Lý thuyết xã hội học và xã hội tri thức

Toàn cầu hóa và sản phẩm của nó là xã hội tri thức đang đưa đến một sự biến đổi to lớn

trong toàn bộ hệ thống xã hội và đến lượt nó, sự thay đổi ấy cũng đang gây ra những sự đứt

đoạn trong trật tự xã hội tại nhiều khu vực trên thế giới. Tại một số quốc gia, nền kinh tế

truyền thống vẫn đang tiếp tục mang lại sự công bằng, nhưng tại một số quốc gia khác, hệ

thống chính trị đang bị lung lai và tại mọi nước, hệ thống trật tự xã hội được xây dựng trên

sự tuân thủ đang bị đặt trong tình trạng chệch hướng.

Bài viết này bàn đến viễn cảnh của lý thuyết xã hội học trong thời đại bùng nổ của Công

nghệ thông tin (IT) và cuộc Cách mạng tri thức (KR) vốn đang là yếu tố thúc đẩy cho sự tái

điều chỉnh nhiều giá trị truyền thống và các chuẩn mực trong hành vi của cá nhân cũng như

cua tổ chức xã hội. Bài viết cũng cố gắng xây dựng tính hợp thức cho xã hội học và các lý

thuyết nền của nó trong ma trận của Xã hội tri thức được xây dựng trên nền của công nghệ

thông tin.

pdf 8 trang yennguyen 3080
Bạn đang xem tài liệu "Lý thuyết xã hội học và xã hội tri thức", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Lý thuyết xã hội học và xã hội tri thức

