Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam

Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng phát triển nhân lực ở Việt Nam hiện

nay, những yêu cầu của đất nước trong việc phát triển nhân lực. Trên cơ sở đó,

bài viết đề xuất các giải pháp cơ bản để tiếp tục phát triển nhân lực ở nước ta.

Các giải pháp đó là: nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của phát

triển nhân lực; đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về phát triển nhân lực; huy

động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát

triển nhân lực.

pdf 10 trang yennguyen 1120
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam

Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam
Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam 
 17 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ 
PHÁT TRIỂN NHÂN LỰC Ở VIỆT NAM 
BÙI TẤT THẮNG* 
Tóm tắt: Bài viết phân tích thực trạng phát triển nhân lực ở Việt Nam hiện 
nay, những yêu cầu của đất nước trong việc phát triển nhân lực. Trên cơ sở đó, 
bài viết đề xuất các giải pháp cơ bản để tiếp tục phát triển nhân lực ở nước ta. 
Các giải pháp đó là: nâng cao hơn nữa nhận thức về tầm quan trọng của phát 
triển nhân lực; đẩy mạnh công tác quản lý nhà nước về phát triển nhân lực; huy 
động các nguồn vốn cho phát triển nhân lực; đẩy mạnh hợp tác quốc tế về phát 
triển nhân lực. 
Từ khóa: phát triển nhân lực, dân số, lao động, đào tạo nhân lực, sử dụng 
nhân lực. 
Nhân lực là nhân tố quyết định nhất 
đối với sự phát triển của mỗi quốc gia; 
đồng thời sự phát triển của quốc gia 
được đo bằng chính bản thân mức độ 
phát triển của nguồn nhân lực. Con 
người với tư cách là lực lượng sản xuất 
và với tư cách hàng hóa sức lao động, 
theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, 
có thể mua bán, “nhập khẩu” được từ 
bên ngoài khi cần thiết. Nhưng khi xuất 
hiện với tư cách công dân của một nước, 
là chủ nhân đất nước, là chủ thể của sự 
phát triển và đồng thời, cũng là người sẻ 
chia, hưởng thụ thành quả phát triển, thì 
nguồn nhân lực không thể bán mua hay 
thay thế lẫn nhau. Vì vậy, các quốc gia 
trên thế giới đều rất coi trọng phát triển 
nguồn nhân lực, tăng cường “tài sản 
hóa” nguồn nhân lực. 
Trong thế kỷ XX, đã có những quốc 
gia nghèo tài nguyên thiên nhiên, nhưng 
do biết cách phát huy tốt nguồn nhân lực 
nên đã đạt được thành tích phát triển 
kinh tế cao, nhanh chóng hoàn thành 
công cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vài 
ba thập kỷ. Ở Việt Nam, vấn đề phát 
triển nguồn nhân lực được Đảng và Nhà 
nước rất quan tâm. Trong “Chiến lược 
phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020”, 
Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng 
định: phát triển và nâng cao chất lượng 
nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực 
chất lượng cao, là một trong ba khâu đột 
phá nhằm đưa Việt Nam đến năm 2020 
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại.(*) 
1. Khái quát về thực trạng phát 
triển nhân lực ở Việt Nam hiện nay 
(*) Phó giáo sư, tiến sĩ, Viện Chiến lược phát triển. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 18 
1.1. Dân số 
Việt Nam là một trong số các quốc 
gia có quy mô dân số lớn trên thế giới: 
khoảng 87 triệu người (năm 2010), đứng 
thứ 13 thế giới, thứ 7 Châu Á và thứ 3 
trong khu vực Đông Nam Á (sau 
Indonesia và Philippines). Việt Nam 
đang ở trong thời kỳ “cơ cấu dân số 
vàng”(1). Năm 2010, dân số trong độ tuổi 
lao động (nam 15-60, nữ 15-55 tuổi) có 
khoảng 56,5 triệu người chiếm khoảng 
65% tổng dân số. Tốc độ tăng dân số có 
chiều hướng giảm, từ mức 1,65% năm 
1995 xuống còn 1,36% năm 2000 và 
1,22% năm 2008. 
