Công tác xã hội trường học: Vấn đề cơ bản
Theo các tài liệu đã được công bố năm 1871 Vương quốc Anh là nước đầu
tiên trên thế giới triển khai các dịch vụ công tác xã hội vào trong hệ thống các
trường học, trong đó các nhân viên công tác xã hội học đường có nhiệm vụ giúp đỡ
học sinh vượt qua những khó khăn về tâm lý xã hội, giúp các em học sinh phát huy
tối đa tiềm năng và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập. Sau đó là các trường
học tại New York, Boston và Hartfort vào năm 1906 trong nỗ lực hỗ trợ chương
trình xóa mù chữ trong các gia đình ở Mỹ. Tiếp đó là sự phát triển công tác xã hội
học đường ở Thụy Điển năm 1950, các nước Canada, Autralia vào những năm
1940, các nước châu Âu như Phần Lan, Đức vào những năm 1960, New Zeland,
Singgapore, Trung Quốc (Đài Loan, Hồng Kong) vào thập kỉ 70, cho đến những
năm 80 và 90 tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ, Ả Rập Xê ut
Như vậy, công tác xã hội trong trường học đã xuất hiện từ rất sớm, bắt đầu ở
các nước phương Tây có nền an sinh xã hội phát triển rồi lan rộng sang các nước
châu Á, châu Úc.
Tuy nhiên, đến nay, ngành công tác xã hội học đường phát triển hơn cả vẫn
là ở Mỹ, mô hình công tác xã hội học đường ở Mỹ có thể gọi là nền móng vững
chắc để phát triển ngành công tác xã hội học đường nói chung. Trong khuôn khổ
cuốn sách này, chúng tôi sẽ giới thiệu về lịch sử hình thành công tác xã hội học
đường ở Mỹ, để bạn đọc có cái nhìn tổng quan hơn về công tác xã hội học đường.
a) Lịch sử công tác xã hội học đường/trường học ở Mỹ
Lịch sử công tác xã hội học đường ở Mỹ bắt đầu từ hơn 100 năm trước. Đầu
thập niên 1900, tại 3 thành phố lớn của Mỹ là Hathfod, Boston và New York, nhân
viên phúc lợi xã hội của các cơ quan trong cộng đồng địa phương đã bắt đầu đến
thăm trường học để hỗ trợ cho những trẻ em cần bảo hộ ở địa phương. Những nhân2
viên này được gọi là ‘giáo viên thăm hỏi’ (visiting teacher) và đó chính là mô hình
tiền thân để ngày nay nhân viên công tác xã hội học đường được công nhận là nhân
lực chuyên môn hoạt động bên trong nhà trường. Trong 100 năm qua công tác xã
hội học đường ở Mỹ đã, đang và sẽ không ngừng biến đổi theo hoàn cảnh xã hội và
môi trường giáo dục.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Công tác xã hội trường học: Vấn đề cơ bản
1 CÔNG TÁC XÃ HỘI TRƯỜNG HỌC: VẤN ĐỀ CƠ BẢN 1.Lịch sử hình thành công tác xã hội trong trường học Theo các tài liệu đã được công bố năm 1871 Vương quốc Anh là nước đầu tiên trên thế giới triển khai các dịch vụ công tác xã hội vào trong hệ thống các trường học, trong đó các nhân viên công tác xã hội học đường có nhiệm vụ giúp đỡ học sinh vượt qua những khó khăn về tâm lý xã hội, giúp các em học sinh phát huy tối đa tiềm năng và thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ học tập. Sau đó là các trường học tại New York, Boston và Hartfort vào năm 1906 trong nỗ lực hỗ trợ chương trình xóa mù chữ trong các gia đình ở Mỹ. Tiếp đó là sự phát triển công tác xã hội học đường ở Thụy Điển năm 1950, các nước Canada, Autralia vào những năm 1940, các nước châu Âu như Phần Lan, Đức vào những năm 1960, New Zeland, Singgapore, Trung Quốc (Đài Loan, Hồng Kong) vào thập kỉ 70, cho đến những năm 80 và 90 tại Nhật Bản, Hàn Quốc, Mông Cổ, Ả Rập Xê ut Như vậy, công tác xã hội trong trường học đã xuất hiện từ rất sớm, bắt đầu ở các nước phương Tây có nền an sinh xã hội phát triển rồi lan rộng sang các nước châu Á, châu Úc. Tuy nhiên, đến nay, ngành công tác xã hội học đường phát triển hơn cả vẫn là ở Mỹ, mô hình công tác xã hội học đường ở Mỹ có thể gọi là nền móng vững chắc để phát triển ngành công tác xã hội học đường nói chung. Trong khuôn khổ cuốn sách này, chúng tôi sẽ giới thiệu về lịch sử hình thành công tác xã hội học đường ở Mỹ, để bạn đọc có cái nhìn tổng quan hơn về công tác xã hội học đường. a) Lịch sử công tác xã hội học đường/trường học ở Mỹ Lịch sử công tác xã hội học đường ở Mỹ bắt đầu từ hơn 100 năm trước. Đầu thập niên 1900, tại 3 thành phố lớn của Mỹ là Hathfod, Boston và New York, nhân