Nghiên cứu chính sách quốc tế hóa của một số quốc gia và gợi ý chính sách cho giáo dục Việt Nam
Abstract: The aim of this study is to learn experience of countries having universities in top 50 of
the Times Higher Education (THE) according to Asia University Rankings 2018 so that there are
policy implications for Vietnam on the internationalization strategy for higher education. By
analyzing THE’s public data, research papers and reports of reputable international organizations,
this study suggests some lessons from Asian countries on several aspects. Firstly,
Internationalization strategies and investment should be concentrated on several top long-lasting
domestic universities under the competition and accountability mechanism. Secondly, countries
and universities should focus on enhancing the system supporting and promoting research at an
international level. Thirdly, the university system should be established in the direction of
multidisciplinary universities in order to combine teaching - researching - technology transfer and
international publication.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu chính sách quốc tế hóa của một số quốc gia và gợi ý chính sách cho giáo dục Việt Nam
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 60-64 60 NGHIÊN CỨU CHÍNH SÁCH QUỐC TẾ HÓA CỦA MỘT SỐ QUỐC GIA VÀ GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO GIÁO DỤC VIỆT NAM Nguyễn Trọng Hoài - Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 05/04/2018; ngày sửa chữa: 20/04/2018; ngày duyệt đăng: 27/04/2018. Abstract: The aim of this study is to learn experience of countries having universities in top 50 of the Times Higher Education (THE) according to Asia University Rankings 2018 so that there are policy implications for Vietnam on the internationalization strategy for higher education. By analyzing THE’s public data, research papers and reports of reputable international organizations, this study suggests some lessons from Asian countries on several aspects. Firstly, Internationalization strategies and investment should be concentrated on several top long-lasting domestic universities under the competition and accountability mechanism. Secondly, countries and universities should focus on enhancing the system supporting and promoting research at an international level. Thirdly, the university system should be established in the direction of multidisciplinary universities in order to combine teaching - researching - technology transfer and international publication. Keywords: Internationalization policy, Vietnamese education. 1. Mở đầu Times Higher Education (THES) - một tờ báo chuyên nghiên cứu các vấn đề liên quan đến giáo dục bậc đại học, có trụ sở tại thủ đô London của nước Anh - đã xếp hạng 1.000 trường đại học trên toàn thế giới. Riêng ở châu Á, THES xếp hạng 359 trường đại học (so với 298 trường năm 2017) thuộc 25 quốc gia và vùng lãnh thổ. THES đánh giá chất lượng trường đại học thông qua 13 chỉ số, được chia thành 05 nhóm: 1) Giảng dạy; 2) Nghiên cứu; 3) Ảnh hưởng của nghiên cứu qua trích dẫn; 4) Triển vọng hợp tác quốc tế; 5) Thu nhập nhờ chuyển giao tri thức. Triết lí của THES là đánh giá cao sự nỗ lực quốc tế hóa của các trường đại học, thể hiện qua tỉ lệ chiếm 67,5% trong tổng các