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa. 2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại học Việt Nam 2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại học Việt Nam Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người học với nhau và với giảng viên. So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống * Trường Đại học Lao động - Xã hội Ngày nhận bài: 10/5/2018; ngày thẩm định 15/7/2018; ngày duyệt đăng: 15/9/2018 .+2$+&9j&1*1*+ ô1*ô Taïp chí 1JKLÂQFßX7UDRõÕL 9SỐ 4 (2018) 1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: - Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình hay vô hình. Tất cả các quốc gia dù nhỏ hay lớn; dù nghèo hay giàu; dù phát triển hay đang phát triển đều chịu sự tác động mạnh mẽ và đứng trước nhiều cơ hội phát triển nhảy vọt và đồng thời với nhiều thách thức mới. Những nước mới phát triển sau như Nhật Bản, Hàn Quốc; Singapore... đã tỏ ra có sức vượt trội so với các cường quốc Âu - Mỹ ở nhiều lĩnh vực khoa học và công nghệ mũi nhọn; sản xuất - dịch vụ công nghiệp trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. - Về các sản phẩm và dịch vụ xã hội: Với những sản phẩm công nghệ cao trong các lĩnh vực của sản xuất và đời sống xã hội như: Robot thông minh; Máy in 3D; Điện thoại thông minh; Vật liệu Nano; Mạng Intrenet; Máy tính thế hệ 5; Mạng thông tin và truyền thông toàn cầu; TV tích hợp màn hình cong và mỏng... Các sản phẩm và dịch vụ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã thay đổi toàn diện phương thức sản xuất - dịch vụ và tiêu dùng. Lối sống trong mọi tầng lớp xã hội với hàm lượng chất xám ngày càng cao (30-60% giá thành sản phẩm); với tiện ích ngày càng mở rộng và giá thành sản phẩm và dịch vụ ngày càng rẻ hơn. Đặc biệt, chu kỳ sống của một sản phẩm ngày càng rút ngắn (từ vài năm xuống vài tháng). Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư thực sự đã và đang tác động lan tỏa đến các mặt của đời sống xã hội (chính trị; kinh tế, văn hóa, lối sống; giáo dục...) với sự hình thành Chính phủ điện tử; thành phố thông minh; E-Learning... - Về cơ cấu nhân lực xã hội: Các cuộc cánh mạng công nghiệp trước đây (cuộc cách mạng công nghiệp 1, 2, 3) chủ yếu tạo ra sự phân chia cơ cấu lực lượng lao động xã hội theo các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ cùng với các cấp trình độ đào tạo về chuyên môn - nghiệp vụ (trung cấp, cao đẳng, đại học...) thì cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư này đã tạo cơ sở đưa đến một loại hình phân chia cơ cấu nhân lực mới với hai thành phần cơ bản: Nhân lực thừa hành (hành chính; vận chuyển; bảo trì; sản xuất theo dây chuyền) và nhân lực sáng tạo (nhà sáng chế, thiết kế; nghiên cứu khoa học và công nghệ R&D; thử nghiệm; sáng tạo nghệ thuật...). Cơ cấu ngành nghề trong đào tạo nhân lực KH&CN đã có những thay đổi căn bản. Ranh giới các ngành công nghiệp truyền thống như: luyện kim; cơ khí chế tạo máy; điện lực, điện tử... ngày càng bị xóa mờ, được thay thế bằng các ngành, chuyên ngành đào tạo có tính tích hợp, liên ngành cao như khoa học vật liệu; khoa học máy tính; cơ- điện tử; công nghệ môi trường. Với xu thế phát triển đề cập trên, có thể nhận thấy định hướng cho Việt Nam, một nước đang phát triển trên nền tảng một nước nông nghiệp với thành phần lao động đơn giản khoảng 70% tổng số lao động xã hội hiện nay, Việt Nam muốn trở thành một nước công nghiệp hiện đại, thì nhân lực được đào tạo có chất lượng cao, có trình độ, ngành nghề hợp lý là nhân tố đóng vai trò rất quan trọng và chi phối sự phát triển nền kinh tế một đất nước. Đặc biệt, trước cuộc cách mạng 4.0, nguồn nhân lực trình độ cao có nhiều cơ hội lĩnh hội được nhiều kiến thức hơn trong phương thức đào tạo từ xa. 2. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại học Việt Nam 2.1. Thực trạng đào tạo từ xa tại các trường đại học Việt Nam Đào tạo trực tuyến hay Học tập trực tuyến (hay còn gọi là E-Learning/ online learning) là phương thức học tập sử dụng kết nối mạng để phục vụ học tập, lấy tài liệu học, trao đổi giao tiếp giữa người học với nhau và với giảng viên. So sánh đào tạo từ xa với đào tạo truyền thống Từ đó, nhận thấy ưu điểm của ĐTTX đối với người học như sau: - Địa điểm và thời gian học linh hoạt: Người học có thể học tập mọi lúc, mọi nơi. Việc trao đổi thông tin, truyền đạt kiến thức theo yêu cầu. Sinh viên có thể truy cập các khoá học bất kỳ nơi đâu như văn phòng làm việc, tại nhà, tại những điểm Internet công cộng, 24 giờ một ngày, 7 ngày trong tuần, bất cứ lúc nào, bất cứ nơi đâu. - Tiết kiệm chi phí đi lại: Sinh viên chỉ bắt buộc phải đi thi tập trung tại địa điểm của nhà trường. - Tiết kiệm thời gian so với phương thức giảng dạy truyền thống: do rút giảm sự phân tán và thời gian đi lại. - Linh hoạt: Sinh viên có thể đăng ký bao nhiêu khóa học mà việc học cần, có thể tự điều chỉnh thời gian, tốc độ học theo khả năng và có thể tự tham khảo, nghiên cứu thêm thông qua các nguồn tài liệu được hướng dẫn tham khảo. - Được hỗ trợ: Với hệ thống công nghệ E-Learn- ing, sinh viên dễ dàng theo dõi tiến độ học tập, kết quả học tập, được hỗ trợ giải đáp thông tin kịp thời. - Đáp ứng cho mọi đối tượng. - Dễ dàng trao đổi thông tin giữa người học với người học và giữa người học với người dạy. Học tập trực tuyến (E-Learning) Học truyền thống • Tiết kiệm và linh hoạt về thời gian. • Tiết kiệm chi phí và công sức. • Kiểm soát được quá trình học tập hơn thông qua các công cụ đánh giá, đưa ra những biện pháp hỗ trợ nhanh chóng để góp phần nâng cao hiệu quả học tập của từng học viên. • Có thể lữu trữ được các bài học, phục cho việc ôn tập lại kiến thức của các học viên. • Cung cấp tài nguyên học tập phong phú cho các học viên: bài giảng, bài tập, tài liệu học tập được biên soạn một cách bài bản và hệ thống từ cơ bản đến nâng cao. • Mỗi học viên có thể chủ động tự lựa chọn cách học và tốc độ phù hợp đỗi viên, với mình. • Dễ tiếp cận và thuận tiện. • Cần thiết phải có một khoảng thời gian nhất định. • Tốn nhiều công sức và chi phí. • Số lượng học sinh bị giới hạn, bị giới hạn bởi không gian và địa lý • Đánh giá kết quả thông qua các bài kiểm tra. • Các tài liệu học tập: tài liệu nội bộ của mỗi trường, sách giáo khoa và sách tham khảo. • Chương trình và tốc độ học do giáo viên đưa ra chung cho tất cả học sinh dựa trên chương trình chuẩn của Bộ Giáo dục và Đào tạo. • Sự tương tác giữa học sinh - giáo viên, giữa học sinh với nhau thấp. • Tiếp cận phụ thuộc vào thời gian và khu vực địa lý. - Người học có thể chủ động lựa chọn chương trình học để phù hợp với vị trí công tác đào tạo, giảng dạy, nghiên cứu khoa học hoặc theo công việc tại các cơ quan, doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, tính đến hết năm học 2016-2017, cả nước hiện có 235 trường đại học, học viện, bao gồm: 170 trường công lập, tương ứng 72,34%, 60 trường tư thục và dân lập, chiếm 25,53%, và 5 trường có 100% vốn nước ngoài, chiếm 2,13% tổng số các trường đào tạo đại học (cơ cấu được thể hiện trong biểu đồ 1); 37 viện nghiên cứu khoa học được giao nhiệm vụ đào tạo trình độ tiến sĩ, 33 trường cao đẳng sư phạm và 2 trường trung cấp sư phạm. .+2$+&9j&1*1*+ ô1*ô Taïp chí 1JKLÂQFßX7UDRõÕL 10 SỐ 4 (2018) 1. Các đặc trưng cơ bản của các cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quá trình phát triển của nền văn minh công nghiệp và hậu công nghiệp Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 dựa trên nền tảng của các lĩnh vực khoa học - công nghệ hiện đại và trong môi trường toàn cầu hóa, thế giới phẳng với các mũi nhọn về công nghệ số, vật liệu thông minh; trí tuệ nhân tạo... đã và đang phát triển mạnh mẽ với các đặc trưng cơ bản sau: - Về tính chất và quy mô phát triển: Nếu như trước kia, các cuộc cánh mạng công nghiệp chủ yếu tạo sự thúc đẩy về lực lượng sản xuất (công cụ, phương thức sản xuất, năng xuất lao động) mang tính chất cục bộ ở một quốc gia, nhóm quốc gia hoặc một vài châu lục... thì ngày nay, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đã và đang diễn ra đồng thời trên phạm vi toàn cầu với tốc độ phát triển nhanh chóng, phá vỡ mọi giới hạn hữu hình hay ... cấp. Không chỉ thế, việc nhiều trường Đại học được thành lập mới đã tạo cơ hội cho người học có nhiều sự lựa chọn hơn, làm giảm thị phần đối với ĐTTX. Rào cản chính dẫn đến những khó khăn, thách thức mà các trường ĐH có đào tạo từ xa đang gặp phải chính là: Đảng và Chính phủ đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn phát triển ĐTTX nhưng chưa có kế hoạch hành động cụ thể ở cấp bộ, ngành. Thứ hai, cơ sở hạ tầng tại Việt Nam chưa thực sự phát triển đồng bộ tại các vùng miền của cả nước, chi phí cho việc lắp đặt hệ thống mạng Internet còn cao hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Chưa có những chương trình hỗ trợ cụ thể để người vùng sâu, vùng xa, những tỉnh, kém phát triển, có điều kiện vị trí địa lý hiểm trở tiếp cận với cơ sở hạ tầng nối mạng. Thiết nghĩ, để giúp họ thoát nghèo, trước hết Chính phủ cần giúp họ tiếp cận những kiến thức mới. Bởi để tồn tại, thích ứng với cuộc sống phát triển như hiện nay, chúng ta không chỉ làm theo kinh nghiệm mà rất cần có kiến thức cơ bản. Thứ ba, chất lượng của hình thức ĐTTX chưa được chú trọng. Một số trường chỉ chạy đua về phát triển quy mô đào tạo mà chưa quan tâm đến chất lượng đào tạo, chưa có giáo viên chuyên biệt dành riêng cho hệ đào tạo từ xa. Nhiều chương trình ĐTTX của các trường thực hiện thuê khoán những giảng viên trẻ, chưa có kinh nghiệm; Việc thiết kế chương trình đào tạo của các trường chưa chuẩn hóa, chưa gắn nội dung chương trình đào tạo với sứ mệnh phát triển của trường, chưa gắn với chuẩn kiến thức đầu ra cho hình thức đào tạo này. Hệ thống đào tạo này cũng đã xuất hiện tình trạng học hộ, thi hộ. Đa số các trường có ĐTTX chưa đầu tư công sức, tài chính để sản xuất, biên soạn học liệu và phát triển công