viên phúc lợi xã hội của các cơ quan trong cộng đồng địa phương đã bắt đầu đến thăm trường học để hỗ trợ cho những trẻ em cần bảo hộ ở địa phương. Những nhân 2 viên này được gọi là ‘giáo viên thăm hỏi’ (visiting teacher) và đó chính là mô hình tiền thân để ngày nay nhân viên công tác xã hội học đường được công nhận là nhân lực chuyên môn hoạt động bên trong nhà trường. Trong 100 năm qua công tác xã hội học đường ở Mỹ đã, đang và sẽ không ngừng biến đổi theo hoàn cảnh xã hội và môi trường giáo dục. Thời kỳ giáo viên thăm hỏi (Nửa đầu thập niên 1900~ thập niên 1930) Nửa đầu thập niên 1900 nhân viên công tác xã hội thuộc các cơ quan xã hội địa phương ở 3 thành phố của Mỹ là Hathfod, Boston và New York đã thăm hỏi các trường học ở địa phương với tư cách là giáo viên thăm hỏi. Công việc của giáo viên thăm hỏi ở đây chủ yếu hỗ trợ các em học sinh cần bảo hộ để các em thích nghi với trường học và nâng cao thành tích học tập, cung cấp dịch vụ liên kết giữa cộng đồng địa phương-trường học-gia đình và hỗ trợ để trường học có thể thực hiện chính sách giáo dục theo sự biến đổi của môi trường xã hội. Năm 1913 lần đầu tiên Sở giáo dục New York đã tuyển dụng giáo viên thăm hỏi vào vị trí giáo viên chính thức và điều này là tiền đề để nhân viên công tác xã hội trong trường học được công nhận là nhân lực chuyên môn của chế độ trường học. Năm 1919 Hiệp hội giáo viên thăm hỏi Mỹ (National Association of Visiting Teachers) được thành lập. Như vậy, chỉ trong thời gian ngắn đưa nhân viên công tác xã hội vào học đường, Mỹ nhận thấy có sự thay đổi tích cực với các vấn đề trong trường học và nhân viên công tác xã hội đã được tuyển dụng vào vị trí chính thức trong trường học, không còn là cán bộ chuyên trách đứng ngoài hệ thống nhà trường. Vai trò quan trọng nhất của nhân viên công tác xã hội trường học thời kỳ này là liên kết cộng đồng địa phương-trường học-gia đình và hỗ trợ để trường học thực hiện chính sách giáo dục tùy theo sự biến đổi của môi trường xã hội và điều chỉnh chính sách trường học có ảnh hưởng tiêu cực đến trẻ em. Thời kỳ chuyên môn hóa (Thập niên 1940~ nửa đầu thập niên 1980) 3 Từ nửa sau thập niên 1920, xã hội Mỹ quan tâm nhiều hơn đến sức khỏe tinh thần.Chính từ ảnh hưởng đó, vai trò của nhân viên công tác xã hội trong trường học cũng bắt đầu thay đổi. Vai trò người liên kết giữa cộng đồng xã hội - trường học - gia đình như lúc ban đầu đã chuyển dần thành vai trò của chuyên gia sức khỏe tinh thần và nhấn mạnh phòng ngừa và điều trị sức khỏe tinh thần. Nhân viên phúc lợi xã hội dần dần được công nhận là nhân lực chuyên môn trong chế độ học đường thì tên gọi của giáo viên thăm hỏi cũng được đổi thành nhân viên Công tác xã hội học đường,và vào năm 1945 Hiệp hội giáo viên thăm hỏi Mỹ (National Association of Visiting Teachers) đổi tên thành Hiệp hội nhân viên CTXHHĐ Mỹ (National Association of School Social Workers). Trong thời gian này, nhân viên công tác xã hội học đường quan tâm chủ yếu đến sức khỏe tinh thần của học sinh. Tuy nhiên trong thập niên 1960 diễn ra cuộc vận động nhân quyền có bàn về các vấn đề bất bình đẳng cơ hội giáo dục trên toàn xã hội, sự thiếu hi vọng của giáo viên với trẻ em thuộc giai cấp thu nhập thấp và sự xa lánh từ nhà trường của phụ huynh học sinh. Vì những lý do đó, Nhân viên công tác xã hội học đường đã hỗ trợ để tái cơ cấu chức năng của nhà trường một lần nữa và nhấn mạnh sự can thiệp tích cực vào môi trường xã hội gây ảnh hưởng lên trường học và học sinh. Trong thời điểm đó, Luật giáo dục trẻ em khuyết tật (Education for All Handicapped Children Act) thông qua năm 1975 đã đưa ra căn cứ hợp pháp chứng minh học sinh khuyết tật được xem là đối tượng dịch vụ chủ yếu của nhân viên công tác xã hội học đường. Thời kì dịch vụ tổng hợp liên kết trường học (Nửa sau thập niên 1980 đến nay) Từ sau thập niên 1980 ở Mỹ đặt ra câu hỏi về chất lượng giáo dục nhà trường và các cuộc vận động cải cách giáo dục được triển khai từ đó. Như vậy, ngoài chức năng giáo dục, trường học còn được hiểu là hệ thống xã hội cung cấp