nhóm chỉ số công bố quốc tế các kết quả nghiên cứu, khả năng trích dẫn toàn cầu từ công bố quốc tế và triển vọng quốc tế hóa từ cộng đồng sinh viên và giảng viên đại học. Thông qua nghiên cứu của các nhà khoa học ở trong và ngoài nước về năng lực công bố quốc tế của các trường đại học Việt Nam, nhìn từ hoàn cảnh lịch sử của hệ thống đại học Việt Nam và từ kết quả công bố của THES (2018), đã cho thấy, chưa có trường đại học nào nằm trong top 300 trường đại học hàng đầu châu Á. Với bối cảnh đó, các nhà hoạch định giáo dục cũng như hệ thống đại học ở Việt Nam luôn đặt ra câu hỏi là tại sao Việt Nam vẫn chưa đạt được những thành tựu xếp hạng như các trường đại học ở châu Á mặc dù đã có nhiều nỗ lực từ Chính phủ và cả hệ thống đại học. Nghiên cứu này đặt ra tiếp cận ngược lại với các bên liên quan hiện nay về xếp hạng đại học với câu hỏi: Bằng các thông lệ tốt nhất nào mà các quốc gia có nhiều trường đại học thuộc top 50 châu Á; rà soát chính sách quốc tế hóa của các quốc gia có trường đại học thuộc nhóm 50 trường đại học hàng đầu châu Á theo xếp hạng của THES, từ đó đúc kết những thông lệ có giá trị nhằm đóng góp cho chiến lược quốc tế hóa hệ thống đại học Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của bài viết là 04 quốc gia có trường đại học trong nhóm 50 trường đại học hàng châu Á theo xếp hạng năm 2018 của THES, cụ thể là: Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Các quốc gia này được lựa chọn phân tích dựa trên một số tiêu chí: - Đây là các quốc gia tiêu biểu trong bảng xếp hạng đại học châu Á của THES. Từ năm 2013 đến nay, cả 04 quốc gia này đều duy trì sự ổn định về số lượng trường đại học trong top 50 châu Á. Không chỉ về mặt số lượng mà thứ hạng của các trường đại học trên cũng ổn định qua các năm; - Về mặt địa lí, Hàn Quốc và Nhật Bản đại diện cho khu vực Đông Bắc Á, Trung Quốc đại diện cho khu vực Đông Á và Singapore là đại diện tiêu biểu của khu vực Đông Nam Á. Đây là những khu vực có nhiều đặc điểm tương đồng với Việt Nam về điều kiện tự nhiên, văn hóa - xã hội và thể chế/chính trị; - Về chính sách: 04 quốc gia trên đã đạt được những thành công nhất định thông qua các chính sách đầu tư và phát triển một số trường đại học ngang tầm khu vực và trên thế giới. Với những thành công của các quốc gia này, Việt Nam cần học tập kinh nghiệm để có thể áp dụng vào điều kiện thực tiễn của nước ta. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Những thông lệ quốc tế hóa của các quốc gia có trường đại học thuộc nhóm 50 trường đại học hàng đầu châu Á VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 60-64 61 2.1.1. Chiến lược quốc tế hóa có đầu tư mục tiêu vào các trường đại học có lịch sử lâu đời và tiềm năng nghiên cứu Các quốc gia này hầu hết đều có chiến lược, dự án, chương trình quốc tế hóa với mục tiêu hướng đến việc thúc đẩy các trường đại học có uy tín, tiềm năng trong nghiên cứu về nguồn nhân lực học thuật, khả năng thu hút sinh viên, có danh tiếng và lịch sử hình thành lâu đời. Mục tiêu của chiến lược là thúc đẩy các trường đại học này trở thành trường đại học danh tiếng trên thế giới về nghiên cứu và giảng dạy. Singapore đã triển khai chương trình “World-Class Universities” vào những năm 1990- 2000 nhằm tập trung phát triển hai trường đại học lớn là Đại học Quốc gia Singapore