Dân số Việt Nam phân bố không đều 
và có sự khác biệt lớn theo vùng. Vùng 
đông dân nhất là vùng Đồng bằng sông 
Hồng (ĐBSH) với 19,5 triệu người; 
vùng có số dân ít nhất là Tây Nguyên 
với hơn 5 triệu người. Hai vùng ĐBSH 
và Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) 
tập trung tới 43% dân số cả nước. Trong 
khi đó, Tây Nguyên và Trung du miền 
núi Bắc Bộ chỉ có khoảng 19% dân số 
cả nước sinh sống. 
Dân cư Việt Nam (năm 2010) phần 
đông vẫn còn là cư dân nông nghiệp với 
70%. Dân cư đô thị khoảng 30% và là nước 
có tỷ lệ dân số đô thị thấp trên thế giới. 
Trình độ học vấn của dân cư ở mức 
khá. Tỷ lệ biết chữ của dân số từ 15 tuổi 
trở lên đạt 94%. Số năm đi học trung 
bình của dân số 15 tuổi trở lên là 9,6 
năm. Tuy nhiên, vẫn có sự chênh lệch về 
trình độ học vấn giữa thành thị và nông 
thôn và giữa các vùng trong cả nước. 
Tuổi thọ trung bình của dân số tăng 
khá nhanh, từ khoảng 66 tuổi năm 1979 
lên 69 tuổi năm 1989 và hiện nay đạt 73 
tuổi (thuộc loại cao trong số các nước 
đang phát triển có cùng mức GDP bình 
quân đầu người). 
1.2. Lao động 
a) Lực lượng lao động 
Lực lượng lao động (dân số hoạt 
động kinh tế) hiện nay là 50,4 triệu 
người (trên tổng số 56,5 triệu người 
trong độ tuổi lao động), bằng khoảng 
58% tổng dân số; gần 3/4 số lao động ở 
khu vực nông thôn. 
Trong 10 năm qua, số lao động làm 
việc trong khối ngành nông-lâm-ngư đã 
giảm từ 65,2% năm 2000 xuống còn gần 
51% năm 2010 (24,9 triệu người). Trong 
khi khu vực công nghiệp - xây dựng đã 
có mức tăng tương ứng là từ 13% lên 
22,2% và khu vực dịch vụ tăng từ 
21,8% lên 26,9%.(1) 
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, số 
người đã qua đào tạo có chiều hướng gia 
tăng nhanh. Trong vòng 10 năm từ năm 
2000 đến năm 2010, tổng số nhân lực 
qua đào tạo tất cả các loại đã tăng hơn 
gấp 3,4 lần, từ 5,9 triệu người năm 2000 
(1) Thời kỳ cơ cấu “dân số vàng” được quan 
niệm là quãng thời gian khi tổng tỷ suất phụ 
thuộc (số người trong độ tuổi 0-14 tuổi cộng 
với số người từ 65 tuổi trở lên, chia cho số 
người trong độ tuổi 15-65) ở mức dưới 50%. 
Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam 
 19 
lên 20,1 triệu người năm 2010 (bằng 
khoảng 40% tổng số lao động). Mức 
tăng nhanh chóng này là do công tác đào 
tạo được chú trọng hơn, sự tham gia của 
xã hội rộng rãi hơn và một phần rất đáng 
kể là do lĩnh vực dạy nghề tăng rất 
nhanh. Nếu năm 2000, lao động qua đào 
tạo nghề mới chiếm 43,7% trong tổng số 
lao động đã qua đào tạo, thì năm 2005 là 
59,6% và năm 2010 là 70,8% (trong số 
này, theo số liệu của Bộ Lao động, 
Thương binh và Xã hội, bao gồm cả 
những người qua đào tạo nhưng không 
có bằng cấp, chứng chỉ). 