các dịch vụ phúc lợi phổ quát và được hiểu là trung tâm liên kết và cung cấp các 4 dịch vụ y tế xã hội đa dạng cần thiết cho học sinh. Từ nhu cầu đó dịch vụ liên kết trường học (school- linked services) được ra đời và xem như là mô hình mới của công tác xã hội học đường. Trong mô hình này, nhân viên công tác xã hội học đường được nhấn mạnh ở vai trò người quản lý tình huống cụ thể không chỉ cung cấp trực tiếp các dịch vụ công tác xã hội học đường cho học sinh mà con liên kết và quản lý các nguồn lực đa dạng trong cộng đồng địa phương. Và Nhân viên công tác xã hội học đường được nhấn mạnh hơn ở vai trò liên kết và điểu chỉnh gia đình, trường học và cộng đồng địa phương. Học sinh khuyết tật vẫn là đối tượng dịch vụ chủ yếu của nhân viên công tác xã hội học đường và nhân viên công tác xã hội học đường thực hiện vai trò tích cực hơn nữa khi can thiệp giai đoạn đầu với trẻ em khuyết tật. Ngoài ra, do nhu cầu đa dạng của dân số học sinh cũng như đói nghèo, lạm dụng thuốc và bạo lực tăng lên nên tính cần thiết của việc nhân viên công tác xã hội học đường phải can thiệp tích cực vào các dịch vụ giải quyết triệt để đói nghèo, lạm dụng chất độc hại và bạo lực được nhấn mạnh hơn. (Allen-Meares et al., 2000). Tiêu chuẩn công tác xã hội học đường của Hiệp hội nhân viên công tác xã hội Mỹ năm 2002. 1.Nhân viên CTXHHĐ tuân thủ giá trị và luân lý của nghề chuyên môn CTXH và làm theo chỉ dẫn luân lý của hiệp hội nhân viên CTXH Mỹ khi đưa ra quyết định mang tính luân lý. 2. Nhân viên CTXHHĐ phải chú ý đến thứ tự trước sau của trách nhiệm khi thực hiện trách nhiệm và vai trò được giao để tổ chức thời gian, năng lượng và nhiệm vụ. 3. Nhân viên CTXHHĐ tư vấn để nhân viên các cơ quan xã hội địa phương, thành viên Ủy ban điều hành nhà trường và các đại biểu của cộng đồng địa phương có thể hiểu rõ và ứng dụng hiệu quả hơn các dịch vụ CTXHHĐ. 5 4. Nhân viên CTXHHĐ cung cấp các dịch vụ hỗ trợ cho học sinh và gia đình học sinh giúp họ hiểu tính đa dạng của văn hóa. 5. Mở rộng các dịch vụ CTXHHĐ theo hướng tham gia tối đa nhằm nâng cao năng lực cá nhân của học sinh và giúp học sinh tự lên kế hoạch học tập cho mình. 6. Nhân viên CTXHHĐ củng cố khả năng để học sinh và gia đình học sinh có thể sử dụng hiệu quả các nguồn lực chính thức và phi chính thức trong cộng đồng địa phương. 7.Nhân viên CTXHHĐ tuân thủ các điều lệ bảo hộ cuộc sống riêng và giữ bí mật. 8. Nhân viên CTXHHĐ ủng hộ học sinh và gia đình học sinh có hoàn cảnh đa dạng. 9.Nhân viên CTXHHĐ làm việc với tư cách vừa là người lãnh đạo vừa là thành viên của nhóm đa chuyên môn, hợp lực để huy động các nguồn lực trong cộng đồng địa phương và các cơ quan giáo dục thuộc địa phương có tác dụng đáp ứng nhu cầu của học sinh và gia đình học sinh. 10.Nhân viên CTXHHĐ xây dựng và cung cấp các chương trình tập huấn và giáo dục phù hợp với mục đích và sứ mệnh của giáo dục. 11.Nhân viên CTXHHĐ bảo quản tài liệu chính xác liên quan đến kế hoạch, điều hành và đánh giá các dịch vụ CTXHHĐ. 12.Nhân viên CTXHHĐ cung cấp thông tin hỗ trợ trực tiếp khi thực hiện kế hoạch can thiệp các hành vi có vấn đề và giải quyết nhu cầu của từng cá nhân học sinh. 13. Nhân viên CTXHHĐ cụ thể hóa các kế hoạch đánh giá có ích cho việc triển khai và thi hành can thiệp trên cơ sở hoàn cảnh và nâng cao năng lực học tập. 14.Nhân viên CTXHHĐ với tư cách là người trung gian biến đối hệ thống, xây dựng các dịch vụ mà họ có thể xác định và thúc đẩy các nhu cầu mà các cơ quan giáo dục địa phương và cộng đồng địa phương không thể nắm bắt. 15.Nhân viên CTXHHĐ được tập huấn các chiến lược hòa giải hay giải quyết mâu thuẫn và áp dụng nó giúp học sinh có thể giải quyết những xung đột mang tính phi sản xuất bên trong trường học hay cộng đồng địa phương, và phát triển quan hệ 6 mang tính sản xuất. 16. Nhân viên CTXHHĐ tuân theo quy định thực hành của Hiệp hội nhân viên CTXH Mỹ. 17. Nhân viên CTXHHĐ lĩnh hội và hiểu biết các tri thức chuyên môn về CTXHĐ. 