và Đại học Công nghệ Nanyang có uy tín về giảng dạy và nghiên cứu [1]. Trung Quốc đã triển khai các dự án 211, dự án 985 và dự án “Double First Class” với mục tiêu phát triển một số trường đại học trọng điểm có tiềm năng nghiên cứu thành đại học tầm cỡ thế giới tiêu biểu như: Đại học Thanh Hoa, Đại học Bắc Kinh, Đại học Giao thông Thượng Hải,... Hàn Quốc triển khai Dự án Brain Korea 21 theo nguyên tắc “lựa chọn và tập trung” nhằm đầu tư cho các trường đại học có tiềm năng nghiên cứu, hướng đến đẳng cấp quốc tế như Đại học Quốc gia Seoul [2]. Ở Nhật Bản, dự án Global 30 tăng cường mạng lưới liên kết quốc tế giữa các trường đại học trong nước và trường đại học có uy tín, học thuật cao trên thế giới để chia sẻ tài nguyên giáo dục [3]. 2.1.2. Nâng cao tính cạnh tranh và trách nhiệm giải trình đại học Nhằm nâng cao tính cạnh tranh và trách nhiệm giải trình của các trường đại học trong quá trình quốc tế hóa, chính phủ của các quốc gia này đã và đang triển khai các hoạt động sau: 1) Mở cửa, hợp tác với các trường đại học danh tiếng trên thế giới; 2) Nâng cao tính tự chủ về học thuật và quản lí của trường đại học trong nước. Sự có mặt của các trường đại học hàng đầu thế giới sẽ gia tăng tính cạnh tranh giữa các trường đại học trong nước về chất lượng giáo dục và nghiên cứu, tăng tính quốc tế cho hệ thống giáo dục đại học. Đồng thời, việc áp dụng cơ chế tự chủ và nâng cao trách nhiệm giải trình tạo điều kiện cho các trường đại học xây dựng chiến lược quốc tế hóa phù hợp để triển khai hiệu quả hơn. - Hợp tác đào tạo với các trường đại học danh tiếng trên thế giới. Theo kinh nghiệm của Singapore, Chính phủ quốc gia này đã triển khai quốc tế hóa giáo dục thông qua chương trình “World-Class Universities”, với hoạt động thu hút các cơ sở giáo dục uy tín trên thế giới mở chi nhánh tại Singapore. Năm 1998, Hội đồng phát triển kinh tế (Economic Development Board) tiến hành kế hoạch thu hút các trường đại học đẳng cấp thế giới như: Viện Công nghệ Massachusetts, Đại học Johns Hopkins và Viện Công nghệ Georgia. Các cơ sở giáo dục nước này được tạo điều kiện mở các chi nhánh giáo dục/đào tạo tại Singapore (Trường kinh doanh Wharton của Đại học Pennsylvania mở chi nhánh năm 2000, Đại học New South Wales mở chi nhánh năm 2007). Chính cơ chế mở cửa này đã tạo ra sự cạnh tranh giữa các trường đại học trong và ngoài nước, hình thành hệ thống giáo dục đại học của Singapore thành 03 phân tầng đại học, gồm: 1) Các trường đại học ưu tú; 2) Trường đại học trong nước như: Đại học Quốc gia Singapore, Đại học Công nghệ Nanyang và Đại học Quản lí Singapore (SMU); 3) Các trường đại học tư nhân. Sự hình thành phân tầng này đã cho thấy các trường đại học nằm trong nhóm 1 và 2 là các trường có khả năng quốc tế hóa cao về các phương diện nghiên cứu và giảng dạy học thuật theo đẳng cấp quốc tế. - Nâng cao tính tự chủ học thuật và trách nhiệm giải trình. Từ năm 2005, chính phủ Singapore tạo cơ chế cho Trường Đại học Quốc gia Singapore và Đại học Công nghệ Nanyang có thẩm quyền và quyền tự chủ trong lĩnh vực tài chính và quản trị, nhưng phải tuân thủ khung chính sách quốc gia về giáo dục đại học. Mặc dù có quyền tự chủ cao nhưng các trường đại học vẫn có trách nhiệm giải trình và báo cáo chính phủ về hiệu quả hoạt động. Theo chính sách này, Trường Đại