Tuy nhiên, theo cách phân loại trình 
độ chuyên môn kỹ thuật được Tổng cục 
Thống kê dựa trên danh mục “Giáo dục, 
đào tạo Việt Nam năm 2005” do Thủ 
tướng Chính phủ ban hành và theo định 
nghĩa của Tổ chức lao động quốc tế 
(ILO), lao động đã qua đào tạo là 
những người đã từng theo học ở một cơ 
sở đào tạo chuyên môn kỹ thuật nào đó 
và đã tốt nghiệp (có bằng, chứng chỉ 
công nhận kết quả đào tạo), thì năm 
2009, trong toàn bộ lực lượng lao động 
từ 15 tuổi trở lên có đến 75% lao động 
không có trình độ chuyên môn kỹ thuật 
và 7% lao động là công nhân kỹ thuật 
không có bằng (chưa qua đào tạo). Tỷ lệ 
lao động đã qua đào tạo chỉ chiếm 
khoảng 18% lực lượng lao động. 
Có một khoảng cách khá lớn giữa 
thành thị và nông thôn, giữa các vùng 
trong cả nước về số người được đào tạo 
chuyên môn kỹ thuật ở tất cả các trình 
độ đào tạo. Tỷ lệ được đào tạo từ trình 
độ cao đẳng trở xuống ở khu vực thành 
thị cao gấp hai lần khu vực nông thôn. 
Riêng đối với trình độ đại học và trên 
đại học thì tỷ lệ người được đào tạo ở 
thành thị cao gấp 7 lần so với khu vực 
nông thôn. 
Hai vùng ĐBSH và ĐBSCL tập trung 
đông số người được đào tạo, nhưng tỷ lệ 
tốt nghiệp đại học và trên đại học cũng 
chỉ chiếm một tỷ lệ là 6,8% và 6,6% 
trong tổng số người từ 15 tuổi trở lên. 
Thấp nhất là vùng ĐBSCL, chỉ có 2,1% 
có trình độ đại học và trên đại học. Đây 
cũng là vùng có tỷ trọng dân số trên 15 
tuổi không có trình độ chuyên môn kỹ 
thuật lớn nhất cả nước (trên 93%). 
b) Đào tạo nhân lực 
Mạng lưới các trường đại học và cao 
đẳng tính đến tháng 01/2011 có 414 
trường, tăng 261 trường so với năm 
2000; trong đó, đại học là 188 trường, 
tăng 119 trường so với năm 2000 và cao 
đẳng là 226 trường, tăng 142 trường so 
với năm 2000. Các trường dân lập và tư 
thục gồm 56 trường đại học và 190 
trường cao đẳng. 
Số trường dạy nghề đã tăng từ 156 
trường năm 2001 lên 423 trường năm 
2010; trong đó có 123 trường cao đẳng 
nghề, 300 trường trung cấp nghề. Ngoài 
ra, số trung tâm dạy nghề tăng từ 150 
trung tâm năm 2001 lên 810 trung tâm 
năm 2010. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 20 
Tuy nhiên, công tác đào tạo nhân lực 
cũng đang bộc lộ một số điểm bất hợp lý 
như dự báo cung cầu nhân lực cho toàn 
bộ nền kinh tế cũng như từng ngành/lĩnh 
vực vẫn chưa làm được, do đó không có 
thông tin chính xác nền kinh tế đang 
thiếu, thừa nhân lực trong lĩnh vực nào, 
trình độ nào, ngành nghề nào. Việc đào 
tạo nhân lực của các cơ sở đào tạo chưa 
thực sự đáp ứng được nhu cầu nhân lực 
trong nền kinh tế, gây lãng phí nguồn lực 
của nhà nước và xã hội. Chất lượng nhân 
lực đào tạo chưa đồng đều giữa các vùng, 
miền và thua kém trong so sánh quốc tế... 
c) Sử dụng nhân lực 
Theo Bộ Lao động, Thương binh và 
Xã hội, trong thời kỳ từ năm 2000 đến 
nay, bình quân hàng năm có khoảng 1,5 
triệu lượt người lao động được giải 
quyết việc làm mới, tỷ lệ thất nghiệp ở 
khu vực đô thị ở mức dưới 6%. Tuy 
nhiên, những số liệu về lao động, việc 
làm ở Việt Nam tỏ ra không liên quan 
chặt chẽ với tình hình tăng trưởng. Điều 
này có thể được giải thích một phần bởi 
tỷ lệ lao động làm công ăn lương thấp 
và một phần bởi chất lượng các số liệu 
thống kê về lao động, việc làm chưa đủ 
độ tin cậy cao. 