18.Nhân viên CTXHHĐ hiểu bối cảnh gây ảnh hưởng đến học tập của học sinh và có kinh nghiệm rộng lớn. 19. Nhân viên CTXHHĐ biết và hiểu tổ chức và cơ cấu của các cơ quan giáo dục địa phương. 20.Nhân viên CTXHHĐ biết và hiểu lực ảnh hưởng lẫn nhau giữa gia đình, nhà trường và cộng đồng địa phương. 21.Nhân viên CTXHHĐ duy trì và bồi dưỡng các kỹ năng cần thiết cho điều tra mang tính hệ thống. 22.Nhân viên CTXHHĐ hiểu trách nhiệm và mối quan hệ với quản lý gây ảnh hưởng đến học sinh. 23.Nhân viên CTXHHĐ chọn lựa và áp dụng phương pháp ngăn ngừa và can thiệp có tính khả năng cao hoặc được kiểm chứng thực tế bằng việc nâng cao kinh nghiệm giáo dục cho học sinh. 24. Nhân viên CTXHHĐ đánh giá thực hành và thông báo các phát hiện đó cho người tham gia, cơ quan giáo dục địa phương, cộng đồng địa phương và nhóm chuyên gia. 25.Nhân viên CTXHHĐ có kỹ năng liên hiệp các đơn vị địa phương, vùng , quốc gia hỗ trợ cho học sinh thành công. 26.Nhân viên CTXHHĐ phát huy sự hợp tác với người cung cấp dịch vụ y tế tinh thần và y tế cộng đồng địa phương, và giúp đỡ để học sinh dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ này. 27. Nhân viên CTXHHĐ với tư cách là chuyên gia có trách nhiệm liên tục nghiên cứu phương án phát triển tuân theo tiêu chuẩn và điều kiện của bộ chủ quản về giáo dục chuyên môn liên tục của Hiệp hội CTXH Mỹ. 28.Nhân viên CTXHHĐ góp phần vào sự phát triển của nghề chuyên môn thông qua 7 giáo dục và hướng dẫn thanh tra nơi làm việc CTXHHĐ. 29.Bộ giáo dục hay các cơ quan của bộ chủ quản có trách nhiệm công nhận các nguồn lực liên quan đến giáo dục quy định việc thực hành CTXHHĐ. 30.Bộ giáo dục hay các cơ quan của bộ chủ quản có trách nhiệm công nhận các nguồn lực liên quan đến giáo dục phải tuyển dụng nhân viên CTXHHĐ đúng chuyên môn và có kinh nghiệm vào vị trí chuyên gia CTXHHĐ của cơ quan dưới bộ chủ quản. 31. Nhân viên CTXHHĐ đúng chuyên môn được cơ quan giáo dục địa phương tuyển dụng phải cung cấp các dịch vụ CTXHHĐ. 32.Cơ quan giáo dục địa phương phải tuyển dụng nhân viên CTXHHĐ có tiêu chuẩn tư cách cao nhất. 33. Nhân viên CTXH trong nhà trường được gọi là ‘nhân viên CTXHHĐ’. 34.Lương và thưởng của nhân viên CTXHHĐ phải tuân thủ đúng theo giáo dục, trách nhiệm và kinh nghiệm của họ, và bình đẳng với các chuyên gia có tư cách tương ứng được cơ quan giáo dục địa phương tuyển dụng. 35.Cơ cấu hành chính của cơ quan giáo dục địa phương đưa ra mục tiêu tương lai phù hợp của CTXHHĐ. 36.Cơ cấu hành chính của cơ quan giáo dục địa phương đưa ra chính sách rõ ràng về nguồn gốc và trách nhiệm cho các chương trình CTXHHĐ. 37.Cơ quan giáo dục địa phương cung cấp môi trường làm việc chuyên môn để nhân viên CTXHHĐ có thể thực hiện các dịch vụ một cách hiệu quả. 38.Cơ quan giáo dục địa phương tạo cơ hội cho nhân viên CTXHHĐ tham gia vào các hoạt động phát triển chuyên môn có ích cho việc thực hành CTXHHĐ. 39.Mục đích, mục tiêu và nhiệm vụ của dịch vụ CTXHHĐ phải rõ ràng nhưng cũng phải liên quan trực tiếp đến sứ mệnh và quá trình đào tạo của cơ quan giáo dục địa phương. 40. Cơ quan giáo dục địa phương hỗ trợ để nhân viên CTXHHĐ có thể hợp tác với người cung cấp các dịch vụ xã hội, y tế tinh thần và y tế cộng đồng địa phương liên quan 8 đến trường học nhằm tìm ra kế hoạch cho sự thành công về giáo dục của học sinh. 41. Phải đánh giá liên tục tất cả các chương trình của dịch vụ CTXHHĐ để phán đoán liệu nó có góp phần vào sự thành công giáo dục học sinh. 42.Cơ quan giáo dục địa phương giải thích và hiểu tỷ lệ học sinh so với nhân viên CTXHHĐ để đưa ra số lượng công việc phù hợp. b) Lịch sử Công tác xã hội trường học ở Việt Nam Công tác xã hội được coi là ngành khoa học khá mới ở Việt Nam, do vậy công tác xã hội trường học được hình thành và phát triển dần dần với sự tác động của ngành khoa học này đến các lĩnh vực của đời sống xã hội và với các đối tượng khác nhau, tuy nhiên, ở Việt Nam, công tác xã hội trường học được phát triển hơn cả ở miền Nam. Đại học Mở thành phố Hồ Chí Minh là cơ sở đào tạo về công tác xã hội tiên phong trong cả nước khi mở mã ngành đào tạo công tác xã hội học đường. Trong quá trình hình thành, để