Đổi mới phương pháp giảng dạy ngoại ngữ theo định hướng phát triển năng lực trong các nhà trường quân đội
TÓM TẮT
Nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, khối các học
viện, nhà trường quân đội đã và đang thực hiện bước chuyển mình từ chương trình đào tạo ngoại
ngữ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học. Bài viết này đề cập đến những nét cơ bản
nhất về hiện trạng giảng dạy ngoại ngữ trong các nhà trường quân đội. Trên sơ sở đó, bài viết đề
xuất một số biện pháp nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy ngoại ngữ tại các nhà trường quân
đội theo định hướng phát triển năng lực, đáp ứng chuẩn đầu ra và phù hợp với đặc thù hoạt động
quân sự hiện nay.
Bạn đang xem tài liệu "Đổi mới phương pháp giảng dạy ngoại ngữ theo định hướng phát triển năng lực trong các nhà trường quân đội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đổi mới phương pháp giảng dạy ngoại ngữ theo định hướng phát triển năng lực trong các nhà trường quân đội
52 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI 1. ĐẶT VẤN ĐỀ Trước những yêu cầu đổi mới nhằm nâng cao chất lượng giáo dục trong điều kiện toàn cầu hóa, mở rộng giao lưu và hội nhập kinh tế quốc tế, an ninh và quốc phòng, công tác giáo dục-đào tạo không thể coi nhẹ việc giảng dạy ngoại ngữ nói chung và giảng dạy tiếng Anh nói riêng trong các cơ sở đào tạo. Ngoại ngữ là một phương tiện đặc biệt quan trọng, không thể thiếu trong việc đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước và sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Nhận thức rõ vấn đề này, ngày 30 tháng 9 năm NGUYỄN THU HẠNH* *Học viện Khoa học Quân sự, ✉ nguyenthuhanh09@gmail.com ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC TRONG CÁC NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI TÓM TẮT Nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, khối các học viện, nhà trường quân đội đã và đang thực hiện bước chuyển mình từ chương trình đào tạo ngoại ngữ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học. Bài viết này đề cập đến những nét cơ bản nhất về hiện trạng giảng dạy ngoại ngữ trong các nhà trường quân đội. Trên sơ sở đó, bài viết đề xuất một số biện pháp nhằm đổi mới phương pháp giảng dạy ngoại ngữ tại các nhà trường quân đội theo định hướng phát triển năng lực, đáp ứng chuẩn đầu ra và phù hợp với đặc thù hoạt động quân sự hiện nay. Từ khóa: năng lực, ngoại ngữ, phương pháp dạy học, trường quân đội. 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định 1400/ QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008- 2020” với mục tiêu chung là “Đổi mới toàn diện việc dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân,... nhằm đến năm 2015 đạt được một bước tiến rõ rệt về trình độ, năng lực sử dụng ngoại ngữ của nguồn nhân lực, nhất là đối với một số lĩnh vực ưu tiên; đến năm 2020 đa số thanh niên Việt Nam tốt nghiệp trung cấp, cao đẳng và đại học có đủ năng lực ngoại ngữ sử dụng độc lập, tự tin trong giao tiếp, học tập, làm việc trong môi trường hội nhập, đa ngôn ngữ, đa văn hoá; biến ngoại ngữ trở thành thế mạnh của người dân Việt Nam, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. 53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v Nhằm đáp ứng những yêu cầu đổi mới giáo dục theo định hướng phát triển năng lực, đáp ứng nhu cầu xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 29-NQ/TW của Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương khóa XI và yêu cầu hội nhập quốc tế về kinh tế và an ninh quốc phòng, và Chỉ thị số 89/CT-BQP ngày 09/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về một số nhiệm vụ cấp bách nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong các nhà trường quân đội, khối các học viện, nhà trường quân đội đã và đang thực hiện bước chuyển mình từ chương trình đào tạo ngoại ngữ tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, nghĩa