Lý thuyết xã hội học và xã hội tri thức
See discussions, stats, and author profiles for this publication at: https://www.researchgate.net/publication/325390678
Lý thuyết Xã hội học và Xã hội tri thức (Sociological Theory and Knowledge
Society)
Article · January 2010
CITATIONS
0
READS
10
1 author:
Le Minh Tien
Ho Chi Minh City Open University
13 PUBLICATIONS   2 CITATIONS   
SEE PROFILE
All content following this page was uploaded by Le Minh Tien on 27 May 2018.
The user has requested enhancement of the downloaded file.
 38
Tạp chí Khoa học, Đại học Mở TP.HCM, Số 01-2010, pp.38-43 
LÝ THUYẾT XÃ HỘI HỌC VÀ XÃ HỘI TRI THỨC* 
(Sociological Theory and Knowledge Society) 
P.K.B. NAYAR** 
Lê Minh Tiến dịch*** 
Toàn cầu hóa và sản phẩm của nó là xã hội tri thức đang đưa đến một sự biến đổi to lớn 
trong toàn bộ hệ thống xã hội và đến lượt nó, sự thay đổi ấy cũng đang gây ra những sự đứt 
đoạn trong trật tự xã hội tại nhiều khu vực trên thế giới. Tại một số quốc gia, nền kinh tế 
truyền thống vẫn đang tiếp tục mang lại sự công bằng, nhưng tại một số quốc gia khác, hệ 
thống chính trị đang bị lung lai và tại mọi nước, hệ thống trật tự xã hội được xây dựng trên 
sự tuân thủ đang bị đặt trong tình trạng chệch hướng. 
Bài viết này bàn đến viễn cảnh của lý thuyết xã hội học trong thời đại bùng nổ của Công 
nghệ thông tin (IT) và cuộc Cách mạng tri thức (KR) vốn đang là yếu tố thúc đẩy cho sự tái 
điều chỉnh nhiều giá trị truyền thống và các chuẩn mực trong hành vi của cá nhân cũng như 
cua tổ chức xã hội. Bài viết cũng cố gắng xây dựng tính hợp thức cho xã hội học và các lý 
thuyết nền của nó trong ma trận của Xã hội tri thức được xây dựng trên nền của công nghệ 
thông tin. 
Công nghệ thông tin đã mang lại nguồn chất liệu dồi dào cho những ai muốn đặt lại vấn đề 
về tính bất khả xâm phạm cũng như tính hữu dụng của nhiều mệnh lệnh trong khoa học xã 
hội và khoa học hành vi khi các khoa học này cho rằng, sự tồn tại của con người bị điều 
kiện hóa và bị điều tiết bởi một vài tham số đã được xã hội thiết lập. Cho đến nay, Công 
nghệ thông tin và cuộc cách mạng tri thức đã tạo ra và đại chúng hóa nhiều giá trị và chuẩn 
mực mới cho ứng xử của con người. Điều đó có nghĩa là các lý thuyết xã hội học truyền 
thống về hành vi con người và các tiến trình xã hội được xây dựng trên những lý thuyết ấy 
sẽ không còn vận hành một cách êm ả và không thể tranh cãi như trước đây nữa. Ngược lại, 
tính xác đáng của chúng đang ngày càng bị nghi ngờ và tính ứng dụng của chúng như là các 
công cụ phân tích và giải thích cho các động lực xã hội đang ngày càng mất đi giá trị. 
Có thể nói rằng hiện nay các lý thuyết xã hội học đang đang ở trong tình trạng trì trệ. Những 
lý thuyết lớn vẫn còn đó nhưng vầng hào quang của chúng đã bị giảm sút. Những lý thuyết 
này vẫn được đề cao vì các giá trị nội tại nhưng lại được sử dụng một cách rất sơ sài bởi các 
nhà nghiên cứu thực nghiệm. Các lý thuyết hạng trung cũng vẫn còn đứng vững trước nhiều 
sự tấn công nhưng vẫn cùng chung số phận với các lý thuyết lớn. Nhưng với các lý thuyết vi 
mô thì không thể nói như thế bởi chúng nhiều vô số kể. Bởi vì đối tượng nghiên cứu của xã 
hội học đã gia tăng trong rất nhiều lĩnh vực nhỏ và rất nhỏ nên các lý thuyết ở cấp độ vi mô 
không có được tầm quan trọng như hai loại lý thuyết trên và cũng ít được các nhà nghiên 
cứu thẩm định hoặc cố gắng vượt qua chúng. Nếu một người nào đó cố gắng xây dựng lý 
thuyết thì tính ứng dụng của lý thuyết ấy cũng bị hạn chế bởi nhiều lý do khác nhau. Hơn 