Về lao động đi làm việc tại nước 
ngoài, trong giai đoạn 10 năm 2001-
2010, Việt Nam đã đưa được hơn 
704.000 lao động đi làm việc tại nước 
ngoài, trong đó giai đoạn 2001-2005 là 
295.000 người và giai đoạn 2006-2010 
là 409.000 người, bình quân mỗi năm 
đưa đi được khoảng 70.000 người, 
chiếm khoảng gần 5,0% số lao động 
được giải quyết việc làm hàng năm. 
Người lao động Việt Nam làm việc 
trong hơn 30 nhóm ngành nghề các loại, 
nhưng chủ yếu là lao động giản đơn 
(xây dựng, giày da, may mặc, giúp việc 
gia đình, chăm sóc người bệnh hoặc 
người già yếu, tàn tật, lắp ráp điện tử, 
nông nghiệp). Trong giai đoạn 2006-
2010, số người lao động Việt Nam đi 
làm việc tại Nhật Bản là 27 nghìn người 
(chiếm 6,7% tổng số lao động đi làm 
việc tại nước ngoài). 
Về đội ngũ doanh nhân(2), giai đoạn 
2000-2010, số lượng doanh nhân Việt 
Nam đã tăng bình quân 24,7%/năm (từ 
115,7 nghìn người năm 2000 đến trên 
1,0 triệu người năm 2010). Phần lớn 
doanh nhân trưởng thành từ thực tiễn, có 
trình độ học vấn khá. Năm 2010, số 
lượng doanh nhân có trình độ đại học 
đạt 67,7%, có trình độ trên đại học đạt 
6,4%. Tuy nhiên, số lượng doanh nhân 
hiện nay mới đạt khoảng 1 triệu người 
trên 87 triệu dân, Việt Nam là một trong 
những nước có số lượng doanh nhân 
thấp nhất trong khu vực Đông Nam Á 
(xem hình 1). 
(2) Doanh nhân là những người lãnh đạo các 
doanh nghiệp được tính từ phó giám đốc trở 
lên, bao gồm cả doanh nghiệp quốc doanh, 
ngoài quốc doanh (không bao gồm các doanh 
nghiệp nước ngoài FDI). 
Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam 
 21 
Hình 1: So sánh số lượng doanh nhân trên 10.000 dân 
của Việt Nam với một số nước trong khu vực 2001, 2008 
Nguồn:  
Về đội ngũ cán bộ khoa học, công 
nghệ, năm 2010 có 64,4 nghìn người 
(tăng 19,2 nghìn người so với năm 
2005 và 34,2 nghìn người so với năm 
2000) đang làm việc trong 1.513 tổ 
chức khoa học và công nghệ từ Trung 
ương đến địa phương. Trong đó, số 
người có trình độ cử nhân là 31,7 nghìn 
người, chiếm 49,1% so với tổng số 
nhân lực làm việc trong lĩnh vực nghiên 
cứu và triển khai (R&D); số người có 
trình độ thạc sĩ là 11,6 nghìn người 
chiếm 17,9%; tiến sĩ là 5,4 nghìn người 
chiếm 8,4%. 
Như vậy, đội ngũ nhân lực khoa học 
và công nghệ chất lượng cao (thạc sĩ, 
tiến sĩ, tiến sĩ khoa học, phó giáo sư, 
giáo sư) trong lĩnh vực R&D (20,5%) 
còn rất thấp: 20,5%; thấp hơn so với 
một số quốc gia trong khu vực Đông 
Nam Á như Malaysia khoảng 48%, 
Indonesia khoảng 40%. Theo đánh giá 
của Hãng dự báo nổi tiếng RAND biên 
soạn cho Ngân hàng Thế giới năm 2001, 
năng lực khoa học và công nghệ của 
Việt Nam xếp thứ 94 trên thế giới. 