nghệ, dẫn tới việc tổ chức dạy tập trung tại các địa phương thông qua các trạm đào tạo, tạo ra sự biến tướng của loại hình đào tạo này. Nhiều trường coi ĐTTX như là việc làm thêm để tăng nguồn thu. Quy trình quản lý và đảm bảo chất lượng còn lỏng lẻo, dẫn tới sự quan ngại cho dư luận xã hội. Thứ tư, Chính phủ, Bộ giáo dục và Đào tạo cùng các cơ quan ban ngành chưa xây dựng được thống thống giám sát chất lượng đủ mạnh để giúp người học và người dạy nâng cao chất lượng. Thứ năm, đa số chứng chỉ, bằng cấp của hình thức đào tạo từ xa vẫn chưa được xã hội thừa nhận, có sự phân biệt đối xử với người học ở hình thức đào tạo này. Thông tin về việc thi, kiểm tra, đánh giá ĐTTX thường được tiến hành theo phương pháp tự luận và tổ chức tại các trạm tiếp nhận chương trình ĐTTX ở địa phương. Vì vậy, có nơi có lúc chưa đảm bảo tính nghiêm túc, khách quan. Một chỉ số phản ánh chất lượng ĐTTX là tỷ lệ số học viên tốt nghiệp trên tổng số học viên nhập học ban đầu. Định kiến xã hội về loại hình ĐTTX, do người dạy không làm việc trực tiếp với người học nên kết quả học tập chưa được đảm bảo, khiến nhiều người nghi ngờ về chất lượng và văn bằng của loại hình đào tạo này. Người sử dụng lao động không tuyển dụng những người có bằng ĐTTX cũng khiến cho chất lượng đào tạo không đảm bảo. Trong điều kiện thực tế hiện nay, khi cơ sở vật chất còn thiếu thốn, công nghệ đào tạo chưa được cải tiến đáng kể; phương thức xét tuyển đầu vào không tổ chức thi tuyển; chưa ứng dụng được công nghệ kiểm tra, thi, đánh giá theo phương pháp trắc nghiệm khách quan dẫn đến tỷ lệ tốt nghiệp chỉ khoảng 30 - 40% mới phù hợp với yêu cầu về chất lượng đào tạo. - Hệ thống giáo dục Việt Nam chưa thực sự chú trọng đến phát triển ngoại ngữ. Đây là trở ngại lớn khi tiếp cận học tập theo hình thức này. Trước cuộc cách mạng 4.0, đã tạo cơ hội cho phát triển hình thức ĐTTX, nhưng cũng gặp không ít thách thức. 3. Cơ hội và thách thức đối với đào tạo từ xa ở bậc đại học trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 3.1. Cơ hội - Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước luôn xác định, ưu tiên cho phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ. Ngay từ Đại hội VI (1986) và Hội nghị TW 2 khóa VIII (1996) và đến nay mọi chính sách vẫn khẳng định: Giáo dục, đào tạo cùng với phát triển khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển, là điều kiện cần để giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công XHCN. Khoa học công nghệ là then chốt trong mọi hoạt động của mọi ngành, các cấp, là nhân tố thúc đẩy tăng trưởng và củng cố an ninh quốc phòng. Bởi vì, chỉ có giáo dục, đào tạo mới có tri thức, dân trí cao và làm được trong nhiều ngành nghề khác nhau, phát triển được nền kinh tế; Cần phải ứng dụng sự phát triển khoa học và công nghệ để hiện đại hóa đất nước và hội nhập toàn cầu. Khi đó, GDP/ đầu người tại Việt Nam thay đổi, mức sống của người dân mới được nâng cao. Bởi vì, trong các yếu tố của quá trình sản xuất thì sức lao động giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Khi đó, giáo dục và đào tạo là quá trình tái tạo, mở rộng sức lao động, chỉ có giáo dục và đào tạo mới bồi dưỡng nguồn nhân lực, nâng cao sức sản xuất, làm cho đất nước ngày càng phát triển. Song, phát triển giáo dục, đào tạo cần