nữa trong hiện tình xã hội vốn luôn thay đổi rất nhanh như hiện nay, một lý thuyết mới sẽ 
không có tuổi thọ lâu dài và có thể trở nên dư thừa ngay khi nó vừa được sử dụng xong 
trong kiểm tra một hiện tượng nào đó. Mặt khác, có nhiều nhà xã hội học tin rằng ngành 
khoa học này vẫn có thể tồn tại mà không cần đến những lý thuyết mới. Gosta Esping-
* P.K.B. Nayard., (2008) "Sociological Theory and Knowledge Society", Bangladesh e-journal of Sociology. Volume 5, 
Number 2. July 2008, pp. 19-26. 
** Trung tâm nghiên cứu Lão khoa (Center for Gerontological Studies), Kochulloor, Ấn Độ. 
*** Giảng viên Khoa Xã hội học, Trường Đại học Mở TP.HCM. 
 39
Adersen (BJS 2000) cho rằng nền xã hội học đương đại không cần phải lo lắng về tình trạng 
"thiếu lý thuyết" bởi đã có nhiều lý thuyết để có thể tiến hành các nghiên cứu. 
Co nhiều trở ngại khác nhau cho việc xây dựng lý thuyết mà ta có thể phân thành ba nhóm. 
Thứ nhất là những trở ngại ngay trong lòng khoa học xã hội; thứ hai là những trở ngại do 
công nghệ thông tin và những hệ lụy của nó gây ra; và thứ ba là những trở ngại được tạo bởi 
cuộc cách mạng tri thức. Hiện nay lằn ranh giữa hai yếu tố sau là khá mơ hồ và có nhiều sự 
chồng lấn giữa chúng với nhau. 
Tôi chỉ nói gọn về những trở ngại từ nội tại của các khoa học xã hội thôi bởi mục tiêu của 
tôi tập trung vào những vấn đề nảy sinh từ hai yếu tố sau. Vì bản chất toàn diện của khoa 
học xã hội cũng như ranh giới có tính linh hoạt của chúng, các học giả thường có khuynh 
hướng gộp mọi thứ dưới ánh sáng của nhãn quan xã hội học. Hậu quả là việc xây dựng một 
lý thuyết thống nhất có thể bao trọn mọi yếu tố dị biệt trở nên khó có thể xảy ra. Điều này 
đúng với các siêu lý thuyết và càng đúng hơn với các lý thuyết vi mô. Quá trình thương mại 
hóa và doanh nghiệp hóa nghiên cứu xã hội học đã đạt lại tính thích hợp của lý thuyết trong 
nghiên cứu. Các cơ quan tài trợ không còn quan tâm đến lý thuyết nhiều nữa mà họ mong 
muốn những phát hiện mang tính chất thực nghiệm nhiều hơn. Điều đó đưa đến việc các cơ 
quan tài trợ, nhà nước và các thiết chế nghiên cứu đến chỗ tự thiết lập chương trình nghiên 
cứu của riêng mình và chỉ tài trợ cho những chủ đề mà mình quan tâm. Như vậy có nghĩa là 
các nhà nghiên cứu lý thuyết muốn dấn thân vào các nghiên cứu theo sở thích riêng và 
muốn xây dựng các lý thuyết mới sẽ tìm thấy rất ít sự hỗ trợ từ các thiết chế tài trợ, và nếu 
như vẫn tiến hành nghiên cứu theo sở thích riêng thì những khám phá lý thuyết cũng có thể 
nhận được rất ít sự quan tâm. 
Sự phân mảnh của tri thức xã hội học vào trong các lĩnh vực nghề nghiệp khác như công tác 
xã hội, quản trị kinh doanh, kỹ thuật và y học vốn chỉ cần và chỉ sử dụng một vài phần của 
xã hội học cũng làm cho lý thuyết trở thành thứ có thể được bỏ qua trong quá trình tìm tòi 
của các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực ấy. Trong nhiều trường hợp, việc xây dựng lý 
thuyết là điều gì đó thật xa xỉ và việc ứng dụng lý thuyết vào trong nghiên cứu có thể không 
nhận được sự ủng hộ từ nhiều nhà nghiên cứu và những người hoạt động thực tiễn. Nếu như 
việc xây dựng lý thuyết mới trong xã hội học bị tác động bởi các yếu tố nội tại, cũng có ít 
nhất hai yếu tố ngoại tại đang tác động đến tính hiệu lực của các lỹ thuyết cổ điển. Hai yếu 
tố ấy chính là công nghệ sinh học và công nghệ thông tin. Công nghệ di truyền có thể tạo ra 
những con người như mong muốn. Kỹ thuật nhân bản vô tính và cấy ghép các bộ phận cơ 
thể co thể tạo ra những loại người không hành xử theo các cách thức mà xã hội mong đợi. 