là từ việc quan tâm đến người học được học cái gì đến việc quan tâm người học vận dụng được gì qua việc học tập này. Có thể khẳng định, việc đào tạo, nâng cao năng lực ngoại ngữ, đặc biệt là tiếng Anh cho học viên tại các học viện, nhà trường quân đội đang được coi là một trong những ưu tiên hàng đầu. Để đảm bảo được sự chuyển đổi này, đòi hỏi các học viện, nhà trường quân đội phải thực hiện thành công việc chuyển từ phương pháp dạy học ngoại ngữ theo lối “truyền thụ một chiều” vốn vẫn chiếm ưu thế hiện nay sang dạy học viên cách học, cách vận dụng kiến thức, và rèn luyện kỹ năng ngôn ngữ ứng với bối cảnh cụ thể. Tuy nhiên, trước bối cảnh đổi mới giáo dục, điều kiện thực tế và thực tiễn hoạt động đổi mới đào tạo theo định hướng phát triển năng lực ngoại ngữ cho học viên còn nhiều bất cập cần khắc phục, thể hiện trong tất cả các yếu tố của quá trình đào tạo ngoại ngữ (mục tiêu, chương trình, nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức tổ chức dạy học, kiểm tra đánh giá). Chính vì vậy, đổi mới đồng bộ phương pháp dạy và học ngoại ngữ theo hướng phát năng lực, phù hợp với đặc thù hoạt động quân sự là một chủ trương đúng đắn và là yêu cầu cần thiết đối với các học viện, nhà trường quân đội trong quá trình chuyển đổi sang mô hình đào tạo theo năng lực hiện nay. 2. THỰC TRẠNG DẠY HỌC NGOẠI NGỮ TẠI CÁC HỌC VIỆN, NHÀ TRƯỜNG QUÂN ĐỘI HIỆN NAY Trong cuốn sách “Các trường phái và phương pháp dạy học ngôn ngữ”, tác giả Jack C. Richards và Theodore S. Rodgers (1968) cho rằng, bản chất của một phương pháp dạy học ngoại ngữ được thể hiện qua các thủ thuật dạy học ngữ liệu (ngữ pháp, ngữ âm, từ vựng) và các kỹ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) của ngôn ngữ đó. Một số nghiên cứu đã chỉ ra rằng, mặc dù có thể có những khác nhau về phương pháp dạy học của từng giảng viên trong từng ngôn ngữ đặc thù với đối tượng học viên cụ thể, nhưng nhìn chung, phương pháp giảng dạy ngoại ngữ của giảng viên đều bao gồm những đặc điểm sau: – Phương pháp dạy học ngoại ngữ được sử dụng phổ biến là phương pháp thuyết trình, thông báo – tiếp nhận. Với phương pháp này, giảng viên là trung tâm của quá trình dạy học và là người cung cấp kiến thức ngôn ngữ mang tính áp đặt dẫn đến tình trạng hạn chế hoạt động tích cực của học viên. – Việc gắn nội dung dạy học với các tình huống thực tiễn chưa được chú trọng. Cụ thể, từ vựng thường được dạy đơn lẻ, ít đặt trong bối cảnh sử dụng. Ngữ pháp được dạy bằng tiếng Việt theo cách giảng viên cung cấp quy tắc, kết cấu của nó bằng tiếng Việt rồi đưa ra ví dụ minh họa bằng tiếng nước ngoài. Giảng viên quan tâm nhiều tới việc học viên có dùng đúng ngữ pháp trong câu và học thuộc được nhiều từ mới trong bài hay không hơn là quan tâm các kỹ năng sử dụng ngôn ngữ của học viên. – Kiến thức văn hóa và ý nghĩa giao tiếp trong bài học chưa được quan tâm giảng dạy. Thông thường giảng viên cố gắng giúp học viên hiểu nội dung của bài học thay vì giúp họ sử dụng thành thạo các ngữ liệu, thông tin, kỹ năng ngôn ngữ thu được từ bài học đó. – Việc sử dụng phối hợp các phương pháp dạy học ngoại ngữ cũng như sử dụng các phương pháp dạy học ngoại ngữ phát huy tính tích cực, tự lực và sáng tạo của học viên còn ở mức khiêm tốn. – Việc sử dụng phương tiện dạy học mới, ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ngoại ngữ chỉ bước đầu thực hiện ở một số học viện, nhà trường. (Đặng Trí Dũng, 2016; Bùi Sơn Hà, 2016; Nguyễn Thị Biên 2016) 54 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI Nhìn lại việc giảng dạy ngoại ngữ tại các học viện, nhà trường quân đội trong thời gian qua, chúng ta có thể thấy ngay rằng, phương pháp dạy học ngoại ngữ hiện nay mới chỉ cung cấp cho học viên hệ thống các quy tắc ngữ pháp, số lượng từ cơ bản, các kỹ năng đọc hiểu, dịch, viết đơn giản dựa trên các cấu trúc đã được học và trong các tình huống giới thiệu trong