học Quốc gia Singapore và Đại học Công nghệ Nanyang hoạt động theo cơ chế công ty đại học và hoạt động theo chiến lược và chương trình riêng, sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn. Nguồn tài trợ cho hoạt động của các trường đại học này được đầu tư từ Chính phủ Singapore. Đến năm 2006, Trường Đại học Quốc gia Singapore đã trở thành công ty cổ phần dưới sự giám sát của chính phủ [4]. Kết quả của chính sách này là thay vì trực tiếp tham gia vào hoạt động quản lí của đại học, Chính phủ chỉ đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá và giám sát chất lượng giảng dạy và nghiên cứu của các trường đại học được đầu tư có mục tiêu là trở thành một trường đại học đẳng cấp thế giới. 2.1.3. Thu hút các học giả danh tiếng quốc tế hình thành nhóm nghiên cứu mạnh Nhằm gia tăng tính quốc tế và chất lượng của hoạt động nghiên cứu khoa học, chính phủ của các quốc gia có trường đại học trong nhóm 50 trường đại học hàng đầu châu Á đã triển khai cơ chế tài trợ, thu hút các học giả danh tiếng quốc tế có năng lực nghiên cứu mạnh. Không chỉ dừng lại ở việc xây dựng cơ sở hạ tầng, các dự án quốc gia còn có chính sách hỗ trợ và khuyến khích các nhà khoa học hàng đầu thế giới hợp tác nghiên cứu với các nhà khoa học trong nước. Đây là tiền đề để thành lập các nhóm nghiên cứu mạnh, tài năng, có năng lực nghiên cứu và đổi mới, sáng tạo cao theo hướng lan tỏa VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 60-64 62 từ các học giả uy tín nước ngoài đến các nhà nghiên cứu tại các cơ sở đại học trong nước, bao gồm nhóm giảng viên ưu tú và các nhà nghiên cứu trẻ đang làm nghiên cứu sinh. - Tại Trung Quốc: Chính phủ triển khai dự án 985 với mục tiêu là phân bổ nguồn vốn lớn cho một số trường đại học nhằm xây dựng trung tâm nghiên cứu mới, tổ chức hội thảo quốc tế và thu hút giảng viên/học giả quốc tế [5]. Cụ thể, giai đoạn 1 của dự án tập trung nguồn vốn vào xây dựng cơ sở hạ tầng của trường đại học phục vụ cho nghiên cứu khoa học. Giai đoạn 2 xây dựng nền tảng cho công tác đổi mới sáng tạo trong khoa học và kĩ thuật, triết học và khoa học xã hội. Giai đoạn 3 của dự án chú trọng thành lập các nhóm tài năng và cải thiện năng lực đổi mới sáng tạo trong nước. Ngoài ra, dự án “Double First Class” cũng là nỗ lực mới nhất của chính phủ nhằm khuyến khích trao đổi học thuật và hợp tác khoa học chặt chẽ với các tổ chức quốc tế [6]. Đây là những hoạt động thể hiện sự đầu tư mạnh mẽ từ nhà nước nhằm khuyến khích các nhà khoa học nước ngoài có năng lực nghiên cứu hợp tác với các nhà khoa học trong nước, tạo ra tính lan tỏa quốc tế. - Tại Hàn Quốc: Bộ Giáo dục Hàn Quốc triển khai dự án World - Class University (WCU) (2008-2013) nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và nghiên cứu đại học thông qua việc mời và hợp tác với các nhà nghiên cứu nổi tiếng thế giới và có tầm ảnh hưởng lớn trong giới nghiên cứu. Dự án WCU có 03 hoạt động chính gồm: 1) Thành lập các trung tâm nghiên cứu; 2) Mời các nhà khoa học làm việc toàn thời gian; 3) Mời các nhà khoa học nổi tiếng thế giới. Đối với hoạt động 1, dự án WCU tài trợ 1,1 tỉ đôla Mĩ để mời các giáo sư toàn thời gian người nước ngoài và người Hàn Quốc cùng thành lập trung tâm nghiên cứu. Đối với hoạt động 2, dự án WCU tài trợ 358 triệu đôla Mĩ để kết hợp với các nhà khoa