thúc đẩy sự phát triển của công tác xã hội học đường trường Đại học Mở đã triển khai dự án thí điểm công tác xã hội học đường tại hai trường Chu Văn An (Quận1) và Hưng Phú (Quận 8) từ năm 1999- 2001. Tại mỗi trường học này, có một nữ nhân viên công tác xã hội làm việc thường xuyên với học sinh để giải quyết các vấn đề liên quan đến học hành, tình cảm, tâm sinh lý, mối quan hệ thầy cô, vấn đề gia đình. Các em học sinh ở các trường học này có thể đến các trung tâm công tác xã hội đặt trong trường gặp nhân viên công tác xã hội để tìm kiếm sự giúp đỡ - các nhân viên công tác xã hội sẽ sử dụng kiến thức, kĩ năng, phương pháp công tác xã hội phù hợp để giải quyết vấn đề của học sinh đạt hiệu quả. Có thể thấy rằng từ những ngày đầu triển khai, mặc dù nguồn nhân lực còn hạn chế, đối tượng mà nhân viên công tác xã hội tiếp cận trong trường học chỉ là học sinh nhưng kết quả của dự án thí điểm công tác xã hội học đường đã được đánh giá thành công, đã cải thiện được mối quan hệ giữa học sinh với học sinh, học sinh với thầy cô giáo và các vấn đề cá nhân của học sinh. 9 Từ thành công của dự án th ... n tổn thương về nhận thức-cảm xúc và hành vi. • SKTT tốt: Đạt các chuẩn phát triển tâm lý bình thường của lứa tuổi mình, và không có biểu hiện tổn thương về nhận thức-cảm xúc và hành vi. SKTT bị tổn thương cơ 2 nhóm rối loạn: - Các rối loạn tâm thần nặng, mạn tính hoặc các khuyết tật về tâm thần như tâm thần phân liệt, loạn thần cảm xúc, tự kỷ, di tật tâm thần(10-20%) - Các trạng thái không thoải mái về tâm lý do căng thẳng bởi các chấn thương tâm lý từ phía môi trường sống gia đình, trường học, văn hoá xã hội, cộng đồng... như rối loạn ngủ, biếng ăn, mệt mỏi, giảm chú ý, quá hiếu động, giảm sút học tập, 70 thiếu hứng thú, xa lánh, ngại giao tiếp, lo sợ hốt hoảng, buồn chán, tự tử ... đến rối loạn hành vi chống đối, làm trái pháp luật, nghiện hút (chiếm tỷ lệ lớn từ 80-90% trong SKTT) SKTT Trẻ em Sức khoẻ tinh thần trẻ em là sự thỏa mãn, hài lòng của trẻ về nhu cầu tình cảm, tinh thần, quan hệ giao tiếp với những người xung quanh. Sức khoẻ tinh thần trẻ em thể hiện bằng sự sảng khoái, cảm giác dễ chịu, cảm xúc vui tươi, thanh thản, ý nghĩ lạc quan, yêu đời, quan niệm sống tích cực, dũng cảm, chủ động, khả năng chống lại những suy nghĩ tiêu cực và lối sống không lành mạnh của các em. Sức khoẻ tinh thần trẻ em là nguồn lực giúp các em sống khoẻ mạnh, là nền tảng cho chất lượng cuộc sống, giúp cá nhân ứng phó một cách tự tin và hiệu quả trước những thử thách, nguy cơ trong cuộc sống. Sức khoẻ tinh thần giúp các em có một sinh khí để hoạt động tích cực, thành đạt trong cuộc sống và trong các mối quan hệ xã hội trên nền tảng công bằng và tôn trọng lẫn nhau. 8.3.2. Công tác xã hội trường học với vấn đề SKTT của học sinh Ở các nước phát triển, mặc dù có hệ thống cơ sở hỗ trợ tâm lý và chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần lâu đời và phong phú, nhưng người ta đều nhận thấy rằng hầu hết các trẻ em có nhu cầu hỗ trợ SKTT đều không được đáp ứng thỏa đáng. Trong số những trẻ được đáp ứng thì phần lớn là thông qua hệ thống trường học (Burns et al., 1995). Lý do dường như rất hiển nhiên: 1/3 thời gian trong ngày của trẻ diễn ra ở nhà trường; và nhà trường vốn từ trước đến nay luôn thực hiện vai trò dưỡng dục trẻ, tức là đảm bảo cho trẻ một sự phát triển toàn diện và hoàn thiện nhân cách; và do vậy, nhà trường luôn sẵn sàng tổ chức các hoạt động trợ giúp, hỗ trợ các em khi gặp những khó khăn. Trên thực tế, trẻ cũng có thể đến các phòng khám/trung tâm tư vấn để nhận được sự hỗ trợ này nhưng thường khi đó, những khó khăn đã trở nên trầm trọng hơn, có thể đã trở thành bệnh lý và nhiều người rất ngại đến các 71 phòng khám chăm sóc SKTT vì sợ bị định kiến, kì thị. Ngoài ra, lợi thế nữa ở trường học là khi thực hiện, các hoạt động này cũng dễ dàng tiếp cận đến số đông. Chính vì thế, ở những nước này, chính sách tăng cường cung cấp các dịch vụ hỗ trợ SKTT đã quan tâm đến việc chuyển dịch và hướng các hình thức chăm sóc, hỗ trợ truyền thống vào cơ cấu nhà trường. Chính vì thế, đối với vấn đề phòng ngừa và can thiệp các vấn đề SKTT của học sinh là một nhiệm vụ vô cùng quan trọng của NVCTXHTH. Có rất nhiều mô hình và phương pháp phòng ngừa và can thiệp các vấn đề SKTT của học sinh song NVCTXHTH cần tập trung vào mô hình ba mức độ: Mức độ đầu tiên là dựa trên cơ sở khoa học, thiết kế các chương trình phòng ngừa các vấn đề SKTT thông qua lồng ghép vào các môn học, xây dựng bầu không khí học tập lành mạnh và chương trình cụ thể trong lớp học (rèn luyện kĩ năng xã hội, kỹ năng sống v.v). Các hoạt động của chương trình này phải có tính phổ biến, đan xen diện rộng để tất cả các học sinh đều có thể tham gia vào. Mục tiêu của chương trình phòng ngừa là giảm bớt các yếu tố nguy cơ, hình thành khả năng đương đấu với khó khăn ở học sinh, và đảm bảo học sinh có sự phát triển tâm lý lành mạnh. Mức độ thứ hai là xác định những học sinh cần được chăm sóc (có 1 hoặc nhiều hơn các vấn đề SKTT nhưng vẫn học tập và sống tương đối bình thường). Hai cách xác định là đánh giá tâm lý toàn trường qua bảng hỏi tâm lý cho học sinh, thầy cô giáo, phụ huynh, hoặc sự giới thiệu của giáo viện, nhân viên trong trường hoặc phụ huynh và sau đó triển khai trị liệu can thiệp cho các em này. Mức độ thứ 3 là các hoạt động can thiệp. (a) Tham khảo với giáo viên về các vấn đề hành vi và đề nghị có thể thay đổi môi trường trong lớp theo cách làm giảm bớt vấn đề hành vi (b) Trị liệu cá nhân, (c) can thiệp trị liệu nhóm, gia đình hướng đến nhóm đối tượng những em học sinh có được chẩn đoán có vấn đề SKTT. 72 Như vậy, dịch vụ SKTTNT có đủ các mức độ, từ hộ trợ đơn giản do các nhà tham vấn học đường hoặc NVCTXHTH thực hiện đến các chương trình phòng ngừa, đánh giá/chẩn đoán, trị liệu toàn diện, tích hợp được thực hiện trong trường học do sự kết nối, tìm kiếm và giới thiệu dịch vụ của NVCTXHTH. 8.4. Công tác xã hội trong trường học với vấn đề học sinh nghiện game online (trò chơi trực tuyến) 8.4.1. Khái quá chung về trò chơi trực tuyến Khái niệm nghiện trò chơi trực tuyến Nghiện trò chơi trực tuyến: Những người nào sử dụng internet mà dành hơn 6h đồng hồ hoặc hơn thế mỗi ngày cho việc chơi trò chơi trực tuyến và có biểu hiện ít nhất 1 triệu chứng gồm khó ngủ hoặc mất tập trung, khát khao được lên mạng, các giận và đau đớn về thể xác hoặc tinh thần thì được gọi là nghiện trò chơi trực tuyến. Tuy nhiên, theo các nhà lâm sang tâm thần học, trong sổ tay chẩn đoán và thống kê về những rối loạn tâm thần ấn bản lần thứ 4 (gọ tắt là DSM_IV của Hiệp hôị tâm thần Mỹ (1995) có mục “nghiện đánh bạc quá mức”. Mục này có thể được xem tương tự đối với nhu cầu tự nhiên quá mứ của việc nghiện trò chơi trực tuyến. Nghiện trò chơi trực tuyến có thể được định nghĩa là 1 rối loạn kiểm soát xung lực, không lien quan đến chất gây nghiện. Theo giáo sư Jerald Block của Đại học Khoa học và Y tế Oregon, 4 triệu chứng nghiện trò chơi trực tuyến chính là: quên thời gian, sao nhãng ăn uỗng và ngủ, tức giận, căng thẳng, bồn chồn khi không thể lên mạng, cần trang bị máy tính mạnh hơn, nhiều phần mềm mới, biểu hiện trầm cảm, hay cáu giận và tách biệt với xã hội. Đặc điểm của người nghiện trò chơi trực tuyến 73 - Ngồi chơi trò chơi trực tuyến hơn 5h/1ngày hoặc không có cảm giác về thời gian, không gian khi đang chơi - Luôn bị thôi thúc bởi các hình ảnh trong trò chơi, cố gắng giảm thiểu thời gian ngồi trước máy nhưng đều thất bại - Giấu gia đình hoặc người thân để thường xuyên chơi - Quên mất các sự kiện quan trọng hoặc không thực hiện đầy đủ các công việc liên quan đến máy tính do dành quá nhiều thời gian vào việc chơi trò chơi trực tuyến - Chăm chút cho nhân vật chơi hơn là quan tâm đến bản than và những người xung quanh, hầu như không có bạn bè và không muốn tham gia các hoạt động xã hội - Khi tách khỏi trò chơi, phản ứng của họ trở nên chậm chạp, kém linh hoạt - Tiếp tục chơi trò chơi trực tuyến bắt chấp những trục trặc, khó khăn trong công việc, trong các mối quan hệ gia đình - Có những dấu hiệu của chứng suy ngược và có xu hướng hành xử theo