giáo trình. Phương pháp dạy học ngoại ngữ như bắt học viên học thuộc từ vựng tách rời ngữ cảnh, đặt câu theo cấu trúc ngữ pháp trở nên nhàm chán, kém hiệu quả và dần triệt tiêu hứng thú học tập ngoại ngữ của học viên. Chất lượng dạy và học ngoại ngữ chưa đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ của quân đội trong tình hình mới; chương trình, tài liệu dạy và học chưa gắn với chuyên môn, chuyên ngành; người học chưa nhận thức đúng vai trò quan trọng của ngoại ngữ.... Thực tế, việc học ngoại ngữ đã trở thành áp lực với nhiều học viên hay sau các khóa học ngoại ngữ nhiều học viên vẫn chưa tự tin trong giao tiếp và làm việc bằng tiếng nước ngoài. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, việc đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ là một yêu cầu cấp thiết nhằm nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống nhà trường quân đội; nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ của đội ngũ giảng viên, học viên ở các cơ sở đào tạo; tạo nền tảng để cán bộ, sĩ quan sau khi ra trường có thể khai thác, làm chủ vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật; thực hiện tốt công tác quân sự quốc phòng và có khả năng tự nghiên cứu học tập, phát triển trong môi trường hội nhập quốc tế. 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY NGOẠI NGỮ Căn cứ vào chiến lược quốc gia và chỉ thị của Bộ trưởng Bộ quốc phòng về phát triển năng lực ngoại ngữ, việc đổi mới và hiện đại hóa phương pháp dạy học ngoại ngữ sẽ chuyển từ việc truyền đạt kiến thức ngôn ngữ thụ động sang hướng dẫn học viên chủ động tư duy trong quá trình tiếp cận tri thức, dạy cho học viên phương pháp tự học, tự thu nhận thông tin một cách có hệ thống, tăng cường tính chủ động, tính tự chủ của học viên trong quá trình học tập và sinh hoạt. Như vậy đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ không nên hiểu như quá trình thay đổi một phương pháp dạy học ngoại ngữ cụ thể bằng một phương pháp cụ thể khác, mà là sự thay đổi mang tính định hướng, thay đổi trong quan điểm về dạy học ngoại ngữ và hướng tiếp cận quan điểm này. Việc đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ theo định hướng phát triển năng lực phải được thực hiện thông qua các biện pháp cụ thể như sau: 3.1. Đổi mới việc thiết kế chương trình và tổ chức dạy học Một trong những quyết định quan trọng trong việc tổ chức giảng dạy ngoại ngữ là lựa chọn chương trình phù hợp với nhu cầu đào tạo và đặc điểm của học viên (Lê Thị Tuyết Hạnh, 2012). Một chương trình ngoại ngữ tại môi trường học tập được cho là thành công khi đáp ứng nhu cầu đào tạo về phát triển các kỹ năng ngôn ngữ cần thiết cho mục đích học tập cũng như phục vụ cho nghề nghiệp tương lai của học viên. Bất kỳ một chương trình đào tạo nào cũng phải được xuất phát từ việc xác định mục tiêu. Việc xác định mục tiêu giúp người thiết kế chương trình: – Mô tả được mục đích của các hoạt động dạy và học – Thiết đặt các kết quả mà học viên cần đạt được – Xác định các phương pháp giảng dạy – Xác định các phương pháp đo lường kết quả Đối với một chương trình dạy ngoại ngữ trong quân đội thì mục tiêu đào tạo được xác định xuất phát từ mục tiêu đào tạo tổng thể của đơn vị, đó là phải cung cấp cho học viên kiến thức và kỹ năng ngoại ngữ để có thể giao tiếp trong môi trường học thuật và môi trường nghề nghiệp sau khi tốt nghiệp, tạo cở sở để học viên sau khi ra trường có thể khai thác, làm chủ vũ khí, trang thiết bị kỹ thuật; thực hiện tốt công tác quân sự quốc phòng. Một điều mà người thiết kế chương trình cũng rất quan tâm là chuẩn đầu ra về năng lực ngoại ngữ cho học viên, trong đó năng lực tiếng Anh được “đo” bằng khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc áp dụng cho Việt Nam. Quy trình đổi mới thiết kế chương trình đào tạo ngoại ngữ có thể được tóm tắt như ở Hình 1. 55KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v Ngoài ra, thời lượng cho chương trình cũng là yếu tố hết sức quan trọng. Mặc dù quá trình tiếp thu ngôn ngữ là một quá trình lâu dài và đòi hỏi ở học viên sự nỗ lực, chiến thuật học và đặc biệt khả năng tự học, nhưng thời gian giảng dạy trên lớp với các hoạt động tương tác giữa giảng viên và học viên và giữa học viên với nhau vẫn là yếu tố quan trọng giúp việc dạy học ngoại ngữ thành công. Với mục tiêu tổng thể như trên thì việc phân bổ thời gian dạy và học phải được xem xét lại. Việc học ngoại ngữ phải được tập trung cho giai đoạn đại cương mới có thể đáp ứng được yêu cầu và nhu cầu đọc tài liệu cũng như các kỹ năng ngôn ngữ khác của học viên trong các giai đoạn sau. Có được mục tiêu đào tạo thì việc lựa chọn nội dung và loại hình chương trình đào tạo sẽ hết sức thuận lợi. Tuy nhiên khi lựa chọn loại hình chương trình ngoại ngữ cũng cần tính đến các yếu tố sau đây: – Trình độ đầu vào của người học – Nguồn ngữ liệu cho giảng dạy và học tập – Khả năng và vai trò của người dạy – Các yếu tố về cơ sở vật chất Đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ theo định hướng phát triển năng lực cần bắt đầu từ việc đổi mới việc thiết kế chương trình và tổ chức dạy học. Trong việc thiết kế chương trình, giảng viên cần xác định các mục tiêu dạy học về kiến thức ngôn ngữ, kỹ năng ngôn ngữ một cách rõ ràng, có thể đạt được và có thể kiểm tra, đánh giá được. Trong việc xác định nội dung để tổ chức dạy học, không chỉ chú ý đến các kiến thức ngôn ngữ chuyên sâu mà cần lưu tâm tới những nội dung có thể phát triển các năng lực ngôn ngữ khác như năng lực giao tiếp, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực học tập cá nhân hay học tập theo nhóm. 3.2. Kết hợp đa dạng các phương pháp dạy học ngoại ngữ Không có một phương pháp dạy học ngoại ngữ toàn năng phù hợp với mọi mục tiêu và nội dung dạy học ngoại ngữ. Mỗi phương pháp dạy học có những ưu, nhược điểm và giới hạn sử dụng riêng. Vì vậy việc phối hợp đa dạng các phương pháp và hình thức dạy học ngoại ngữ trong toàn bộ quá trình dạy học là phương hướng quan trọng để phát huy tính tích cực và nâng cao chất lượng dạy học ngoại ngữ. Theo phương pháp dạy học truyền thống, dạy học ngoại ngữ thường được coi như một quá trình truyền thụ kiến thức từ thầy sang trò thì với việc sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp, việc dạy và học ngoại ngữ giờ đây được nhìn nhận như một quá trình khám phá, trong đó, học viên dần sử dụng ngôn ngữ phù hợp với những mục đích giao tiếp cụ thể (Davies và Pearse, 2000). Đây là mô hình dạy học lấy học viên làm trung tâm, trong đó cả giảng viên và học viên đều cùng chia sẻ trách nhiệm dạy và học. Song song với việc nhấn mạnh vào mục tiêu phát triển năng lực giao tiếp ở học viên, việc lựa chọn các hoạt động học tập sao cho có ích, phù hợp với nhu cầu của học viên và Hình 1. Quy trình đổi mới thiết kế chương trình đào tạo ngoại ngữ (NN) 56 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI phải đặt vào trong những bối cảnh thật mà học viên có nhiều khả năng sẽ gặp phải trong cuộc sống hàng ngày. Học ngoại ngữ là quá trình nhận biết các kiến thức và rèn luyện các kỹ năng, vì vậy khi giảng dạy ngoại ngữ, giảng viên cần thiết kế, phân bố thời gian hợp lý giữa các khâu giảng, giữa thời lượng truyền đạt kiến thức mới và thời lượng cho học viên thực hành. Tăng cường thực hành theo nhóm, theo cặp nhằm tạo điều kiện cho học viên phát triển các kỹ năng ngôn ngữ, giảm được tâm lý ngại ngùng, tăng tính chủ động, tính hợp tác giữa học viên; học lẫn nhau và luyện được cách học tập, làm việc đồng đội, tập thể. Giảng viên cần thiết kế các dạng bài tập theo hướng tạo tính chủ động sáng tạo cho học viên và tuỳ theo trình độ của học viên. Cụ thể, đối với học viên có trình độ thấp thì tăng cường đưa bài tập thực hành theo hướng “nhận biết – bắt chước – tư duy sáng tạo”. Đối với người học có trình độ cao thì