Công nghệ nano đang phát triển nhanh chóng và khả năng cấy hoặc biến đổi mô tế bào 
nhằm khôi phục hoặc làm gia tăng trí thông minh sẽ sớm thành hiện thực. Cũng vậy, khả 
năng kiểm soát bộ não con người của máy vi tính cũng không còn xa nữa. 
Như vậy, hành vi con người có thể được uốn nắn một cách nhân tạo theo nhiều kiểu khác 
nhau tùy theo mong muốn của người sử dụng. Trước sức mạnh khó tin của các công nghệ 
mới, vấn đề đặt ra sẽ là làm thế nào để các lý thuyết của chúng ta về hành vi con người và 
xã hội có thể tương thích được với công nghệ tái tạo xét về mặt di truyền và vi tính hóa con 
người chẳng những có thể bắt buộc chúng ta không những phải thay đổi mà còn buộc chúng 
ta phải điểu chỉnh hành vi của mình trước những giống loài mới này. Công nghệ sinh học có 
thể đưa đến một sự biến đổi mạnh mẽ về gen và qua đó là bản chất thực của con người sẽ 
tạo ra những vấn đề mới cho trật tự xã hội. Công nghệ chế tạo con người và đi kèm với nó là 
công nghệ nhân bản có thể làm thay đổi tận căn những đặc trưng thể lý và tinh thần của con 
người, và điều này không chỉ là một thách thức cho tri thức của xã hội học mà cho mọi khoa 
học xã hội và nhân văn nữa. 
 40
Đối với công nghệ di truyền, các nhà tâm lý học đã phát triển những kỹ thuật nhằm định vị 
lại hành vi con người. Quá trình tự do hóa thương mại cũng tạo ra những bất ổn trong trật tự 
xã hội hiện hành. Tình trạng cạnh tranh không công bằng và phi đạo đức của các công ty 
xuyên quốc gia và đa quốc gia nhằm chiếm lĩnh thị trường toàn cầu đã góp phần thúc đẩy 
các chính phủ phải thay đổi lối sống của công dân cho tương thích với tính hàng hóa thông 
qua việc điều chỉnh hành vi tiêu dùng. Như vậy xã hội học sẽ phải mang lấy một ý nghĩa 
mới khi mà con người xã hội, đơn vị phân tích của mình, đang bị tác động bởi con người kỹ 
nghệ vốn không còn hành xử theo những chuẩn mực và giá trị phổ quát nữa mà là theo các 
chuẩn mực và giá trị được tạo ra để đáp ứng nhu cầu của các công ty xuyên quốc gia và đa 
quốc gia. 
Tôi xin đơn cử hai ví dụ về cách thức mà công nghệ sinh học làm thay đổi của các giá trị gia 
đình và xã hội như sau. Việc thích sinh con trai và sử dụng ngày càng nhiều kỹ thuật chọc 
dò màng ối qua bụng (amniocentesis) đang làm lệch tỷ lệ giới tính theo hướng chống lại nữ 
giới đang diễn ra tại rất nhiều bang của Ấn Độ và đi kèm là việc thiếu phụ nữ trên thị trường 
hôn nhân có thể dẫn đến tình trạng săn phụ nữ làm vợ (wife-hunting) và đa phu (polyandry) 
trong xã hội. Bên cạnh đó, việc cấy ghép nội tạp cũng góp phần làm bùng nổ những hiện 
tượng phi đạo đức tại các đại đô thị. 
Còn một đe dọa khác nữa đối với trật tự xã hội đó là công nghệ thông tin. Những sản phẩm 
của nền công nghệ này cùng với cuộc cách mạng tri thức đã trở thành một tác tố quan trọng 
trong thiên niên kỷ mới và nó đưa xã hội đi vào cuộc cách mạng chưa hề có tiền lệ trong 
lịch sử. Nền công nghệ này đã đặt ra nhiều kịch bản có ảnh hưởng lâu dài cho loài người. 
Cái đáng lưu tâm là thông tin mới và tri thức mới đang mang lại sự dư thừa khiến chúng ta 
khó có thể nào dự đoán hay lượng giá ảnh hưởng của chúng đến trật tự xã hội là như thế 
nào. Sự xuất hiện của công nghệ nano cũng là một yếu tố cần được tính đến trong những 
năm sắp đến bởi nó có thể biến những thành tựu mà loài người đã đạt được trong quá khứ 
trở thành những thứ thừa thải. Công nghệ nano sẽ có tác động gấp bội phần lên mọi lĩnh vực 
của đời sống con người và nó có thể đưa đến một trật tự xã hội hoàn toàn mới với bản chất 
và tầm vóc không thể đoán trước được. Chưa bao giờ trong lịch sử loài người lại xảy ra 