học toàn thời gian người nước ngoài vào các trung tâm nghiên cứu hiện có để học tập và hợp tác các nghiên cứu chung. Đối với hoạt động 3, dự án WCU tài trợ 121 triệu đôla Mĩ để mời các nhà khoa học nổi tiếng thế giới cùng tiến hành nghiên cứu và học tập. Các hoạt động này của dự án WCU đã đạt được những kết quả nổi trội. Số lượng bài báo khoa học tại Hàn Quốc tăng từ 827 bài năm 2009 lên 2.494 bài vào năm 2011. Sau khi tham gia dự án WCU, số lượng bài báo thuộc SCI và chỉ số IF (Impact Factor) của các bài báo đều tăng mạnh. Số lượng bài báo thuộc SCI tăng 30,2% và IF tăng 29%. 2.1.4. Tạo cơ chế hợp tác với các trường đại học có thế mạnh về nghiên cứu trên thế giới Một trong những yếu tố góp phần nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học ở bậc đại học là nâng cao tính quốc tế của các nghiên cứu đó. Điều này chỉ có thể đạt được thông qua việc hợp tác với các trường đại học có thế mạnh về nghiên cứu khoa học trên thế giới. Do đó, các dự án quốc gia của các nước như Singapore, Nhật Bản chú trọng vào việc tạo cơ chế thuận lợi để các trường đại học trong nước thiết lập mạng lưới liên kết với các trường đại học có khả năng nghiên cứu khoa học trên thế giới. Mạng lưới liên kết này được xây dựng và phát triển thông qua các hoạt động như: chương trình trao đổi và hợp tác nghiên cứu, hội thảo nghiên cứu khoa học quốc tế, chương trình đào tạo các nhà nghiên cứu tài năng. - Tại Singapore: Chương trình “World-Class Universities” góp phần cải thiện hoạt động nghiên cứu của các trường đại học ở Singapore. Các trường đại học của Singapore đã xây dựng được 15 chương trình hợp tác nghiên cứu giữa các trường đại học trong nước với 10 cơ sở giáo dục uy tín ở nước ngoài như: Viện Công nghệ Massachusetts, Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ tại Zurich, Đại học Giao thông Thượng Hải. Số lượng tiến sĩ được đào tạo trong nước tăng từ 7.522 lên 7.850 người trong giai đoạn 2011-2015, đây là lực lượng học thuật trẻ có khả năng công bố quốc tế từ các dự án hợp tác với các đối tác quốc tế có uy tín [7]. Trong giai đoạn 2006-2015, chỉ số ảnh hưởng trích dẫn khoa học của Đại học Quốc gia Singapore và Đại học Công nghệ Nanyang lần lượt là 19% và 42% [7]. - Tại Nhật Bản: Dự án Global 30 tăng cường mạng lưới liên kết quốc tế giữa các trường đại học trong nước và các trường đại học có uy tín, học thuật cao trên thế giới để chia sẻ tài nguyên giáo dục [3]. Đại học Tokyo là một điển hình của dự án này, với nỗ lực phát triển mạng lưới hợp tác nghiên cứu theo đẳng cấp quốc tế và nằm trong top 50 của xếp hạng THES. Trường Đại học Tokyo đã hình thành mạng lưới hợp tác nghiên cứu với các viện hàn lâm như Viện Công nghệ Massachusetts, Viện Công nghệ Liên bang Thụy Sĩ, Viện Công nghệ Chalmers (Thụy Điển). Mục đích của thỏa thuận hợp tác này là tăng cường các hoạt động hợp tác nghiên cứu liên ngành. Ngoài ra, Đại học Tokyo là một trong những thành viên sáng lập Hiệp hội nghiên cứu Đông Á. Đại học Tokyo còn tham gia vào các hiệp hội như: Hiệp hội các trường đại học nghiên cứu Đông Á, Hiệp hội các trường đại học Thái Bình Dương. Bên cạnh đó, Trường Đại học Tokyo đang triển khai kế hoạch tham gia vào một hiệp hội khác gồm các trường đại học nghiên cứu hàng đầu như: Đại học Tokyo, Đại học Quốc gia Singapore, Đại học Bắc Kinh, Đại học Quốc gia Australia, Đại học California, Đại học Yale, Đại học Copenhagen và Đại học Oxford nhằm trao đổi và học hỏi kinh nghiệm quốc tế trong nghiên cứu và giáo dục [8]. 