áp dụng thực hành theo hướng “nhận biết – liên hệ – tư duy sáng tạo”. Giảng viên nên đa dạng hoá các hoạt động dạy học bằng cách xen kẽ các trò chơi ngôn ngữ (đóng vai, đoán từ, giải ô chữ ) nhằm tạo hứng thú học tập cho học viên; nên kết hợp uyển chuyển trong vai trò là người truyền tải kiến thức mới, là người giúp đỡ giảm độ khó cho học viên, là người hướng dẫn và củng cố kiến thức toàn bài, góp phần tích cực ... công các nhóm để giải quyết tình huống Học viên sẽ thực hiện nhiệm vụ đưa ra các chỉ dẫn bằng tiếng Anh dưới sự giám sát của giảng viên. Bước 4: Báo cáo tình huống Đại diện các nhóm trình bày kết quả thảo luận, các nhóm khác nhận xét, bổ sung ý kiến. Bước 5: Giảng viên tổng kết, nhận xét và đánh giá các nhóm Với phương pháp giảng dạy ngoại ngữ bằng tình huống, học viên sẽ có khả năng làm việc tập thể, làm việc nhóm, tự nghiên cứu, suy luận, tích cực chủ động hơn trong học tập. Nó còn nhằm trang bị cho học viên những kỹ năng hết sức cần thiết cho quá trình làm việc sau khi tốt nghiệp ra trường. 3.5. Tăng cường sử dụng đa phương tiện dạy học và công nghệ thông tin trong dạy học ngoại ngữ Phương tiện dạy học có vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ, nhằm tăng cường tính trực quan và thực hành trong dạy học. Đa phương tiện và công nghệ thông tin vừa là nội dung dạy học vừa là phương tiện dạy học trong dạy học ngoại ngữ hiện đại. Để phát triển các năng lực sáng tạo, hợp tác, sử dụng ngôn ngữ của học viên thì giảng viên phải giảm bớt thời gian thuyết trình và chú ý nhiều hơn đến việc tổ chức các hoạt động cho học viên để huy động sự tham gia của học viên vào nội dung của bài. Giảng viên có thể làm phong phú bài giảng thông qua việc khai thác tiện ích của công nghệ thông tin, sử dụng các đoạn video, giáo cụ trực quan, tranh ảnh có nội dung liên quan đến chủ đề đang học. Việc làm này cũng khơi dạy niềm say mê hứng thú học tập của học viên. Ví dụ: Khi dạy về từ vựng tiếng Anh liên quan đến Điều lệnh đội ngũ, giảng viên có thể kết hợp cho học viên xem băng hình mô phỏng các động tác hoặc chuẩn bị hình ảnh minh họa kèm từ vựng tiếng Anh liên quan như ở ví dụ dưới đây. Với hình ảnh minh họa, từ vựng tiếng Anh sẽ trở nên dễ hiểu, đồng thời học viên sẽ nhớ từ lâu hơn và có thể tái tạo từ nhanh hơn khi cần đến. Bên cạnh việc sử dụng đa phương tiện như một phương tiện trình diễn, cần tăng cường sử dụng các 58 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI phần mềm hỗ trợ học trực tuyến (online) hoặc ngoại tuyến (offline) cũng như các phương pháp dạy học sử dụng mạng điện tử (E-Learning). Phương tiện dạy học mới cũng hỗ trợ việc tìm ra và sử dụng các phương pháp dạy học ngoại ngữ mới. 3.6. Sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học viên Kỹ thuật dạy học ngoại ngữ tích cực là những cách thức hành động của giảng viên và học viên trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy học ngoại ngữ (Scrivener, 2011). Các kỹ thuật dạy học ngoại ngữ tích cực có ý nghĩa đặc biệt trong việc phát huy sự tham gia tích cực của học viên vào quá trình dạy học, kích thích tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của học viên. Ngày nay, chúng ta chú trọng phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học ngoại ngữ phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như “tư duy” (brainstorming), “tranh luận” (debating), “sơ đồ tư duy” (mindmap), “chia sẻ nhóm đôi” (think-pair-share). Thực chất đó là sự kết hợp hài hoà giữa thuyết giảng và đối thoại với mục tiêu phát huy cao độ tính tích cực, năng động, độc lập, sáng tạo của học viên. Với các kỹ thuật dạy học ngoại ngữ tích cực này, giảng viên không chỉ nắm vững những vấn đề cần trình bày mà còn phải rất năng động nhạy bén và sáng tạo ngay trong giờ giảng, trên cơ sở đó giảng viên có thể giúp phát triển năng lực ngôn ngữ của học viên một cách hiệu quả nhất. 3.7. Bồi dưỡng phương pháp