ứng dụng sự phát triển Khoa học công nghệ. Trong kỉ nguyên phát triển công nghệ thông tin như hiện nay, phương thức phát triển giáo dục đại học không chỉ bó hẹp giáo dục và đào tạo kiểu truyền thống. Nhận thức được tầm quan trọng của cuộc cách mạng 4.0, Đảng và Nhà nước luôn đánh giá cao vai trò người thầy trên mặt trận giáo dục; Đảng luôn chỉ đạo kịp thời, sắc bén và ban hành nghị quyết, chỉ thị để phát triển đa dạng các hình thức dạy và học. - Khung hành lang pháp lí trang bị cho hình thức ĐTTX khá đầy đủ. - Là một nước đang phát triển, việc mở rộng quy mô đào tạo ở bậc đại học được chú trọng, hình thức ĐTTX tạo ra cơ hội liên thông các lĩnh vực với các trường với nhau. Người học có nhiều cơ hội hơn để lựa chọn trường học, phương thức học. - Các trường có cơ hội tuyển sinh được số lượng lớn người học theo hình thức này. Tính trung bình, ở Việt Nam mỗi năm có khoảng 900.000 học sinh tốt nghiệp THPT (năm 2015, 2016, 2017). Trong khi đó, chỉ tiêu tuyển sinh của 17 trường ĐTTX mới chỉ là 70.425, chiếm 7,83% cơ hội tuyển sinh của chương trình đào nào này. Thị phần cho các trường tuyển sinh là khá rộng với số lượng các trường đại học và học viện lớn (235 trường), dễ hơn cho người học và kết nối được người học ở các lĩnh vực. Tận dụng lợi thế mạng lưới các trường nguồn tuyển phong phú hơn, thông tin đến với người học nhanh chóng và kịp thời. Đặc biệt, nhu cầu học tập của con người ngày càng cao. Với truyền thống hiếu học của người Việt Nam, nếu các trường chú trọng đến chất lượng đào tạo theo hình thức này, sẽ được người học lựa chọn. - Nhu cầu về học tập và phát triển trình độ tại Việt Nam cao. Đứng trước sự hội nhập kinh tế toàn cầu, do yêu cầu khi thực hiện công việc, đòi hỏi người học có sự am hiểu nhất định về lĩnh vực mình phụ trách. Hơn nữa, hiện nay, định hướng nghề nghiệp đối với học sinh tốt nghiệp THPT và những đối tượng khác khá rõ ràng. Người dân không nhất thiết phải thi tuyển vào trường đại học nào đó tại Việt Nam. Song bản thân những người làm nghề cũng rất mong muốn có kiến thức lí thuyết cơ bản cho những lĩnh vực làm việc của họ và trình độ dân trí chưa thực sự cao, khiến nhu cầu học tập nâng cao trình độ. Do vậy, khoảng trống thị trường để các trường ĐTTX còn khá nhiều. - Phương tiện để phục vụ học theo chương trình ĐTTX đơn giản, chi phí cho phương tiện học tập thấp. Như trên đã đề cập, có nhiều phương thức học theo hình thức ĐTTX, tuy nhiên, người học chỉ cần trang bị cho mình máy tính, điện thoại thông minh. Song trước cuộc cách mạng 4.0, chi phí để trang bị phương tiện học tập được coi là thấp. 3.2. Thách thức Bên cạnh những cơ hội có được trước cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, giáo dục đại học nói chung và hình thức ĐTTX nói riêng cũng gặp phải rất nhiều thách thức: - Sự phối, kết hợp 3 nhà: Nhà nước - Nhà trường - Nhà sử dụng lao động tại Việt Nam chưa nhịp nhàng. Bản thân các doanh nghiệp, tổ chức, đơn vị sử dụng lao động cũng chưa sẵn sàng chia sẻ thông tin về kế hoạch ngắn hạn và dài hạn tuyển dụng bao gồm: số lượng tuyển dụng, chất lượng tuyển dụng, đòi hỏi những kĩ năng cơ bản ở người được tuyển dụng... trên các website chính thức. Các trường Đại học chưa phối hợp cùng nhau để thực hiện khảo sát điều tra về nhu cầu thị trường lao động trong từng