Về đội ngũ giáo viên, giảng viên, 
hiện có tình trạng thiếu giáo viên, giảng 
viên nghiêm trọng ở tất cả các cấp đào 
tạo, đặc biệt là cấp đại học(3) và dạy 
(3) Theo tính toán của Bộ Giáo dục và Đào tạo 
hiện nay, chúng ta đang thiếu khoảng 2 vạn 
giảng viên đại học. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 22 
nghề; điều đó làm ảnh hưởng tiêu cực 
đến chất lượng dạy, học và cản trở việc 
bồi dưỡng nâng cao trình độ của giáo 
viên, giảng viên (giáo viên, giảng viên 
bị quá tải do tỷ lệ sinh viên/giáo viên, 
giảng viên cao). Hiện tỷ lệ sinh 
viên/giáo viên, giảng viên (bậc đại học) 
là 31, tăng hơn 5,2 lần so năm 1990 
(năm 1990 là 5,5 sinh viên/giáo viên, 
giảng viên); tỷ lệ đó vượt quá định mức 
và cao hơn nhiều so với quốc tế (trung 
bình là 10-12 sinh viên/giáo viên, giảng 
viên); đối với dạy nghề tỷ lệ học 
sinh/giáo viên là 26 (tăng rất nhanh so 
với năm 1998 chỉ có 21 học sinh/1 giáo 
viên). Số giáo viên, giảng viên đại học 
có trình độ thạc sĩ trở lên mới có 57,3%. 
Tóm lại, từ nhiều năm qua, Việt 
Nam được xem là nền kinh tế có nguồn 
nhân lực giàu tiềm năng: quy mô dân số 
lớn (đứng thứ 13 thế giới); đang bước 
vào thời kỳ “dân số vàng” nên có khả 
năng huy động nhiều nhất nguồn lao 
động có thể trong tổng số dân cư; tỷ lệ 
người dân biết đọc, biết viết cao so với 
các nước có cùng mức GDP/người, đó 
là cơ sở quan trọng ban đầu để tiếp thu 
nhanh các kiến thức và kỹ năng lao 
động. Ngoài ra, người lao động Việt 
Nam cần cù, có tính sáng tạo, linh 
hoạt Nhưng nguồn nhân lực cũng 
mang những mặt hạn chế của một nền 
kinh tế đang phát triển điển hình: năng 
suất lao động thấp, kỷ luật lao động 
chưa cao, tri thức và kỹ năng lao động 
hẹp, năng lực phối hợp hạn chế..., và 
nhìn tổng thể, do nguồn vốn đầu tư cho 
giáo dục và đào tạo eo hẹp, nên chất 
lượng nguồn nhân lực chưa đáp ứng 
được nhu cầu phát triển kinh tế, xã hội 
và bảo vệ môi trường trong điều kiện 
khoa học - công nghệ hiện đại và quá 
trình toàn cầu hóa ngày nay. Trong khi 
áp lực giải quyết việc làm còn rất lớn, 
nhu cầu có việc làm cao, thì không ít 
các công ty, doanh nghiệp, cơ sở sản 
xuất kinh doanh lại rất khó khăn trong 
việc tuyển dụng lao động. Vì vậy, tình 
hình thực tế là, nguồn nhân lực có số 
lượng đông, nhu cầu việc làm lớn, 
nhưng lại chưa đáp ứng được nhu cầu 
của thị trường sức lao động về chất 
lượng (trình độ đào tạo, kỹ năng 
chuyên môn...) và cơ cấu nghề nghiệp. 