các mối quan hểtong trò chơi - Một số người còn thường xuyên không ngủ lien tục nhiều tiến đồng hồ và nghĩ đến những cuộc ganh đua trong trò chơi * Đối với học sinh nghiện trò chơi trực tuyến thì thường kèm theo các biểu hiện sau: - Nhiều em có biểu hiện của các rối loạn hành vi như: ăn cắp, nói dối, bỏ nhà đi, trốn học, ngủ gật trong giờ học - Hầu hết những trẻ chịu ảnh hưởng nhiều từ trò chơi trực tuyến đều ít có kỉ luật trong cuộc sống, hay lúng túng, hung hăng. - Tai hại hơn khi có những em gái bị rối loạn giới tính. - Hậu quả của việc sắm vai nhân vật quá lâu nên thích có những biểu hiện anh hung. 74 Nguyên nhân nghiện trò chơi trực tuyến (1) Sự hỗ trợ giao lưu Hỗ trợ giao lưu được hình thành trên cơ sở một nhóm người tham gia vào việc giao tiếp qua máy tính điều đặn với một người khác , với một lượng thời gian kéo dài. Với những lần ghé thăm thường lệ một nhóm cụ thể nào đó ( Khu vực chát hay nhóm tin tức), do mức độ quen thuộc cao trong số các thành viên được hình thành, tạo nên một ý nghĩa cộng đồng . Giống như tất cả các cộng đồng , văn hoá không gian máy tính( Cyberspace) có những giá trị , tiêu chuẩn, ngôn ngữ, ký hiệu của riêng nó. Đó là những điều do con người tạo ra và các cá nhân tham gia thích nghi với qui chuẩn hiện tại của nhóm đó. (2). Tạo ra một tính cách Mỗi người sử dụng mạng đều có khả năng loại bỏ những áp đặt của cuộc sống để thử nghiệm những cảm nhận thay đổi của bản thân. Những khám phá trong nghiên cứu cho thấy giao tiếp thông qua không gian ảo, và các trò chơi tạo ra một " sân khấu " ảo để một người có thể " diễn " một vai mới thông qua việc tạo ra những cái tên được hư cấu làm thay đổi đặc điểm thể chất của mình như giới tính, tuổi tác hay chủng tộc để nuôi dưỡng một tính cách hay hình ảnh giả dối của bản thân. (3). Được công nhận có sức mạnh Tính cách thể hiện trên trò chơi giúp cá nhân có được một sự công nhận ảo và đạt được sức mạnh nổi bật nhất qua việc tạo ra những nhân vật hoàn hảo. Quyền lực của các nhân vật tạo ra ảo tưởng về vai trò lãnh đạo của người chơi với những người cấp dưới. Người nghiện trò chơi trực tuyến có ước muốn trở nên có uy lực hơn trong các nhân vật của mình dẫn đến việc được công nhận như một nhà lãnh đạo đầy quyền năng. Bằng cách tái tạo lại bản thân , một người chơi trò chơi trực tuyến có thể phát triển những thuộc tính cá nhân đã không được biểu lộ trong cuộc 75 sống hàng ngày,một người yếu ớt có thể trở nên mạnh mẽ, một người hay sợ hãi , nhút nhát có thể trở nên can đảm. Như vậy, nghiện trò chơi trực tuyến ở trẻ em xuất phát từ một số nguyên nhân. Trước hết, các trò chơi trực tuyến đòi hỏi nhiều người chơi, khi tham gia vào 1 nhóm để chơi các em thường có sự trao đổi, giao lưu, gặp gỡ(online)các em đều cùng lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý khá tương đồng, điều này khiến cho các em thấy vui và cảm nhận được sự chia sẻ từ những người bạn chơi. Những xung đột tâm lý trong tuổi dậy thì ở thanh thiếu niên dẫn đến việc nghiện nghiện trò chơi trực tuyến. Do sự phát triển của tâm sinh lý, các em mong muốn trở thành người lớn, muốn người lớn phải tôn trọng mình. Tuy nhiên, nhiều bố mẹ không quan tâm đến điều đó, cách giáo dục bằng roi vọt hoặc tình yêu thương thể hiện bằng sự áp đặt, khiến các em cảm thấy cô đơn, bất mãn và tham gia trò chơi như một cách thể hiện bản thân, chia sẻ cảm xúc, dẫn đến những hành vi tai hại và ảnh hưởng trầm trọng đến thể chất, tinh thần. Các em ở lứa tuổi học sinh có cùng 1 đặc điểm là hiếu động, tò mò, ưa khám phá và do hệ thần kinh của người chơi khá yếu đuối, tính tự chủ và khả năng độc lập kém. Những người có hệ thần kinh dễ bị xúc động thường bị lôi kéo, bị phụ thuộc bởi sức hấp dẫn của những trò chơi này. Hơn nữa, hiểu biết, kiến thức của các em về tác hại các trò chơi trực tuyến này chưa đầy đủ, do vậy càng dễ xa đà vào nó. Ở trẻ có cơ chế tập nhiễm. Thời gian tập nhiễm càng lâu, việc chữa trị càng khó. Nếu từ bé,trẻ nhìn thấy bố hay mẹ tham gia các trò chơi trúng thưởng, sẽ tác động vàoý nghĩ của trẻ rằng, vui