học tập ngoại ngữ tích cực cho học viên Phương pháp học tập ngoại ngữ một cách tự lực đóng vai trò quan trọng trong việc tích cực hoá, phát huy tính sáng tạo của học viên (Nguyễn Thị Biên, 2016). Quá trình học viên tiếp thu những kiến thức, kĩ năng ngôn ngữ chính là quá trình học và tự học bằng chính sức lực, khả năng của riêng mình. Vì thế, khi có phương pháp học tập ngoại ngữ tích cực, học viên sẽ có ý thức chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp và chủ động tái tạo những kiến thức và kỹ năng ngôn ngữ được học. Phương pháp dạy học theo quan điểm phát triển năng lực ngoại ngữ của học viên không chỉ chú ý tích cực hoá học viên về hoạt động trí tuệ mà còn chú ý rèn luyện năng lực giải quyết vấn đề gắn với những tình huống của cuộc sống và nghề nghiệp, đồng thời 59KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v gắn hoạt động trí tuệ với hoạt động thực hành. Giảng viên cần cho học viên thấy rõ mục tiêu cụ thể và yêu cầu thiết thực của ngoại ngữ; từng bước nâng cao hứng thú, khơi dậy động cơ học tập tích cực của học viên. Giảng viên nên chủ động tìm hiểu nhu cầu học tập của học viên, khơi dậy tính ham hiểu biết và từ đó khích lệ thái độ học tập tích cực của học viên đối với môn ngoại ngữ. Để làm tốt công tác khuyến khích học viên tự chủ động tiếp cận và học ngoại ngữ, giảng viên cần luôn luôn gần gũi cởi mở với học viên để tạo tình cảm thầy trò thông qua hoạt động dạy và học, từ đó lôi cuốn học trò yêu thích môn học hơn. Ngoài ra, giảng viên có thể nâng cao nhận thức của học viên về tầm quan trọng của ngoại ngữ thông qua việc động viên, khuyến khích học viên tự tìm những tài liệu có liên quan và phân nhóm theo chủ đề để tự họ hiểu được nội dung của tài liệu và thực hành ngôn ngữ. Ngoài việc động viên khuyến khích học viên chủ động học tập, giảng viên ngoại ngữ có thể bắt buộc học viên phải có ý thức học hơn bằng cách dành thời gian kiểm tra hoặc ôn lại từ mới vào đầu hoặc cuối buổi học. Giảng viên nên định hướng cho học viên ở trên lớp và giao các nhiệm vụ cho học viên phát triển năng lực ngoại ngữ như: tìm hiểu về chủ đề quân sự nhất định, đóng vai các tình huống ở doanh trại, tham gia hợp tác quốc phòng an ninh Giảng viên cần cho học viên thấy rõ mục tiêu cụ thể và yêu cầu thiết thực của ngoại ngữ; từng bước nâng cao hứng thú, khơi dậy động cơ học tập tích cực của học viên. Giảng viên nên chủ động tìm hiểu nhu cầu học tập của học viên, khơi dậy tính ham hiểu biết và từ đó khích lệ thái độ học tập tích cực của học viên đối với môn ngoại ngữ. Để làm tốt công tác khuyến khích học viên tự chủ động tiếp cận và học ngoại ngữ, giảng viên cần luôn luôn gần gũi cởi mở với học viên để tạo tình cảm thầy trò thông qua hoạt động dạy và học, từ đó lôi cuốn học trò yêu thích môn học hơn. Ngoài ra, giảng viên có thể nâng cao nhận thức của học viên về tầm quan trọng của ngoại ngữ thông qua việc động viên, khuyến khích học viên tự tìm những tài liệu có liên quan và phân nhóm theo chủ đề để tự họ hiểu được nội dung của tài liệu và thực hành ngôn ngữ. Ngoài việc động viên khuyến khích học viên chủ động học tập, giảng viên ngoại ngữ có thể bắt buộc học viên phải có ý thức học hơn bằng cách dành thời gian kiểm tra hoặc ôn lại từ mới vào đầu hoặc cuối buổi học. Giảng viên nên định hướng cho học viên ở trên lớp và giao các nhiệm vụ cho học viên phát triển năng lực ngoại ngữ như tìm hiểu về chủ đề quân sự nhất định, đóng vai các tình huống ở doanh trại, tham gia hợp tác quốc phòng an ninh 3.8. Xây dựng, tổ chức và phát triển môi trường ngoại ngữ tốt Môi trường ngoại ngữ hay còn gọi là môi trường tiếng đóng vai trò quan trọng trong quá trình dạy và học ngoại ngữ. Khi học tập và sinh hoạt trong môi trường mà ngoại ngữ được sử dụng thường xuyên, học viên có nhiều cơ hội được sử dụng và tiếp xúc với ngoại ngữ, từ đó hình thành nên phản xạ ngôn ngữ tự nhiên hơn. Học viên cũng có cơ hội