2. Yêu cầu phát triển nhân lực ở 
Việt Nam hiện nay 
Giai đoạn từ nay đến 2020, phát triển 
nhân lực được xem là một trong ba mũi 
đột phá mang tính chiến lược. Mục tiêu 
chung về phát triển nhân lực là đáp ứng 
yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, 
hiện đại hóa cơ bản trở thành nước công 
nghiệp theo hướng hiện đại. Trong quá 
trình này, nền kinh tế chuyển đổi mô 
hình tăng trưởng từ chủ yếu phát triển 
theo chiều rộng sang phát triển hợp lý 
giữa chiều rộng và chiều sâu, vừa mở 
rộng quy mô vừa chú trọng nâng cao 
chất lượng và hiệu quả; cơ cấu kinh tế 
chuyển dịch mạnh (cơ cấu lại các ngành 
Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam 
 23 
sản xuất, dịch vụ gắn với các vùng kinh 
tế; cơ cấu lại doanh nghiệp và điều 
chỉnh chiến lược thị trường; tăng nhanh 
hàm lượng nội địa, giá trị gia tăng và 
sức cạnh tranh của sản phẩm, doanh 
nghiệp và của nền kinh tế). Theo mục 
tiêu chiến lược, thời kỳ 2011-2020, kinh 
tế sẽ tăng trưởng khoảng 7-8%/năm; giá 
trị sản phẩm công nghệ cao đạt khoảng 
45% trong GDP; giá trị sản phẩm công 
nghiệp chế tạo chiếm khoảng 40% trong 
tổng giá trị sản xuất công nghiệp Như 
vậy, vai trò của khoa học - công nghệ 
trong thời kỳ tới đây sẽ ngày càng lớn 
và có tác động mạnh đến yêu cầu phát 
triển nhân lực của Việt Nam. 
Việt Nam đang ở trong thời kỳ “cơ 
cấu dân số vàng”, có lực lượng lao 
động lớn, tỷ lệ dân số hàng năm bước 
vào độ tuổi lao động cao, nên nếu có 
chính sách hợp lý, thì nền kinh tế có 
bước phát triển vượt bậc. Song, thời kỳ 
“dân số vàng” cũng tạo ra sức ép lớn về 
giải quyết việc làm do quy mô nhân lực 
lớn, trong đó số người chưa qua đào tạo 
còn nhiều. Số lao động chưa qua đào 
tạo hiện còn rất lớn (khoảng 31,8 triệu 
người) cùng với số thanh niên bước vào 
tuổi lao động hàng năm trung bình vào 
khoảng 1,5-1,6 triệu người, điều đó sẽ 
tiếp tục tạo nên những sức ép rất lớn về 
đào tạo nghề nghiệp và tạo việc làm 
cho người lao động. 
Theo dự báo, từ nửa sau thập kỷ 
2020, dân số Việt Nam sẽ bước vào thời 
kỳ “già hoá dân số” (tỷ lệ người già tăng 
nhanh). Nếu không có chính sách đào 
tạo hợp lý để toàn dụng lao động với 
chất lượng ngày càng cao, thì tình trạng 
“già hóa” sẽ trở thành một vấn đề lớn về 
an sinh xã hội. 
Các mục tiêu cụ thể về phát triển 
nhân lực Việt Nam đến năm 2020 được 
ghi rõ trong Quyết định số 1216/QĐ-
TTg ngày 22 tháng 7 năm 2011 của Thủ 
tướng Chính phủ “Phê duyệt Quy hoạch 
phát triển nhân lực Việt Nam giai đoạn 
2011 – 2020” như sau: 
“- Tăng nhanh tỷ lệ lao động qua đào 
tạo trong nền kinh tế dưới các hình thức, 
trình độ khác nhau từ mức 40% năm 
2010 lên mức khoảng 70% năm 2020, 
trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo 
ngành nông - lâm - ngư nghiệp tăng 
tương ứng từ 15,5% lên 50%; ngành 
công nghiệp từ 78% lên 92%; ngành xây 
dựng từ 41% lên 56%; ngành dịch vụ 
tăng từ 67% lên 88% 
- Phát triển đồng bộ đội ngũ nhân lực 
với chất lượng ngày càng cao, đủ mạnh 
ở mọi lĩnh vực, đồng thời tập trung ưu 
tiên những lĩnh vực Việt Nam có lợi thế 
cạnh tranh 
- Xây dựng đội ngũ giáo viên có chất 
lượng cao để đào tạo nhân lực có trình 
độ cho đất nước”. 