những yếu tố quá sâu sắc như thế trong một thời gian rất ngắn. 
Nhờ công nghệ thông tin mà giờ đây dữ liệu được biến thành thông tin và thông tin biến 
thành tri thức. Nhưng ở đây có hai hạn chế. Trước hết, trí tuệ con người sẽ không thể làm 
việc nhanh như máy vi tính và do đó, sẽ luôn luôn có một độ trễ giữa khả năng tiếp cận 
thông tin và ứng dụng thông tin. Thứ hai, thông tin với sự trợ giúp của máy vi tính lại không 
thể cung cấp cho con người cái khả năng biết lựa chọn những loại thông tin phù hợp nhất 
với mình. Nếu như tri thức được biến thành sự hiểu biết hoặc được áp dụng một cách khôn 
ngoan, việc áp dụng chúng vào trong các tình huống sẽ chẳng có ích lợi gì. Vì sự hiểu biết 
giữa từng người là không giống nhau, việc sử dụng tri thức sẽ thuận lợi hơn nơi những 
người có sự hiểu biết cao hơn. Một người nào đó chỉ có thể nói rằng ai kiểm soát tri thức thì 
cũng sẽ kiểm soát sự hiều biết, nhưng không thể nói rằng ai sở hữu tri thức thì cũng sẽ sử 
dụng được chúng một cách khôn ngoan.. Hậu quả của một quyết định không khôn ngoan có 
thể dẫn đến thảm họa mà những quyết định và hành động gần đây trên thế giới là một minh 
chứng. 
Tri thức là quyền lực. Các xã hội tri thức đang được cho là nguồn giúp phát triển và tăng 
năng lực cho con người mà theo đó, tiếp cận được tri thức sẽ là một thành tố tạo nên quyền 
lực. UNESCO (2005, tr. 27) cho rằng cuộc cách mạng trong công nghệ đưa đến một giai 
đoạn mới của tiến trình toàn cầu hóa sẽ tạo động lực thúc đẩy cho cuộc cách mạng công 
nghiệp lần thứ ba. Tuy nhiên, hi vọng của UNESCO về sự phát triển của các dân tộc và các 
quốc gia trên toàn thế giới [nhờ cuộc cách mạng công nghệ - ND] lại không tương hợp với 
 41
thực tế đang diễn ra hiện nay. Niềm hy vọng cháy bỏng theo sau Tuyên ngôn của Liên Hiệp 
quốc về Nhân quyền vào năm 1948 là một điển hình [tức đến nay tình trạng vi phạm nhân 
quyền vẫn còn tồn tại-ND]. Cuộc cách mạng tri thức cho rằng các xã hội tri thức sẽ có khả 
năng thúc đẩy nhân quyền một cách dễ dàng bởi vì với khả năng tiếp cận thông tin của đại 
chúng, mọi việc sẽ trở nên minh bạch và những quyền căn bản của con người sẽ được tất cả 
mọi người nhận biết và củng cố. Dù vậy, các nghiên cứu cho thấy thực tế là hoàn toàn khác 
và tình trạng vi phạm nhân quyền vẫn diễn ra tại các xã hội tri thức ở cấp độ cao. Thậm chí 
tình trạng vi phạm nhân quyền chỉ gia tăng kề từ sau cuộc cách mạng tri thức và tình trạng 
vi phạm nhân quyền trên diện rộng đã trở thành một xì-căng-đan trong các Hội nghị bàn 
tròn tại Liên Hiệp quốc. 
Việc tiếp cận dễ dàng máy vi tính và internet cũng là một thành tố của xã hội tri thức vì sự 
tích lũy và phục hồi tri thức phụ thuộc vào khả năng tiếp cận hai công hệ này. Ở đây, 
UNESCO với tư cách là người đề xướng cho việc phổ biến tri thức cũng phải thừa nhận 
rằng đây vẫn còn là một đặc quyền của các nước phương Bắc. Theo số liệu của UNESCO, 
hiện mới chỉ có 11% dân số thế giới tiếp cận được internet. Chín mươi phần trăm người sử 
dụng internet đến từ các nước công nghiệp phát triển. Quả thực, trong khi chúng ta đang nói 
về xã hội thông tin toàn cầu và Web thì thực tế lại có đến 82% dân số thế giới chỉ sở hữu 
10% tổng số người nối mạng internet hiện nay mà thôi. Cái khoảng cách số này là vấn nạn 
đầu tiên và trước nhất của việc tiếp cận các hạ tầng cơ sở. Có khoảng hai tỷ người vẫn chưa 
kết nối được mạng dây điện chính thức, vốn là điều kiện tiên quyết cho việc tiếp cận các 
công nghệ mới. Hơn nữa, ở đây vấn đề còn là khả năng cung cấp. Máy vi tính vẫn còn đắt. 