chơi có thưởng là một sở thích, một việc làm tốt. Khi đã nhiễm phải ý nghĩ này, nếu lớn lên các em lại nghiện trò chơi trực tuyến,nghiện các trò chơi thắng thua thì việc chữa trị vô cùng khó. Có thể nói chơi trò chơi trực tuyến cũng như bất kỳ trò chơi nào cũng vậy đều phải có bạn bè đi cùng: thứ nhất họ hướng dẫn mình, thứ hai là có người chơi 76 cùng, thứ ba là có đối thủ cạnh tranh.... và còn rất nhiều nguyên nhân khác nữa. Trong những cuộc nói chuyện thường ngày giữa bạn bè cùng trang lứa, thường có những câu khích lệ sao cho các bạn phải thán phục hay có tính chất lôi kéo vào trò chơi luôn được thể hiện. Ngoài ra những hàng game, hàng Net mọc ra khắp nơi đặc biệt là gần khu vực có nhiều học sinh (những đối tượng chơi game nhiều nhất) cũng là nguyên nhân gây ra việc chơi trò chơi trực tuyến. 8.4.2. Vai trò của NVCTXHTH trong việc hỗ trợ giải quyết vấn đề nghiện Trò chơi trực tuyến của học sinh Nhân viên công tác xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc hạn chế tác hại của trò chơi trực tuyến trong đời sống học đường như sau: - Trước hết nhân viên công tác xã hội cần phải tư vấn cho gia đình, cho các bậc phụ huynh trong việc quản lý chặt chẽ con em mình, nhất là cha mẹ cần phải hiểu được những ảnh hưởng tiêu cực của game online. Từ việc nhận thức được những ảnh hưởng tiêu cực đó mà bố mẹ sẽ không lơ là hay sao nhãng con cái mình. Từ đó có sự quản lý con cái một cách nghiêm túc và đúng đắn để định hướng cho trẻ tập trung vào việc học tránh những trò chơi mang tính bạo lực. Nhân viên công tác xã hội cần phải tư vấn cho các gia đình về vai trò của gia đình trong việc giúp con em mình tránh xa trò chơi trực tuyến và những ảnh hưởng tiêu cực của nó để từ đó hình thành định hướng giá trị nhân cách đúng đắn của các em. - Nhân viên công tác xã hội cần phải hoạt động tích cực trong môi trường học đường, cần phải tư vấn cho nhà trường những hoạt động mang ý nghĩa tác động tới nhận thức và hiểu biết của học sinh về tác hại của game online dể từ đó cung cấp kiến thức cho các em nhất là những hậu quả của các trò chơi bạo lực để lại. - Nhân viên công tác xã hội sẽ tư vấn cho nhà trường về việc tạo sân chơi cho học sinh, hay những cơ quan tổ chức khác tạo ra nhiều nơi vui chơi giải trí mang ý nghĩa cho học sinh để từ đó giúp trẻ không chú tâm vào các trò tiêu khiển và 77 tránh khỏi các trò chơi bạo lực bạo lực. Chính sân chơi cho học sinh lại là môi trường an toàn để mỗi học sinh phát triển và hoàn thiện nhân cách của mình. - Nhân viên công tác xã hội cần phải nghiên cứu và có những đề xuất với các gia đình, nhà trường nơi trẻ đang học trong việc hạn chế giờ chơi là việc hết sức cần thiết. Thời gian dành cho việc chơi trò chơi trục tuyến cần phải được điều tiết bằng nhân cách. - Nhân viên công tác xã hội cũng cần phải tham vấn và đề xuất với lực lượng chức năng để phát huy vai trò của cơ quan chức năng trong việc hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của trò chơi trực tuyến để từ đó nâng cao trách nhiệm của các cơ quan. - Tổ chức các lớp bồi dưỡng rèn luyện cho các bậc phụ huynh trong việc cung cấp kiến thức và kỹ năng để quản lý thời gian, việc học hành và nắm chắc tâm lý của con mình để từ đó giúp con mình không mắc phải căn bệnh nghiện trò chơi trực tuyến. - Cần phải đề xuất việc quản lý trò chơi trực tuyến một cách chặt chẽ đối với cơ quan và lực lượng chức năng có thẩm quyền. để từ đó có biện pháp xử lý đối với những quán internet đã vi phạm. chính điều này sẽ có tác dụng to lớn trong việc giảm thiểu tác hại của trò chơi trực tuyến. - Nhân viên công tác xã hội cần phải cùng với nhà trường khoanh vùng được các học sinh có nguy cơ nghiện trò chơi trực tuyến cao, sau đó nhanh chóng nắm bắt được biểu hiện của các em này để phối hợp cùng gia đình tìm biện pháp giúp thoát khỏi sự mê hoặc của các trò chơi thiếu lành mạnh. - Tư vấn cho các đại lý game kiểm tra chứng minh nhân dân của khách hàng chơi trò chơi trực tuyến để được quản lý chặt chẽ hơn
File đính kèm:
- cong_tac_xa_hoi_truong_hoc_van_de_co_ban.pdf