3. Các giải pháp chủ yếu 
Từ tình hình thực tế và yêu cầu phát 
triển nêu trên, một số hướng giải pháp 
cơ bản cần tính đến là: 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 24 
Thứ nhất, nâng cao hơn nữa nhận 
thức về tầm quan trọng của phát triển 
nhân lực đối với phát triển bền vững đất 
nước, biến thách thức về nhân lực (số 
lượng đông, tay nghề thấp, chưa có tác 
phong công nghiệp) thành lợi thế (chủ 
yếu qua đào tạo). Đây là nhiệm vụ của 
toàn xã hội, mang tính xã hội (của các 
cấp lãnh đạo, của nhà trường, doanh 
nghiệp và gia đình cũng như bản thân 
mỗi người lao động). 
Thứ hai, đổi mới công tác quản lý 
nhà nước về phát triển nhân lực. Cụ thể 
là: trước mắt, hình thành một cơ quan 
chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ 
thống thông tin về cung - cầu nhân lực 
trên địa bàn cả nước; đảm bảo cân đối 
cung - cầu nhân lực để phát triển kinh tế 
- xã hội; đổi mới các chính sách, cơ chế, 
công cụ để phát triển nhân lực, trong đó 
bao gồm các nội dung về môi trường 
làm việc, cơ chế thị trường chung, về 
chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, 
bảo trợ xã hội, điều kiện nhà ở và các 
điều kiện sinh sống, định cư...; đồng 
thời đặc biệt chú ý các chính sách đối 
với bộ phận nhân lực chất lượng cao 
(phát hiện, thu hút, đánh giá và tôn vinh, 
quản lý, đãi ngộ, giữ và bảo vệ). 
 Thứ ba, đổi mới giáo dục, đào tạo và 
dạy nghề theo hướng hiện đại, đáp ứng 
yêu cầu phát triển đất nước và hội nhập 
quốc tế. Cụ thể là: 
+ Cần đổi mới tiếp cận xây dựng nền 
giáo dục, đào tạo phục vụ nhu cầu xã 
hội: thay đổi triết lý “học để biết” sang 
“học để làm việc”; xây dựng kế hoạch 
đẩy mạnh việc đào tạo theo nhu cầu xã 
hội cấp quốc gia, tại mỗi địa phương và 
mỗi cơ sở đào tạo; xây dựng cơ sở đào 
tạo theo hướng gắn trách nhiệm của 
doanh nghiệp với việc đào tạo nhân lực 
để sử dụng. 
+ Tổ chức lại hệ thống cấp bậc đào 
tạo theo chuẩn mực quốc tế. 
+ Đổi mới nội dung giáo dục theo 
hướng hiện đại; tăng cường giảng dạy 
và thực hành ngoại ngữ, trước hết là 
tiếng Anh, tin học. 
+ Tăng cường giảng dạy ý thức, bổn 
phận công dân, lương tâm nghề nghiệp; 
đề cao tín nghĩa, tình thương yêu con 
người, tình yêu quê hương, đất nước. 
+ Tăng cường giảng dạy kỹ năng 
sống, kỹ năng giao tiếp, năng lực hiểu 
biết và sẻ chia văn hóa, năng lực làm 
việc nhóm. 
+ Cải cách chế độ tiền lương cho đội 
ngũ giáo viên, giảng viên và ưu đãi cho 
người học. 
+ Xây dựng hệ thống quốc gia để 
đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo. 
Thứ tư, huy động các nguồn vốn đảm 
bảo cho yêu cầu phát triển nhân lực. Việc 
phát triển nhân lực đòi hỏi nguồn vốn 
đầu tư lớn. Vì vậy, bên cạnh nguồn vốn 
ngân sách nhà nước, cần đẩy mạnh xã 
hội hoá để tăng cường huy động các 
nguồn vốn cho phát triển nhân lực. Trong 
đó, cần đặc biệt chú ý huy động nguồn 
Một số vấn đề về phát triển nhân lực ở Việt Nam 
 25 
vốn từ các doanh nghiệp - nơi sử dụng 
phần lớn nguồn nhân lực; từng bước tiến 
tới doanh nghiệp phải trở thành lực 
lượng chủ đạo về đào tạo nghề. 