Các dịch vụ liên quan đến internet được đầu tư nhiều tại các vùng đô thị trong khi lại rất hạn 
chế tại các vùng nông thôn. Mặc khác, việc làm quen với máy vi tính cũng đòi hỏi phải có 
sự hiểu biết nhất định về máy tính và đây cũng là điều bất khả đối với người nghèo. 
(UNESCO, tr. 29). 
Tôi dừng lại khá lâu về máy vi tính và internet bởi vì chúng là những cột trụ của xã hội tri 
thức và cũng là tác tố chính dẫn đến những biến đổi trong hành vi của con người và các mối 
quan hệ xã hội. Cơn thủy triều của những phát minh, sáng chế trong xã hội tri thức đang tác 
động đến con người ít nhất qua hai chiều cạnh đó là chiều cạnh sinh học và chiều cạnh xã 
hộ. Những khía cạnh sinh học mới sẽ tạo ra nhiều biến đổi và chúng đang góp phần vào việc 
tạo dựng nên một trật tự xã hội mới. Trên thực tế, một trong những hệ quả của xã hội tri 
thức đó là sự xuất hiện của những khuôn mẫu hành vi văn hóa mới, chẳng hạn như việc thể 
hiện hình ảnh cá nhân thông qua các trang web (UNESCO, tr. 53). Theo Manuel Castelles, 
xã hội thế kỷ 21 là « xã hội mạng » (network society).Đặc điểm căn bản của cấu trúc xã hội 
trong thời đại thông tin đó là sự tín nhiệm vào các mạng lưới là một đặc điểm then chốt của 
hình thái học xã hội (social morphology). Khi các mạng lưới là hình thức của các tổ chức xã 
hội thì nay lại được củng cố thêm bởi thông tin mới/công nghệ truyền thông, do đo chúng có 
thể cùng một lúc đương đầu được với quá trình phi tập trung hóa linh hoạt và quá trình ra 
quyết định có chủ điểm. 
Cuộc cách mạng công tri thức cũng đang góp phần vào quá trình phân tầng xã hội trong nội 
bộ các quốc gia cũng như giữa các quốc gia với nhau. Ở cấp độ toàn cầu, cuộc cách mạng 
này sẽ củng cố thêm sức mạnh cho những quốc gia đang kiểm soát tri thức và do đó sẽ làm 
giãn rộng thêm cách biệt giữa các nước giàu với các nước nghèo. Trong nội bộ quốc gia, hố 
ngăn cách giữa người giàu, vốn có khả năng tiếp cận internet cao hơn, với những người 
nghèo không thể tiếp cận ngay cả đường dây điện thoại sẽ ngày càng lớn hơn. 
Tri thức không hề vô tội. Quyền lực mà nó mang lại cho những người sở hữu nó có thể 
được sử dụng vào điều tốt hoặc xấu. Các chính phủ tân thực dân có thể sử dụng nó để gia 
tăng sự bá chủ của mình đối với những quốc gia kém hơn, các nhóm khủng bố có thể sử 
 42
dụng nó để thiết lập và biện hộ cho các hoạt động chống đối của mình. Càng sở hữu nhiều 
tri thức thì càng có khuynh hướng hành xử theo những khuynh hướng đó. 
Tôi xin đưa ra một ví dụ rất quen thuộc. Có rất nhiều người tin rằng giáo dục sẽ là thiết chế 
xã hội đầu tiên bị công nghệ thông tin tấn công ngay khi các đại công ty nhận ra được lợi 
ích to lớn của việc biến giáo dục thành công cụ gia tăng lợi ích kinh tế của mình. Có khoảng 
từ 75-80% công nghệ thông tin hiện nay trên thế giới sử dụng giáo dục như là nơi tiêu thụ 
chính các sản phẩm của mình. Sự gia tăng của việc ứng dụng máy vi tính và công nghệ 
truyền thông đa phương tiện trong giáo dục sẽ tương ứng với sự thay đổi trong phương thức 
tiếp nhận, lưu trữ và truyền tải tri thức truyền thống. Máy vi tính, đĩa CD-ROM và băng ghi 
hình sẽ dần dần thay thế cho sách giáo khoa truyền thống. Điều này sẽ là một sự thay đổi tận 
căn của cấu trúc và động lực của hệ thống học đường cũng như quan niệm về thiết chế giáo 
dục. Với quá trình thương mại hóa và thị trường hóa các thiết chế giáo dục, trường học sẽ 
được cấu trúc lại theo kiểu các công ty kinh doanh và kéo theo đó là sự ra đời của các công 
ty đa quốc gia chuyên sản xuất các phần mềm phục vụ cho kiểu giáo dục mới này. Các công 