2.1.5. Hình thành hệ sinh thái đại học hoàn chỉnh theo hướng đa ngành VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 60-64 63 Mục tiêu của các chiến lược quốc tế hóa giáo dục của các quốc gia không chỉ dừng lại ở việc nâng cao uy tín quốc tế của một số trường đại học trọng điểm, mà còn xây dựng các trường đại học này thành các hệ sinh thái đại học hoàn chỉnh theo hướng đa ngành, nhằm kết hợp tốt giữa giảng dạy - nghiên cứu - chuyển giao công nghệ. Các trường đại học có khả năng đào tạo đa ngành, có năng lực nghiên cứu công bố quốc tế và đạt hiệu quả cao trong việc chuyển giao công nghệ cho các ngành kinh tế của quốc gia. - Tại Singapore: Trường Đại học Quốc gia Singapore là trường đại học đa ngành hàng đầu của Singapore. Trường có 17 khoa và chương trình với khoảng 2.000 module trong mỗi học kì; một số khoa tiêu biểu như: Khoa học xã hội và nghệ thuật, Kinh doanh, Máy tính, Kĩ thuật, Luật và Y khoa. Trường triển khai chương trình du học nước ngoài liên kết với hơn 300 trường đại học hàng đầu của hơn 40 nước trên thế giới. Ngoài ra, hoạt động đổi mới sáng tạo mang lại những giá trị to lớn cho sinh viên, cựu sinh viên, giảng viên và các nhà nghiên cứu tại Trường Đại học Quốc gia Singapore [4]. Do đó, các chương trình gửi sinh viên đi du học nước ngoài tại các nước phát triển rất được chú trọng. Năm 2001, Trường Đại học Quốc gia Singapore đã triển khai chương trình du học nước ngoài để đưa những sinh viên tài năng vào thực tập tại các công ty công nghệ hàng đầu ở Thung lũng Silicon, Philadelphia, Thượng Hải, Stockholm và Bangalore. Đây được coi là bước đầu giúp Trường Đại học Quốc gia Singapore tạo sự liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp ở trong và ngoài nước nhằm xây dựng mạng lưới giảng dạy, nghiên cứu và chuyển giao công nghệ. - Tại Trung Quốc: Dự án 211, dự án 985 và dự án “Double First Class” không chỉ đặt ra mục tiêu xây dựng các trường đại học đa ngành ngang tầm thế giới mà còn tạo tiền đề để trường đại học hợp tác với các ngành công nghiệp trong và ngoài nước. Thông qua các dự án trên, chính phủ Trung Quốc mong muốn tạo mối liên hệ giữa dự án với các mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp và nền kinh tế. Chẳng hạn, dự án 211 đã sử dụng 70% nguồn vốn nghiên cứu khoa học, 96% số lượng phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia và tham gia vào 85% các dự án trọng điểm quốc gia. Đại học Thanh Hoa (ở Trung Quốc) là một trong những trường đại học đi tiên phong trong xu hướng trên. Trường đào tạo đa ngành ở cả bậc đại học và sau đại học. Ở bậc đại học, Trường có 78 chương trình khác nhau, thuộc 22 khoa với nhiều lĩnh vực như: Khoa học, Kĩ thuật, Kinh doanh, Luật, Y dược và Nghệ thuật. Ở bậc sau đại học, trường cung cấp 43 chương trình liên kết với trường đại học của các nước trên thế giới: Nhật Bản, Singapore, Bỉ, Hoa Kì, Pháp, Đức, Australia và Italia. Ngoài ra, trường còn tổ chức hàng loạt chương trình đào tạo thạc sĩ và tiến sĩ trong nước với 20 chương trình được giảng dạy bằng tiếng Anh (Tsinghua University, 2018) [9]. Một trong những nỗ lực quan trọng của Trường Đại học Thanh