Thứ năm, đẩy mạnh hợp tác quốc tế 
về phát triển nhân lực. Trước những yêu 
cầu, đòi hỏi cấp bách từ việc cải cách 
giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao chất 
lượng nhân lực, đáp ứng mục tiêu CNH 
- HĐH đất nước đến năm 2020, trong 
bối cảnh năng lực đào tạo, khả năng tài 
chính cũng như trình độ chuyên môn 
của đội ngũ giáo viên, giảng viên của 
nước ta còn bất cập so với các nước 
trong khu vực, thì giải pháp về đẩy 
mạnh hợp tác quốc tế là cần thiết và vô 
cùng quan trọng. Các hướng hợp tác chủ 
yếu có thể gồm: 
+ Hợp tác phát triển các trường đại học, 
dạy nghề với nước ngoài tại Việt Nam. 
+ Xúc tiến, thu hút một số trường đại 
học, dạy nghề có đẳng cấp quốc tế vào 
Việt Nam hoạt động. 
+ Hợp tác quốc tế đào tạo giảng viên 
(bao gồm cả đào tạo mới và đào tạo bồi 
dưỡng, đào tạo ở trong nước và nước 
ngoài) ở các bậc học từ trung cấp, cao 
đẳng, đại học và trên đại học, giảng viên 
dạy nghề các cấp. 
+ Hợp tác quốc tế nhằm chuyển giao 
công nghệ đào tạo hiện đại. Đây là một 
giải pháp cần thiết đối với Việt Nam 
hiện nay, nhất là trong bối cảnh chúng ta 
đang thiếu thốn trang thiết bị giảng dạy 
(đã có thời gian rất dài chúng ta phải 
chấp nhận tình trạng dạy chay, học 
chay, học lý thuyết mà chưa có điều 
kiện thực hành - một trong những 
nguyên nhân dẫn đến tình trạng chất 
lượng nhân lực thấp). Vì vậy, chúng ta 
cần đẩy mạnh hợp tác với các nước có 
trình độ đào tạo hiện đại, tiên tiến để 
từng bước tiếp thu, chuyển giao công 
nghệ đào tạo đáp ứng nhu cầu đào tạo 
nhân lực chất lượng cao của cả nước. 
+ Hợp tác đào tạo sinh viên, học viên 
học nghề, đặc biệt là ở một số lĩnh vực 
mũi nhọn như dầu khí, công nghiệp điện 
tử kỹ thuật số, viễn thông, công nghệ vật 
liệu mới, năng lượng hạt nhân... Cần mở 
rộng hợp tác đào tạo với nước ngoài 
dưới hình thức học tại Việt Nam (mời 
các giảng viên giỏi, nhà khoa học nước 
ngoài có uy tín đến giảng dạy). Đây là 
hướng đi chính đối với nước ta trong 
giai đoạn tới. Bên cạnh đó, cần lựa chọn 
những sinh viên, học viên ưu tú, xuất 
sắc gửi đi đào tạo ở nước ngoài đối với 
các ngành nghề, lĩnh vực mà Việt Nam 
chưa có khả năng đào tạo nhằm đáp ứng 
nhu cầu nhân lực trong nước. 
+ Hợp tác với các tổ chức quốc tế, tổ 
chức phi chính phủ nhằm thu hút đội 
ngũ giáo viên/sinh viên tình nguyện 
quốc tế đến Việt Nam tham gia công tác 
giảng dạy ngoại ngữ. 
+ Vận động Việt kiều có đủ điều kiện 
tham gia công tác giảng dạy và nghiên 
cứu khoa học tại các trường đại học, các 
cơ quan nghiên cứu của Việt Nam. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6 (67) - 2013 
 26 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ve_phat_trien_nhan_luc_o_viet_nam.pdf