nghệ mới sẽ không thêm vào chương trình học mà là thay đổi nếu không nói là thay thế 
hoàn toàn chương trình học. Theo Anthony Giddens, toàn bộ các phương tiện giáo dục 
truyền thống sẽ thay đổi cùng với sự gia tăng trong việc sử dụng máy vi tính và các công 
nghệ truyền thông đa phương tiện trong giáo dục. Ông cảnh báo rằng, một sự xâm lăng như 
thế sẽ gây ra những hậu quả tai hại cho giáo dục mà cụ thể là công nghệ mới sẽ củng cố 
thêm sự bất bình đẳng hiện có trong giáo dục qua việc tạo ra một hiện tượng mới đó là 
"nghèo thông tin" (information poverty). 
Sự khủng hoảng trong hệ thống giáo dục đại học do sự xuất hiện của công nghệ thông tin và 
cuộc cách mạng tri thức đã được David Beckett làm sáng tỏ (e-journal of sociology, 1988). 
Trước thực tế là mọi nền tảng và lý do tồn tại truyền thống đã bị biến mất hoặc bị thu hẹp, 
các đại học cần phải suy nghĩ và xác định lại vai trò của mình cho phù hợp với một thế giới 
không còn sử dụng các dịch vụ truyền thống của mình nữa, thiết kế những luật lệ mới và 
nhãn quan mới trong bối cảnh mà sự ngờ vực đối với những giá trị chúng theo đuổi đang gia 
tăng. Trong khi bàn đến nền giáo dục thời hậu hiện đại, Giáo sư danh dự khoa xã hội học 
thuộc trường Đại học Leeds (Anh quốc) là Zymut Bauman đã cho rằng với sự gia tăng của 
các khóa học và nội dung học bằng truyền thông đa phương tiện, việc học sẽ được toàn cầu 
hóa và được hòa vào dòng chảy của công nghệ truyền thông đa phương tiện. Trong giai 
đoạn mới này, tri thức sẽ được tách khỏi thầy dạy và được chuyển vào các phương tiện trực 
tuyến. Tri thức trong các "xã hội vi tính hóa" sẽ được "ngoại giới hóa" (externalized) khỏi 
người sở hữu chúng, giáo dục sẽ được thị trường hóa và tri thức sẽ được hàng hóa hóa 
(commoditized) - hệ quả của quá trình tư nhân hóa theo sau quá trình toàn cầu hóa. Trong 
tình huống này, giáo viên trở nên thừa thải, các loại sách vở truyền thống cũng là thừa, các 
phương pháp sư phạm thông thường cũng thừa, tức mọi thứ cũ đều trở nên thừa. Tôi nói đến 
những vấn nạn đang sắp xảy đến cho giáo dục bởi vì bạn có thể nhận thấy một cách dễ dàng 
những sự thay đổi về bản thể học, nhận thức luận và siêu hình học trong nền tảng giáo dục 
vào những năm sắp đến. 
Theo Feabin, có một vấn nạn chủ yếu của công nghệ mới đang đe dọa cuộc sống loài người 
đó là sự tràn ngập của thị trường lao động bằng robot. Ông trích dẫn nhận định của người 
đồng sáng lập và nhà khoa học chính của Sun Microsystems là Bill Joy mà theo đó, việc sử 
dụng robot với trí thông minh nhân tạo có thể là một sự đe dọa nghiêm trọng đối với đời 
sống con người trong những năm sắp đến. Các nhà khoa học máy tính dự đoán rằng, đến 
năm 2030, máy tính sẽ mang tính người hơn, có ý thức và thông minh hơn. Khả năng của 
máy tính sẽ vượt hơn hàng triệu lần so với hiện nay và robot được vi tính hóa sẽ thông minh 
 43
hơn con người. Trước sức mạnh vô song của những công nghệ mới như thế, chúng ta cần 
thự hỏi xem làm thế nào để cùng tồn tại với chúng? 
Theo Stuart Hall (1988, tr. 528) trong quá trình biến chuyển cho công nghệ mới mang lại, 
thế giới sống của chúng ta đang được tái tạo lại. Trong thế giới mới đó, căn tính của chúng 
ta, nhận thức về bản ngã và chủ thể cũng bị biến đổi theo. 
Từ những lập luận trên, tôi muốn kết thúc bằng yếu tố thứ tư sau đây. 
Công nghệ thông tin - một nhánh mới nhất của công nghệ - đã tạo ra cuộc cách mạng tri 
thức và cuộc cánh mạng này đến lượt nó cũng đã tạo ra các xã hội tri thức. Bên cạnh việc 
mang lại nhiều lợi ích to lớn cho đời sống con người, các xã hội tri thức cũng đặt ra cho con 