Hoa là thiết lập mối quan hệ hợp tác với các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Năm 1995, Đại học Thanh Hoa đã thành lập Ủy ban hợp tác đại học - doanh nghiệp và có chi nhánh tại nước ngoài vào năm 1996. Tính đến năm 2012, Ủy ban này đã giúp Trường xây dựng mối quan hệ hợp tác với 190 doanh nghiệp, trong đó có 150 doanh nghiệp trong nước và 40 doanh nghiệp nước ngoài. Các doanh nghiệp này được tạo điều kiện xây dựng trung tâm nghiên cứu - phát triển và đào tạo nguồn nhân lực tại trường đại học. 2.2. Đề xuất chính sách cho Việt Nam Thông qua chiến lược quốc tế hóa của các quốc gia Singapore, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản cho thấy, việc tập trung nguồn lực từ chính phủ qua các chương trình/dự án vào một số trường đại học được tuyển chọn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển và nâng cao thứ hạng của các trường này trên các bảng xếp hạng quốc tế. Ngoài ra, các trường đại học thuộc nhóm 50 trường đại học hàng đầu châu Á cũng có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện chất lượng giảng dạy, nghiên cứu và đáp ứng yêu cầu trong các bảng xếp hạng quốc tế, đặc biệt các nỗ lực này đều dựa vào chương trình quốc tế hóa, có mục tiêu từ cấp quốc gia. Từ kinh nghiệm của Chính phủ và nỗ lực của các trường đại học nằm trong nhóm 50 trường đại học hàng đầu châu Á theo xếp hạng của THES, các nhà hoạch định chính sách Việt Nam có thể quan tâm đến những đề xuất từ nghiên cứu này, gồm: 1) Cần có chiến lược quốc tế hóa và nguồn đầu tư cấp quốc gia tập trung vào các trường đại học có khả năng về nghiên cứu và giảng dạy, có uy tín, được hình thành từ lâu đời và mang tính lịch sử; 2) Nguồn đầu tư của chính phủ nên được thực hiện theo một cơ chế cạnh tranh, dựa vào kết quả và hiệu quả liên quan trực tiếp đến các hoạt động giảng dạy và công bố quốc tế, đặc biệt là nâng cao trách nhiệm giải trình của cơ sở giáo dục, gắn kết quả và hiệu quả với mục tiêu quốc tế hóa; 3) Hoàn thiện hệ sinh thái đại học độc lập, có tính tự chủ cao theo hướng đa ngành để từ đó, trường đại học đa ngành dưới sự hỗ trợ của chính phủ sẽ chủ động kết hợp hiệu quả giữa giảng dạy - nghiên cứu và công bố quốc tế - chuyển giao công nghệ gắn với chiến lược phát triển quốc gia; 4) Có chính sách tạo động cơ cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam về hợp tác với các trường đại học có khả năng nghiên cứu, huy động học giả khoa học danh tiếng, hình thành nhóm nghiên cứu mạnh; 5) Tạo một khung chỉ số xếp hạng trong nước theo thông lệ quốc VJE Tạp chí Giáo dục, Số 433 (Kì 1 - 7/2018), tr 60-64 64 tế để có thể định hướng cho các hệ thống đại học Việt Nam, từng bước phấn đấu bền vững về nghiên cứu và giảng dạy theo thông lệ thế giới. Tài liệu tham khảo [1] Lee, M. H - Gopinathan, S. (2008). University Restructuring in Singapore: Amazing or a maze?. Policy Futures in Education, Vol. 6(5), pp. 569-588. [2] Ministry of Education of the Republic of Korea (2005). Brain Korea 21. [3] Ministry of Education, Culture, Sports, Science and Technology (2018). Higher education in Japan. [4] Tan, C.C (2016). Asia University Rankings 2016: The pillars of National University of Singapore’s success. [5] World Education News - Reviews (2008). International Rankings and Chinese Higher Education Reform. Retrieved 