sử dụng kiến thức được trang bị, kiểm tra và đánh giá khả năng và sự tiến bộ của chính mình. Môi trường tiếng trên lớp luôn bị hạn chế về thời gian và không gian nên giảng viên chủ động xây dựng môi trường tiếng trong và ngoài giờ học để học viên có hứng thú, vui vẻ thực tập sử dụng ngoại ngữ. Việc này giúp cho học viên có cơ hội bộc lộ bản thân trong môi trường tiếng và phải tích cực tham gia để tiếp thu được những kiến thức cần thiết. Tổ chức tốt hoạt động câu lạc bộ ngoại ngữ ở đơn vị bằng các hình thức phong phú, có chất lượng, theo mô hình cấp đại đội, nhằm tăng cường trao đổi kinh nghiệm học ngoại ngữ giữa học viên với giảng viên và giữa các học viên với nhau. Giảng viên cần chủ động giao tiếp sử dụng ngoại ngữ bằng cách tăng cường các hoạt động giao tiếp trong lớp học. Giao tiếp bằng ngoại ngữ tạo điều kiện cho học viên thực sự được đặt mình vào trong môi trường tiếng, giảm bớt áp lực đối phó với học tập, vận dụng những kiến thức ngôn ngữ và những từ vựng đã nắm được để thực hành thành công giao tiếp. Từ đó, học viên càng củng cố được niềm tin, mạnh dạn hơn 60 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 v NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI để thể hiện mình và tạo được nhiều hứng thú trong học tập. Giảng viên tăng cường tổ chức hoạt động ngoại khóa, chương trình giao lưu và tọa đàm bằng tiếng nước ngoài với học viên quân sự nước ngoài hay với sinh viên từ các học viện nhà trường ngoài quân đội, tạo môi trường cho học viên giao tiếp tích cực sử dụng ngoại ngữ trong mọi hoạt động, cả trong giờ học, trong sinh hoạt và công tác tại đơn vị. Xây dựng môi trường học tập và làm việc có sử dụng ngoại ngữ, gắn yêu cầu sử dụng ngoại ngữ đối với các yêu cầu chuyên môn cụ thể, đưa kết quả sử dụng ngoại ngữ vào các đánh giá chung, nhằm tạo điều kiện động viên, thúc đẩy học viên học và sử dụng ngoại ngữ. Tóm lại, có rất nhiều biện pháp đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ với những cách tiếp cận khác nhau, trên đây chỉ là một số biện pháp cơ bản. Việc đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ đòi hỏi những điều kiện thích hợp về phương tiện, cơ sở vật chất và tổ chức dạy học, điều kiện về tổ chức, quản lý. Ngoài ra, phương pháp dạy học còn mang tính chủ quan. Mỗi giảng viên với kinh nghiệm riêng của mình cần xác định những biện pháp riêng để cải tiến phương pháp dạy học ngoại ngữ theo quan điểm phát triển năng lực ngoại ngữ của học viên. 4. KẾT LUẬN Đổi mới đồng bộ phương pháp dạy học ngoại ngữ theo hướng phát triển năng lực là yêu cầu cần thiết trong đổi mới đào tạo hiện nay tại các học viện, nhà trường quân đội. Dạy học ngoại ngữ cần hướng tới phát triển cả những năng lực ngoại ngữ chung, năng lực ngoại ngữ chuyên biệt thông qua sử dụng hợp lý các phương pháp dạy học truyền thống và hiện đại được trình bày ở trên. Đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ theo hướng phát triển năng lực, phù hợp với đặc thù hoạt động quân sự chỉ đạt được kết quả cao khi các chủ thể tham gia vào các quá trình này có sự đổi mới, hoàn thiện nhận thức về quan niệm năng lực người học, triết lý dạy học, kiểm tra đánh giá theo định hướng hình thành và phát triển năng lực, áp dụng hợp lý các phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập ngoại ngữ của học viên. Đổi mới phương pháp dạy học ngoại ngữ đáp ứng chuẩn đầu ra hiện nay đòi hỏi phải sử dụng đa dạng nhiều phương pháp, kỹ thuật dạy học thuộc cả hai nhóm truyền thống và hiện đại để học viên thể hiện được năng lực ngôn ngữ của mình, cung cấp những minh chứng xác thực, đầy đủ, khách quan và kịp thời nhất về khả năng của mình trên cơ sở mục đích và mục tiêu dạy học đã xác định. Mỗi phương pháp, kỹ thuật dạy học đều có ưu, nhược điểm, không có phương pháp nào là hoàn hảo, tối ưu. Vì vậy, việc hiểu, lựa chọn, sử dụng kết hợp giữa các phương pháp dạy học để phát huy ưu điểm, khắc