người rất nhiều vấn đề nghiêm trọng bởi vì chúng mang lại cho mọi người khả năng tự cập 
nhật tri thức trên mọi lĩnh vực của đời sống và điều này có tác động sâu rộng lên hành vi 
cũng như các mối quan hệ xã hội. Tổng thể của những tác động ấy sẽ tạo ra mội loại người 
mới, loại người có thể không còn bị định hướng bởi các giá trị truyền thống và các khuôn 
mẫu xã hội chuẩn nữa. Nếu những điều đó xảy ra, các giá trị được lưu giữ trong trật tự xã 
hội và các chuẩn mực cũng như luật lệ được xây dựng trên đó sẽ bị biến đổi và các lý thuyết 
xây dựng trên những cơ sở ấy sẽ trở nên dư thừa. 
Những sự thay đổi như vừa nêu trên có thể không xảy ra tức thì, nhưng rất nhiều những yếu 
tố của sự thay đổi có thể sẽ xảy đến trong những tập niên sắp tới hoặc vào cuối thế kỷ 21 
này, đặc biệt với sự xuất hiện của công nghệ nano thì mọi chuyện có thể sẽ diễn ra nhanh 
hơn. Có một điều gần như chắc chắn là những giá trị và chuẩn mực cũ đang biến đổi nhưng 
thật khó mà dự báo những tác động của thống tin-tri thức (info-knowledge) ở cấp độ vi mô, 
tức các mối quan hệ giữa người với người cũng như ở cấp độ vi mô, tức các mạng lưới quan 
hệ xã hội./. 
THƯ MỤC THAM KHẢO 
1. Beck, Ulrich. 2000. "The Cosmopolitan Perspective: Sociology of the Second Age of 
Modernity", British Journal of Sociology, Vol. 51, No. 1, pp. 79-105. 
2. Bulmer, Martin. 1990. "Successful Application of Sociology", in Christopher GA Bryant & 
Henk A, Becker (eds) What Has Sociology Achieved?, London: Macmillan, pp. 117-142. 
3. Castelles, Manuel. 2000. "Social Structure in the Information Age: The Social Network", British 
Journal of Sociology, Vol. 51, No. 1 January-March 2000 pp. 5-24. 
4. Feagin, Joe R. 2001 "Social Justice and Sociology: Agendas for the Twenty-First Century", 
American Sociological Review, 2001, Vol. 66 February, pp1-20. 
5. Giddens, Anthony, 2000. Sociology (3rd Ed.) Cambridge: Polity Press. 
6. Gosta, Esping-Anderson. 2000."Two Societies, One Sociology, and No Theory", British 
Journal of Sociology 51 (1) 2000, pp. 59-77. 
7. Hakim, Catherine. 1998. "Developing a Sociology for the 21st Century: Preference Theory", 
British Journal of Sociology Vol. 49 No. 1, March 1998, pp. 137-143. 
8. Islam, Nazrul. 2005. End of Sociological Theory and Other Essays on Theory and Methodology, 
Dhaka: Ananya Islam. 
9. Nazrul. 2004. "Sociology in the 21st Century: Facing a Dead End", Bangladesh e-Journal of 
Sociology Vol. 1. No. 2, pp.68 – 92. 
10. Kumar, Krishnan. 1995. From Post Industrial to Post Modern Society, London: Blackwell. 
11. Latour, Bruno .2000. "When Things Strike Back: A Possible Contribution of Science Studies to 
the Social Sciences", British Journal of Sociology 51.1.2000 - pp.107-123. 
 44
12. Mlambo, Alois S. 2006. "Western Social Sciences and Africa: The Domination and 
Marginalization of a Continent", African Sociological Review, 10 (1) pp.143-160. 
13. Mukherji, Partha Nath. 2005. "Sociology in South Asia: Indigenization as Universalizing 
Social Science", Sociological Bulletin 54 (3) 2005 pp.311-324. 
14. Siedman, Steven. 1994. Contested Knowledge: Social Theory in the Post Modern Era. 
Cambridge, Mass: Blackwell Publishers. 
15. Wallerstein, Immanuel. 2000. "From Sociology to Historical Social Science: Prospects and 
Obstacles", British Journal of Sociology 51 (1) pp.25-35. 
16. UNESCO. 2005. Towards Knowledge Societies, UNESCO World. Report, Paris: UNESCO 
Publishing. 
View publication stats

File đính kèm:

  • pdfly_thuyet_xa_hoi_hoc_va_xa_hoi_tri_thuc.pdf