2010-08-28. [6] Australia Government (2017). Implementation measures released for China’s new world-class university policy. [7] National Research Foundation (2018). Research, Innovation and Enterprise 2020 Plan. Singapore Government. [8] Ministry of Education, Culture, Sports, Science and Technology (2012). Project for Establishing University Network for Internationalization - Global 30. [9] Tsinghua University (2018). Tsinghua University: Admissions. PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC SỬ DỤNG... (Tiếp theo trang 55) Do vậy, trong quá trình dạy, giảng viên nên khuyến khích sinh viên tham gia quá trình tự đánh giá lẫn nhau và cần sử dụng các công cụ nhằm hỗ trợ cho việc theo dõi và đánh giá quá trình tự học của người học. Tài liệu tham khảo [1] Trần Đình Châu - Đặng Thị Thu Thủy (2011). Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Toán ở trường phổ thông. NXB Giáo dục Việt Nam. [2] Bộ GD-ĐT (2018). Chương trình giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể. [3] Hoàng Hòa Bình (2015). Năng lực và đánh giá theo năng lực. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 6(71), tr 21-27 . [4] Douglas D. - Agyei, Joke Voogt (2011). ICT use in the teaching of mathematics: Implications for professional development of pre-service teachers in Ghana. Education and Information Technologies, December 2011, Vol. 16, Issue 4, pp. 423-439. [5] UNESCO (2011). UNESCO ICT Competency Framework for Teachers. UNESCO, France. [6] Thái Hoài Minh - Trịnh Văn Biều (2016). Xây dựng khung năng lực ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy học cho sinh viên sư phạm Hóa học. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 7(85), tr 63-73. [7] Oduma, C. A. - Ile, Chika M. (2014). ICT Education for Teachers & ICT Supported Instruction: Problems & Prospects. Indexed African Journals Online, Vol. 8 (2) Serial No. 33, pp. 199-216. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC TRÁCH NHIỆM... (Tiếp theo trang 59) Tài liệu tham khảo [1] Phạm văn Đức - Josef Sayer - Đặng hữu Toàn - Nguyễn Đình Hòa - Ulrich Dornberg (2010). Trách nhiệm xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường. NXB Khoa học xã hội, tr 52-53. [2] Đinh Thị Cúc (2015). Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Khoa học xã hội. [3] C. Mác và Ph. Angghen toàn tập, tập 3 (1995). NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, tr 199-200. [4] Nghiêm Sĩ Liêm (2001). Vai trò của gia đình trong việc giáo dục thế hệ trẻ ở nước ta hiện nay. Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. [5] Đặng Vũ Cảnh Linh (2008). Niềm tin trong một thế giới đang biến đổi - một phân tích xã hội học về giá trị nhận thức và hành vi của sinh viên hiện nay. NXB Khoa học Xã hội. [6] Đặng Cảnh Khanh (2006). Xã hội học thanh niên. NXB Chính trị Quốc gia. [7] Trung ương hội sinh viên Việt Nam (2007). Định hướng giá trị cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay. NXB Thanh niên. [8] Nguyễn Văn Thức (2009). Vai trò của nhà nước và vấn đề trách nhiệm xã hội. Tạp chí Triết học (6/205), tr 33-36. [9] Huỳnh Khái Vinh (2001). Một số vấn đề về lối sống, đạo đức, chuẩn giá trị xã hội. NXB Chính trị Quốc gia - Sự thật.
File đính kèm:
- nghien_cuu_chinh_sach_quoc_te_hoa_cua_mot_so_quoc_gia_va_goi.pdf