giai đoạn phát triển cụ thể của nền kinh tế, do tốc độ thay đổi công nghệ từ cách mạng công nghiệp lần thứ 4 diễn ra quá nhanh. Nhà nước cũng chưa có những hỗ trợ cụ thể và chọn lọc ra một số trường đại học làm điểm cho sự kết hợp 3 bên này. - Hình thức ĐTTX khiến người học khó tiếp cận với cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống. Các hoạt động đào tạo và nghiên cứu khoa học từ các trường đại học đối mặt với các yêu cầu cải cách và cạnh tranh mới. Nhiều tập đoàn công nghệ ngày nay có tiềm lực công nghệ, con người và tài chính rất lớn, họ lại ở tuyến đầu trong cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống vì thế họ có nhiều trải nghiệm quý giá mà giới hàn lâm đại học không có. Chính điều đó đã làm giảm đáng kể ranh giới và khoảng cách về tri thức và khả năng sáng tạo giữa khu vực Đại học & công nghiệp. Cùng với sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 đòi hỏi giáo dục phải đem lại cho người học những kỹ năng và kiến thức cơ bản lẫn tư duy sáng tạo, khả năng thích nghi với các thách thức và yêu cầu công việc thay đổi liên tục để tránh nguy cơ bị đào thải. Tất cả tạo ra một bức tranh giáo dục đào tạo sinh động mà các phương thức giáo dục truyền thống chắc chắn sẽ không thể đáp ứng. - Hệ thống kiểm soát chất lượng đối với ĐTTX chưa đáp ứng trước ứng dụng cách mạng công nghiệp 4.0. Như trên đã đề cập, tại Việt Nam hình thức ĐTTX vẫn bị đối xử chưa bình đẳng với hình thức đào tạo truyền thống, nguyên nhân chính là chúng ta chưa xây dựng được nguyên tắc trong ĐTTX, chưa xây dựng được thang đo đánh giá rõ ràng đủ minh bạch với kết quả học tập của người học. Trong thời đại công nghệ số, trí tuệ nhân tạo, nếu đơn vị cung cấp dịch vụ đào tạo này chưa có những chế tài đủ mạnh để xử lí những gian lận đối với người học trong thi cử khi cấp bằng, thì dù là giai đoạn phát triển nào của nền kinh tế vẫn tạo ra những định kiến đối với các loại bằng cấp khác nhau. Cũng phải bàn luận thêm rằng tính kỉ luật, ý thức tự giác của đa số người dân chưa cao nên việc không có hệ thống giám sát chất lượng học và kiến thức được lĩnh hội ở hình thức đào tạo này luôn là một thách thức lớn. Đặc biệt, ở một đất nước vẫn còn coi trọng bằng cấp như hiện nay, thì đây là một thách thức không hề nhỏ đối với các trường đại học tổ chức ĐTTX bậc đại học. - Hệ thống kiểm soát triển khai thực hiện chưa đầy đủ. Đây lại là vấn đề nghiêm trọng không chỉ trong lĩnh vực đào tạo mà ở nhiều lĩnh vực khác nhau tại Việt Nam. Tại sao, lại cho rằng hệ thống kiểm soát triển khai thực hiện chưa đầy đủ? Vì, sau khi các trường được chấp thuận ĐTTX, bản thân mỗi trường họ cũng mong muốn xây dựng hình ảnh, nâng cao chất lượng để tăng nguồn thu và phát triển bền vững, nên họ cũng chú trọng đến tuyển dụng giảng viên, người dạy, biên soạn giáo trình. Song, việc quản lí triển khai thực hiện yếu, kém dẫn đến việc việc sao chép bản quyền tác giả diễn ra khá phổ biến. Sự rõ ràng giữa người dạy và đơn vị tổ chức chưa có, nhiều bài giảng của giảng viên được tổ chức cung cấp đào tạo tự ý sử dụng cho nhiều đối tượng học, thời gian học mà không được sự đồng ý của người dạy. - Giảng viên chưa thực sự cống hiến hết mình cho hình thức ĐTTX, trong không gian bó hẹp. Với lối học truyền thống được duy trì nhiều năm nay, sự giao