phục hạn chế của mỗi phương pháp là cần thiết. Dẫu chặng đường vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng với quyết tâm dạy tốt, học tốt, đáp ứng mục tiêu đào tạo ngoại ngữ hiện nay, tất cả chúng ta cần không ngừng học hỏi, tiếp tục quán triệt, xây dựng kế hoạch và thực hiện nghiêm túc Chỉ thị số 89/CT-BQP để thành công trong dạy học ngoại ngữ theo hướng phát triển năng lực, đáp ứng chuẩn đầu ra theo khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam và phù hợp với đặc thù hoạt động quân sự hiện nay./. Tài liệu tham khảo: Tiếng Việt 1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI (2013), Nghị quyết số 29-NQ/TW Hội nghị Trungương8 khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, Hà Nội. 2. Nguyễn Thị Biên (2016), Giải pháp nâng cao hứng thú của người học đối với môn Văn hóa Anh-Mỹ tại Học viện Khoa học Quân sự, Nghiên cứu Khoa học, Học viện Khoa học Quân sự 3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014), Thông tư 01/2014/TT-BGDĐT ngày 24/01/2014 ban hành Khung năng lực ngoại ngữ 6 bậc dùng cho Việt Nam, Hà Nội. 4. Bộ Quốc phòng (2016), Chỉ thị số 89/CT-BQP ngày 09/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng về một số nhiệm vụ cấp bách nâng cao chất lượng dạy và học ngoại ngữ trong các nhà trường quân đội, Hà Nội. 61KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 09 - 9/2017 NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI v INNOVATIONS IN FOREIGN LANGUAGE TEACHING APPROACHES FOR COMPETENCE DEVELOPMENT AT MILITARY UNIVERSITIES NGUYEN THU HANH Abstract: In order to meet the requirements of education reform in the direction of competence development, military universities have been making the transition in foreign language teaching programs from content-based approach to competence-based one. This article describes the most basic aspects of the current trends in teaching and learning foreign languages at military universities. Then, the paper proposes a number of measures to renovate foreign language teaching approaches with a desire to contribute ideas and scientific insights to promote learners’ language competence at military universities. Keywords: competence, foreign language, teaching approaches, military universities. Received: 14/7/2017; Revised: 18/8/2017; Accepted for publication: 30/8/2017 5. Đặng Trí Dũng (2016), “Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ tại Học viện Khoa học Quân sự góp phần thực hiện hiệu quả công tác đối ngoại quốc phòng trong tình hình mới”, Tạp chí Khoa học Ngoại ngữ Quân sự, Số 01/05-2016. 6. Bùi Sơn Hà (2016), “Mấy vấn đề rút ra qua thí điểm giảng dạy bằng tiếng Anh ở Trường Sĩ quan Thông tin”, truy cập 2/12/2016, < vi/nghien-cuu-trao-doi/may-van-de-rut-ra-qua-thi- diem-giang-day-bang-tieng-anh-o-truong-si-quan- thong-tin/9519.html>. 7. Lê Thị Tuyết Hạnh,(2012), “Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục – đào tạo Việt Nam – Đề xuất một số biện pháp từ nhận diện thực tiễn giáo dục”, Tạp chí Giáo dục, Kì 1, Số 281, tr. 9-11. 8. Thủ tướng Chính phủ (2008), Quyết định 1400/ QĐ-TTg về việc phê duyệt Đề án “Dạy và học ngoại ngữ trong hệ thống giáo dục quốc dân giai đoạn 2008-2020”, Hà Nội 9. Trung tâm nghiên cứu Tâm lý học và Giáo dục học – Viện KHGD Việt Nam (2014), “Giáo dục theo hướng tiếp cận phát triển năng lực người học”, Kỷ yếu hội thảo, tháng 11/2014. Tiếng Anh 10. Davies, P., and Pearse, E. (2000), Success in English teaching, Oxford University Press: Oxford. 11. Richards J. C. and Rodgers, T. S. (1968), Approaches and methods in language teaching, Cambridge University Press: London. 12. Scrivener, J. (2011), Learning Teaching, Macmillan: Oxford. 13. Simon, M. C. and De Altamirano, Y. B. (2004), Campaign English for the Military (3 levels), Macmillan, London.
File đính kèm:
- doi_moi_phuong_phap_giang_day_ngoai_ngu_theo_dinh_huong_phat.pdf