thoa văn hóa giữa Việt Nam và các nước phát triển trong khối giảng viên chưa nhiều. Kinh phí cho việc học tập và nâng cao trình độ ở giảng viên hạn chế. Điều này, có thể là nguyên nhân dẫn đến người dạy ít tạo ra hứng thú hơn với hình thức đào tạo này. Do vậy, chưa tạo ra được cảm hứng trong không gian khi chỉ xuất hiện một giảng viên với một vài người học, hay thậm chí chỉ một người học cho một khung thời gian đó. 4. Một số đề xuất nhằm phát triển hình thức đào tạo từ xa ở bậc đại học trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 Để nâng cao chất lượng dạy và học theo hình thức ĐTTX trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng 4.0, với sự phát triển công nghệ số và trí tuệ nhân tạo, đòi hỏi phải có sự chung tay của nhiều tổ chức, ban ngành, sự nghiêm túc trong hoạt động dạy và học cùng ý thức kỉ luật cao của người học mới mang lại một hình hài hoàn thiện cho ĐTTX tại các trường đại học ở Việt Nam. Do vậy, nhóm tác giả xin đề xuất một số giải pháp như sau: Thứ nhất, Chính phủ nên cụ thể hóa thành nghị định quy định quyền hạn, trách nhiệm 3 bên trong quá trình kiểm tra, giám sát, thực hiện sự phối hợp của Nhà nước - Nhà trường - Nhà sử dụng lao động của quá trình đào tạo để chất lượng đào tạo đại học nói chung và đào tạo đại học từ xa nói riêng được nâng cao. Thứ hai, hoàn thiện chương trình ĐTTX, trên cơ sở đó bổ sung thời gian cần thiết đối với người học về thực hành để khắc phục hạn chế như hiện nay (hạn chế mà trên đã đề cập Hình thức ĐTTX khiến người học khó tiếp cận với cuộc chạy đua biến tri thức thành sản phẩm phục vụ cuộc sống). Theo đó, nhóm tác giả gợi ý về cách thực hiện như sau: người học có thể gửi bản mềm về kết quả thực hành của mình thông qua quay phim, chụp ảnh. Trong đó, người học được tổ chức cấp bằng kiểm chứng về tính trung thực của bài nộp. Thứ ba, khẩn trương xây dựng nguyên tắc ĐTTX, chế tài trong hoạt động đào tạo từ xa. Đây là một trong những cơ sở pháp lí để xử lí những vi phạm gian lận đối với người học và người cung cấp dịch vụ đào tạo trong hoạt động đào tạo từ xa. Theo đó, bằng cấp đối với người học theo hệ đào tạo này sẽ được chấp nhận rộng rãi và không bị phân biệt đối xử trong tuyển dụng. Đặc biệt, trong nền kinh tế số như hiện nay các bài giảng trực tuyến mới thực sự được bảo vệ về bản quyền. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Lentell (2003): 'The Importance of the Tutor in Open and Distance Learning', in A. Tait & R. Mills. Rethinking Learner Support in Distance Education, pp. 64-76. London: Routledge Falmer. 2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2013), Nghị quyết 29-NQ/TW về "Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế." 3. Mai Văn Tỉnh (2016) "Tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 tới giáo dục đào tạo đặc biệt là vai trò của người thầy", Báo Giáo dục Việt Nam 4. Thủ tướng Chính phủ (2015), Quyết định số 1559/QĐ-TTg, quyết định phê duyệt đề án "Phát triển đào tạo từ xa giai đoạn 2015 - 2020" 5. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Thông tư 10/2017-TT/BGDĐT, ban hành quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học. 6. 7. https://moet.gov.vn
File đính kèm:
- co_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_dao_tao_tu_xa_o_bac_dai_hoc_tro.pdf